Sơ đồ tư duy bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ dễ nhớ, hay nhất

Sơ đồ tư duy bài Đây thôn Vĩ Dạ Ngữ văn lớp 11 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11.

819


A/ Tác giả Tác phẩm bài Đây thôn Vĩ Dạ

I. Tác giả:

-  Hàn Mặc Tử (1912-1940), tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ra ở Đồng Hới,Quảng Bình.

-  Sớm mất cha sống với mẹ tại Quy Nhơn.

- Năm 21 tuổi ông vào Sài Gòn lập nghiệp.

-  Đi làm công chức thời gian ngắn rồi mắc bệnh phong và mất.

- Là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. 

- Sự nghiệp văn học: 

   Tác phẩm chính: "Gái quê", "Thơ điên", "Xuân như ý", "Duyên kì ngộ", "Quần tiên hội",...

II. Tác phẩm

1. Thể loại: Thể thơ thất ngôn. 

2. Hoàn cảnh sáng tác

Nằm trong tập “Thơ điên”  sáng tác năm 1938, được khơi nguồn từ mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc. 

3.  Phong cách sáng tác

- Tâm hồn thơ ông đã thăng hoa thành những vần thơ tuyệt diệu, chẳng những gợi cho ta niềm thương cảm còn đem đến cho ta những cảm xúc thẩm mĩ kì thú và niềm tự hào về sức sáng tạo của con người.

- Quá trình sáng tác thơ của ông đã thâu tóm cả quá trình phát triển của thơ mới từ lãng mạn sang tượng trưng đến siêu thực.

4. Bố cục:

– Phần 1 (khổ 1): Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.

– Phần 2 (khổ 2): Cảnh sông nước xứ Huế đêm trăng và tâm trạng thi sĩ 

– Phần 3 (khổ 3): Hình bóng khách đường xa và nỗi niềm mơ tưởng, hoài nghi. 

5. Giá trị nội dung:

- Bài thơ là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người

6. Giá trị nghệ thuật

- Hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu sức liên tưởng

B.Sơ đồ tư duy bài Đây thôn Vĩ Dạ

Hỏi đáp VietJack

C. Dàn ý phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ

1. Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế

* Nét đẹp phong cảnh thôn Vĩ trong khổ thơ đầu:

- Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ “ nhưng thực ra là một lời trách móc nhẹ nhàng và cũng là lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ.

- Cảnh nơi thôn Vĩ: Vĩ Dạ hừng Đông

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” :

       + Điệp từ nắng nhấn mạnh ánh nắng của buổi bình minh.

       + Nắng hàng cau nắng mới lên: gợi ánh nắng ấm áp trong trẻo và tinh khôi của buổi sớm mai.

“Vườn ai mát quá xanh như ngọc” :

       + Vườn ai: địa từ phiếm chỉ “ai” gợi cảm giác mơ hồ, bất định trong tâm hồn thi nhân.

       + Mướt quá: gợi sự tươi non, mượt mà của khu vườn thôn Vĩ.

       + Xanh như ngọc: nghệ thuật so sánh diễn tả sự xanh mướt được ánh nắng mặt trời của buổi sớm mai chiếu xuyên qua làm bừng sáng cả khu vườn nơi thôn Vĩ.

=> Thiên nhiên thôn Vĩ buổi sớm mai đẹp thanh khiết, trong trẻo, thơ mộng và tràn trề sức sống.

- Con người nơi thôn Vĩ: “Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”:

    + Mặt chữ điền: là biểu tượng của nét đẹp phúc hậu, hiền lành, trung thực.

   + Lá trúc chen ngang: lá trúc mảnh mai, gợi nét đẹp kín đáo, phúc hậu, dịu dàng của con người xứ Huế.

=> Câu thơ có sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người trong vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng.

=> Bốn câu thơ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng, con người mang vẻ đẹp kín đáo dịu dàng. Qua đó cũng bộc lộ tình yêu thiên nhiên, yêu người tha thiết cùng những niềm băn khoăn, day dứt của nhà thơ.

2. Cảnh sông nước xứ Huế đêm trăng và tâm trạng thi sĩ 

* Hình ảnh gió, mây, sông, trăng trong khổ thơ thứ hai: Vĩ Dạ đêm trăng

  - Không gian mênh mông có đủ gió, mây, sông, nước, trăng, hoa.

 - “Gió theo lối gió mây đường mây”: cách ngắt nhịp 4/3 gợi tả không gian gió mây chia lìa như một nghịch cảnh đầy ám ảnh của sự chia lìa, xa cách.

 - “Dòng nước buồn thiu”: nghệ thuật nhân hóa dòng sông trở thành một sinh thể mang tâm trạng gợi cảm giác u buồn. Dòng sông không thể tự buồn mà nhà thơ đã gửi nỗi buồn vào dòng sông.

 - “Hoa bắp lay”: sự chuyển động rất nhẹ, “lay” gợi nỗi buồn hiu hắt, thưa vắng.

=>  Cảnh vật được nội tâm hóa bộc lộ nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách.

 “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”:

    + Sông trăng: hình ảnh lạ, đẹp, đầy thi vị. Dòng sông tràn ngập ánh trăng vàng. Con thuyền vốn là hình ảnh có thực được nhìn qua con mắt của thi nhân trở thành một hình ảnh mộng tưởng. Thuyền đậu trên bến sông trăng để trở trăng về một nơi nào đó trong mơ. Gợi lên vẻ đẹp lãng mạn, nhẹ nhàng, tất cả đang đắm chìm trong bồng bềnh mơ mộng, như thực như ảo.

     + Đại từ phiếm chỉ “ai” gợi cảm giác mơ hồ, xa lạ, đầy ảo mộng.

- “Có chở trăng về kịp tối nay?” : câu hỏi tu từ thoảng thốt, băn khoăn, có gì đó khắc khoải, khẩn thiết. Chữ kịp khiến cho khoảng thời gian “tối nay” càng trở nên ngắn ngủi. Ta cảm nhận được sự lo sợ, một mặc cảm về hiện tại ngắn ngủi, hé mở cho ta thấy chủ thể như muốn chạy đua với thời gian.

=> Khổ thơ thứ hai đã vẽ nên một bức tranh sông Hương nên thơ, huyền ảo, phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ. Cảm xúc chuyển biến đột ngột từ niềm vui của hi vọng gặp gỡ sang trạng thái lo âu đau buồn thất vọng khi tác giả nhớ và mặc cảm về số phận bất hạnh của mình.

3. Hình bóng khách đường xa và nỗi niềm mơ tưởng, hoài nghi. 

Tâm trạng của nhà thơ qua khổ thơ cuối:

“Mơ khách đường xa khách đường xa”:

       + Mơ: trạng thái vô thức, nhà thơ đang đắm chìm trong cõi mộng.

       + Điệp ngữ “khách đường xa”: nhấn mạnh khoảng cách xa rời, chỉ là khách trong mơ.

   - “Áo em trắng quá nhìn không ra”: từ “quá” diễn tả sự choáng ngợp, thảng thốt; “nhìn không ra” cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực nữa mà là màu trong tâm tưởng.

   - “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”: câu thơ có thể hiểu theo hai nghĩa.

       + Về nghĩa thực, xứ Huế nắng nhiều, mưa nhiều nên nhiều sương khói và sương khói làm tăng thêm vẻ hư ảo, mộng mơ của xứ Huế.

       + Về nghĩa bóng, sương khói làm mờ ảo cả bóng người hay chính là tượng trưng cho một mối tình mong manh, xa vời, không trọn vẹn.

   - “Ai biết tình ai có đậm đà”: đại từ phiếm chỉ “ai” mở ra hai lớp nghĩa:

       + Nhà thơ làm sao biết tình người xứ Huế có đậm đà với mình hay không hay cũng mờ ảo như làn khói kia.

       + Người xứ Huế có biết chăng tình cảm của nhà thơ với cảnh Huế, người Huế hết sức đậm đà, thắm thiết.

=> Câu thơ thể hiện nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời đã nhuốm màu đau thương, bất hạnh. Lời thơ bâng khuâng hư thực gợi nỗi buồn xót xa trách móc.

=> Khi hoài niệm về quá khứ xa xôi hay ước vọng về những điều không thể nhà thơ càng thêm đau đớn. Điều đó chứng tỏ tình yêu tha thiết cuộc sống của một con người luôn có khát vọng yêu thương và gắn bó với cuộc đời.

D. Bài văn phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

     Trong suốt chiều dài lịch sử của nền văn học Việt Nam, chúng ta bắt gặp không ít thi nhân gửi tiếng lòng mình vào những miền đất nhớ. Dễ dàng ta có bắt gặp như trong Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, Tây Tiến của Quang Dũng hay Việt Bắc của Tố Hữu...Trong những tác phẩm ấy, những miền đất được nhắc đến tên không đơn thuần là một địa danh tuyệt đẹp trên dải đất hình chữ S mà là nơi ấp ôm tiếng lòng của người cầm bút. Hòa vào mạch nguồn cảm xúc tình yêu quê hương đất nước tha thiết, Hàn Mặc Tử - “thủ lĩnh" của trường phái thơ Loạn trong phong trào Thơ  Mới  đã mang đến thi đàn Việt Nam “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ không chỉ là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn là tiếng lòng của trái tim người thi sĩ tài hoa - bạc mệnh nhưng vẫn chưa bao giờ thôi ăm ắp tình yêu cuộc sống, yêu con người. 

Đây thôn Vĩ Dạ được Hàn Mặc Tử sáng tác vào năm 1938, tại trại phong Tuy Hòa khi chỉ còn ít thời gian nữa nhà thơ vĩnh biệt cuộc đời. Sự đau đớn về thân xác, sự cô đơn đến chỉ có trăng, hồn và tiếng thở của tạo hóa làm bầu bạn đã làm cho thi sĩ điên cuồng tìm lại những mảnh ghép đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Trong phút giây tưởng chừng như giọt cảm xúc về tình yêu người, yêu đời trong ông bị vắt cạn kiệt bởi bệnh tật thì tình cờ nhận được  bức ảnh về xứ Huế vào đêm trăng và bức thư hỏi thăm của người con gái năm xưa chàng thầm thương - Hoàng Cúc. Chính những điều đó đã gọi cảm xúc những ngày xưa ùa về, để thi sĩ viết nên Đây Thôn Vĩ Dạ. 

Bài thơ vẻn vẹn có 3 khổ thơ, nhưng chất chứa biết bao ký ức, nỗi nhớ, niềm đau, niềm tuyệt vọng của thi sĩ. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau. Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ. Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ - vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế. Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ - quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu tiên đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng.

Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh. Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rõ nồng nàn.

Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc choàng nhung xanh mịn: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẫn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn.

Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên.

Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này: Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền - khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống.

Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử - một tâm hồn đau buồn, u uất: Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tr thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong vòng đời tối tăm, bế tắc.

Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bế bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui - thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hóa thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng.

Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng.

Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa

Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.

Hay:

Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi.

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lượng trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Thuyền ai đậu đên sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tôi nay?

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời. Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo trắng quá nhìn không ra;

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu. Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế - kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói: Ai biết tình ai có đậm đà?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho "Đây thôn Vĩ Dạ" sương khói hơn, huyền bí hơn.

       "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng người. Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên, nóng hổi, lay động day dứt trong lòng người đọc.

E. Một số lời bình về tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ

"Chìa khóa" để "mở" bài thơ "Đây thôn vĩ dạ" của Hàn Mặc Tử

ĐÂY THÔN VĨ DẠ

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Lời bình của  LÊ THANH LONG

      Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ nổi tiếng của thi sĩ Hàn Mặc Tử cùng với Mùa xuân chín…

      Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có một số câu khó hiểu, nhiều nhà phê bình đã đưa ra những ý kiến khác nhau, đặc biệt câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” đã tốn nhiều giấy mực và tâm huyết của những nhà phê bình muốn làm sáng tỏ. Có những câu bị bỏ qua như “Áo em trắng quá nhìn không ra”…

      Đã có nhiều người bình bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” như bài của Mã Giang Lân (1,2), của Trần Văn Lý (3), của Trần Ngọc Hưởng (4)…Nhưng tôi vẫn chưa thỏa mãn về những bài bình đó, mặc dù bài bình của Mã Giang Lân công phu và đã sưu tầm được những tư liệu quý. Sau đây tôi xin đưa ra một số ý kiến cá nhân về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, những vấn đề chưa thấy đề cập tới và đưa ra cái “chìa khóa” mà mình dựa vào để “mở” bài thơ này.

      Thi sĩ họ Hàn làm bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ sau khi nhận được tấm bưu ảnh chụp phong cảnh bến Vĩ Dạ. Trong thư trả lời nhà thơ Quách Tấn ngày 15.4.1971 bà Hoàng Thị Kim Cúc nói rõ: Theo sự gợi ý của người em thúc bá, bạn của Hàn Mặc Tử, “để an ủi một tâm hồn vô cùng đau khổ” bà gửi cho nhà thơ một tấm bưu ảnh chụp phong cảnh có mây, nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước, kèm theo mấy lời thăm hỏi nhà thơ lúc này đang mắc bệnh hiểm nghèo, thăm hỏi nhưng không ký tên. Sau khi nhận được tấm bưu ảnh và mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc, Hàn Mặc Tử viết mấy hàng chữ gửi Hoàng Cúc: “Túc hạ , có nhận được bức ảnh: Bến Vĩ Dạ lúc hừng đông ( hay là một đêm trăng?) và mấy hàng chữ của túc hạ gửi thăm. Muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ tới mười năm xưa, thế là phúc hậu lắm rồi. Mong ơn trên xuống lộc cho túc hạ thật đầy đẫy. Và mong rằng một mùa xuân nào đấy được gặp lại túc hạ mới phỉ tình cho. Thăm túc hạ bình an vui vẻ”.

      Để hiểu rõ hơn về bài thơ, ta cần biết một vài tư liệu liên quan. Hồi làm nhân viên Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử thầm yêu, trộm nhớ một cô gái Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ Sở Đạc điền (một tình yêu đơn phương). Một thời gian sau Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì Hoàng Cúc đã theo gia đình về ở Vĩ Dạ. Thôn Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương thơ mộng.

      Bức ảnh thi sĩ họ Hàn nhận được từ Hoàng Cúc là ảnh chụp cảnh thôn Vĩ Dạ và con sông Hương. Bức bưu ảnh và mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc là nguồn cảm hứng và khơi dậy “tình yêu đơn phương” mười năm về trước để thi sĩ nẩy sinh những câu thơ tài hoa làm nên tuyệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ” (11.1939).

      Tôi xin nói ngay chiếc “chìa khóa” tôi dựa vào để “mở” bài thơ này là tấm Bưu ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc gửi thi sĩ Hàn Mặc Tử, thư của bà Cúc gửi nhà thơ Quách Tấn (15.4.1971) với mô tả của bà về tấm bưu ảnh và mấy hàng chữ thi sĩ họ Hàn gửi Hoàng Thị Kim Cúc sau khi nhận được bức bưu ảnh. Ta thử đứng ở góc độ Hàn Mặc Tử khi xem bức bưu ảnh bến Vĩ Dạ mới nhận được và dựa trên bức bưu ảnh đó để sáng tác bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, như thế sẽ hiểu được ý nghĩa sâu xa của từng câu thơ, vấn đề sẽ trở nên rõ ràng và dễ dàng hơn.

      Thi sĩ họ Hàn không chắc tấm bưu ảnh chụp “Bến Vĩ Dạ lúc hừng đông” hay “một đêm trăng?”. Nên khổ thơ đầu tiên ông tả cảnh thôn Vĩ Dạ lúc “hừng đông”:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

      Khi nhận bức bưu ảnh của người “yêu trong mộng” gửi đến , thi sĩ họ Hàn chắc là mừng lắm, trong thâm tâm mong mỏi có một lời mời. Tấm bưu ảnh này có phải là một lời mời “ngầm” không?: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhưng thực ra đó chỉ là câu tự vấn lòng mình (thi sĩ biết rằng chẳng có một lời mời nào cả): “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” đi?  Để: “ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên / Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc”.

 “Nắng mới lên” không phải là nắng buổi sáng hàng ngày, mà sau suốt một mùa đông lạnh giá, sang xuân những tia nắng đầu mùa hiếm hoi sưởi ấm mùa xuân, cái “nắng mới lên” đầu mùa làm cây cối nẩy mầm xanh lá, cây cối như bừng tỉnh “Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc”. Cái ý “ngầm” ở đây là sau một thời gian dài mười năm thi sĩ không nhận được  bất kỳ một tin tức nào của “người yêu trong mộng tưởng”, trái tim nhà thơ dường như đã “băng giá”  như mùa đông dài lạnh lẽo và bây giờ nhận được tấm bưu ảnh “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Cái “nắng mới lên” ấm áp ấy bừng dậy trong lòng, sưởi ấm trái tim muôn vàn đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần của thi sĩ, một hy vọng mới mẻ, mơ hồ, thức dậy trong tâm hồn dường như đã bị “đóng băng”.

      Tiếp câu thơ sau: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” thì lạ quá. Đang tả những hàng cau thẳng tắp, nắng mới chiếu lên lấp lánh trên những tàu lá, “vườn ai” đó xanh “mướt” “như ngọc”, cái “lá trúc” ở đâu mà lại “che ngang mặt chữ điền”. Vì câu thơ này mà nhiều nhà phê bình đã tốn bao giấy mực, tâm huyết để phân tích, tìm hiểu nó. Có người cho rằng “mặt chữ điền” là gương mặt tác giả đang “thập thò” nhìn ngắm “Vườn ai” bị “lá trúc che ngang” (“Vườn ai” là từ mở đầu của câu thơ: “Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc”). Có người cho rằng “mặt chữ điền” là chữ “điền’ vẫn được khắc lên ở cổng nhà và bị “lá trúc che ngang”. Có người cho rằng Hàn Mặc Tử chiết tự chữ “điền”. Có người bình luận: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” là có con người xuất hiện, thiên nhiên bỗng trở nên sinh động hẳn lên. Cảnh đẹp, người đẹp.

      Theo tôi, câu thơ này đơn giản thôi, nó không phức tạp như chúng ta từng suy đoán, nếu chúng ta chú ý đọc kỹ nội dung tấm bưu ảnh Hoàng Cúc mô tả và mấy dòng trả lời Hoàng Cúc của Hàn Mặc Tử.  Đồng thời chú ý đến từ “Nhìn” trong câu “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”.Tại sao lại “nhìn”? Ai nhìn? Tất nhiên là thi sĩ họ Hàn rồi. Vì ông tự vấn mình: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?/ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Không biết thi sĩ họ Hàn đã bao giờ đến thôn Vĩ Dạ chưa? Hay ông chỉ “nhìn” vào tấm bưu ảnh mà tưởng tượng ra tất cả? Cứ cho là như thế đi. “Nhìn” vào bức bưu ảnh không thấy “người yêu trong mộng” mà ông mong mỏi ao ước muốn thấy, nhưng chỉ thấy “một khóm tre” trước mặt “che ngang”, nên ông đã dùng hình ảnh rất “thơ” để diễn tả điều đó: “Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc / Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Điều này cho thấy một nỗi nhớ nhung da diết muốn thấy hình ảnh “nàng” đến mức như thế nào? Ta muốn “nhìn” thấy hình bóng “em”, nhưng trước mặt ta đã bị “lá trúc che ngang” mất “hình bóng em”, mọi thứ đã bị một tấm màn vô hình chắn ngang mất rồi! Trong trường hợp “cụ thể” của Hàn Mặc Tử lúc đó chỉ có thể nói “xa xôi” như vậy thôi.

      Khổ thơ thứ hai là những câu thơ triết lí về cuộc đời:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay;

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

     Lẽ thường “mây” phải theo “gió”, gió thổi mây bay, nhưng đó là trường hợp mây gió gần nhau, cặp kè bên nhau. Còn ở đây “gió” một phương “mây’ một nẻo, xa nhau vời vợi, nên “gió theo lối gió, mây đường mây”. Mỗi người một phương trời, mỗi người do hoàn cảnh, nên phải đi theo những hướng khác nhau mà cuộc đời tạo nên. “Em” “theo lối” “em”, “anh” theo “đường” “anh”. Cảnh đời thật trớ trêu. Buồn thật! “Dòng nước” trong tấm bưu ảnh “em” gửi cũng “buồn thiu”, chỉ thấy “hoa bắp lay” phơ phất.

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

      Đọc hai câu thơ này, một lần nữa cho thấy thi sĩ Hàn Mặc Tử đã nhìn vào tấm bưu ảnh để sáng tác bài thơ. Bây giờ trong tâm tưởng thi sĩ họ Hàn cảnh vật trong tấm bưu ảnh ở bến Vĩ Dạ là một đêm trăng, chứ không phải lúc hừng đông. Như trong mấy hàng chữ ông gửi Hoàng Cúc: “Túc hạ, có nhận được bức ảnh: “Bến Vĩ Dạ lúc hừng đông (hay là một đêm trăng)”… “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” thì rõ rồi. Đó là chiếc đò ngang với cô chèo đò, có mây nước trong tấm bưu ảnh. Còn câu “Có chở trăng về kịp tối nay?” là “chở trăng về” đâu? Và “chở” ai? “Trăng” là ai? “Trăng” là đặc trưng của thơ họ Hàn không lẫn vào đâu được, ông viết về trăng rất hay, trăng trong thơ ông biến ảo vô cùng. Ông là “thi sĩ trăng”, thơ ông có rất nhiều bài viết về trăng như: Uống trăng, Đà Lạt trăng mờ, Sáng trăng, Trăng vàng trăng ngọc, Ngủ với trăng, Say trăng, Rượu trăng, Trăng tự tử, Chơi trên trăng, Một miệng trăng, Một nửa trăng, Vầng trăng, Ưng trăng…

Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!

Ai mua trăng tôi bán trăng cho

                                                       (Trăng vàng trăng ngọc)

 

Ta đuổi theo trăng

Trăng bay lả tả ngã lên cành vàng

Tới đây là tôi được gặp nàng

                                               (Rượu trăng)

Đêm qua trăng vướng trong cành trúc

Cô láng giềng bên chết thật rồi

                                                 (Cô gái đồng trinh)

Tôi ưng quá! Tôi ưng nàng,

Nàng xa xa lắm, ơi nàng Trăng ơi!

                                                                            (Ưng trăng)

“Trăng” là “nàng”, là “em”, là “người yêu trong mộng” của thi sĩ. Bây giờ ta biết “trăng” là ai rồi.“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở trăng về kịp tối nay?”. “Chở trăng về kịp tối nay”cho ai? Còn ai vào đây nữa, “chở trăng về”, chở “em” về cho “người thơ”, cho thi sĩ họ Hàn chứ còn ai nữa.

      Đến khổ thơ thứ ba, khổ thơ cuối cùng:

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Mộng và đời, mơ và thực cứ hòa quyện với nhau trong khổ thơ này. Một giấc “mơ” xa vời, vô vọng, đau đớn, “mơ” về người “yêu trong mộng” ở thôn Vĩ Dạ xa xôi, “mơ” một cuộc gặp mặt với “khách đường xa”. Thi sĩ “mơ” về cái thời “nàng” còn là học sinh “áo trắng”, lúc mới gặp “em” cách đây mười năm. “Áo em trắng quá” là nói về thời học sinh trong trắng, tinh khiết, lóng lánh như pha lê của “nàng”, mà thi sĩ trong lòng vẫn “tôn thờ” bấy lâu nay. Nhưng “Áo em trắng quá nhìn không ra” là sao? Tại sao “Áo em trắng quá” lại “nhìn không ra? Thi sĩ “nhìn không ra” cái gì? Thực ra lúc này thi sĩ đang nhìn bức bưu ảnh, trên bức bưu ảnh Hoàng Cúc gửi tặng, thi sĩ họ Hàn chỉ nhìn thấy cô lái đò, mà hình ảnh thi sĩ muốn thấy là “nàng” thì lại không “nhìn” thấy, “nhìn không ra”. Tại sao không có hình ảnh “em” trong bức bưu ảnh này, anh “nhìn” không thấy “em’. “Ở đây” (ở trong bức bưu ảnh) “sương khói mờ nhân ảnh”, “sương khói” của cuộc đời, của trầm luân kiếp người, của những thăng trầm, chìm nổi, cảnh đời đau khổ, hình ảnh con người mờ mịt trong “sương khói”, trong nỗi ly tán, trong đau khổ, dằn vặt,  hình ảnh của “em” cũng mờ mịt, xa vời…

“Ai biết tình ai có đậm đà?”, chỉ là một “mối tình đơn phương” của chàng “thi sĩ đa tình”, chẳng có ước hẹn, không hẹn hò, đã mười năm trôi qua, thế mà vẫn tự vấn lòng mình, hỏi mình, hỏi người: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. “Tình yêu đơn phương” càng tha thiết, càng nặng lòng, thì càng đau khổ thất vọng đến khốn khổ.

      Để hiểu đến tận cùng của bài thơ là điều không dễ dàng gì. Bài thơ khép lại, để lại trong lòng người đọc một nỗi buồn man mác, xen lẫn xót xa, cảm phục và cũng thật buồn cho số phận con người.

Bài viết liên quan

819