Sơ đồ tư duy Hạnh phúc của một tang gia dễ nhớ, hay nhất

Sơ đồ tư duy bài Hạnh phúc của một tang gia Ngữ văn lớp 11 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11.

517


A/ Tác giả Tác phẩm bài Hạnh phúc của một tang gia

I. Tác giả:

- Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939), sinh ra ở Mỹ Hào, Hưng Yên nhưng lớn lên và sinh sống tại Hà Nội.

- Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó và sớm mồ côi cha, nên ông phải thôi học 

- Khoảng năm 1937 – 1938, Vũ Trọng Phụng mắc bệnh lao, nhưng không có điều kiện để chạy chữa. Ông mất tại Hà Nội.

- Văn chương Vũ Trọng Phụng thể hiện thái độ căm phẫn đối với xã hội “chó đểu”.

- Ông là cây bút trào phúng bậc thầy, một trong những đại biểu xuất sắc của xu hướng văn học hiện thực.

II. Tác phẩm

1. Thể loại: 

Tiểu thuyết. 

2. Xuất xứ tác phẩm. 

- Tiểu thuyết “Số đỏ” được viết và đăng báo năm 1936, in thành sách năm 1938.

- Đoạn trích thuộc chương XV của tiểu thuyết này.

3. Bố cục: 3 phần. 

- Phần 1 ( Từ đầu đến…. cho Tuyết vậy): Niềm vui và hạnh phúc của các thành viên khi cụ tổ qua đời.

- Phần 2 ( Tiếp đến... đám cứ đi): cảnh đám ma gương mẫu.

- Phần 3 ( Còn lại): Cảnh hạ huyệt.
4. Tóm tắt

Cụ cố Hồng - cụ tổ đã chết. Dường như đây là một tin vui đối với đám con cháu trong nhà vì khi cụ tổ chết , cái chúc thư sẽ được thực hiện, gia tài kếch xù mới được chia cho đám con cháu. Gia đình cụ Hồng lo chuẩn bị đám tang cho cụ tổ, đám con trong nhà sôi sục đợi đến giờ phát phục đưa tang để thực hiện mong muốn khoe khoang tiền tài, sau khi được phát lệnh tang, chúng sung sướng thỏa thích tưng bừng đi đưa giấy cáo phó. Đó chỉ là hình thức khi người mất còn mỗi người đều có một niềm vui riêng. Trong đám tang, cụ Hồng ung dung hút điếu thuốc phiện đăm chiêu, không chút đau buồn, vợ chồng Văn Minh bề ngoài phân vân nhưng thực chất vợ Văn Minh còn đang nghĩ đến những bộ áo tân thời để phô trương, Văn Minh đang suy tính đền ơn cho Xuân tóc đỏ vì gây ra cái chết cho cụ cố Hồng. Cậu Tú Tân bề ngoài như điên người lên nhưng thực chất cậu đang chờ đợi được dùng chiếc máy ảnh mới, Phán mọc sừng sung sướng vì có được thêm tiền. Xuân tóc đỏ tuy là tội nhân gây ra cái chết nhưng lại là nhân vật trung tâm , là ân nhân của đám con cháu. Khi chuẩn bị hạ huyệt, mọi sự giả tạo được phơi bày. Tổ chức rất phô chương, hoành tráng không thiếu một thứ gì nhưng người tham dự đám tang lại không để ý đến người đã khuất. Bạn cụ Hồng mải khoe huân chương, hai tên cảnh sát sung sướng vì có việc làm, trai thanh gái lịch đến hò hẹn, những tiếng khóc phô trương giả tạo. Cậu Tú Tân luộm thuộm bắt từng người một hoặc chống gậy, khóc,.. để chụp ảnh, ông Phán Mọc Sừng thì khóc mãi không thôi như thực chất là sự giả tạo. Khi Xuân tóc đỏ đến, Phán Mọc Sừng dúi vào tay Xuân năm đồng bạc gấp làm tư vì nhờ ơn Xuân, cụ cố tổ mới chết và đám tang mới diễn ra hoành tráng đến vậy.

5. Giá trị nội dung:

- Qua đoạn trích tác giả phê phán mạnh mẽ bản chất giả dối và sự lố lăng đồi bại của xã hội thượng lưu ở thành thị những năm trước cách mạng

6. Giá trị nghệ thuật:

- Ngòi bút trào lộng, nghệ thuật châm biếm sâu sắc bén qua cái nhìn độc đáo, sâu sắc của tác giả.

7. Ý nghĩa nhan đề.

- Nhan đề xuất hiện như một sự châm biếm, mỉa mai : tang gia mà lại hạnh phúc

- Nhan đề thể hiện sự đối lập, mâu thuẫn tạo nên tiếng cười bi hài: Một bên là sự tang thương, mất mát đáng lẽ phải đau buồn lại song hành với hạnh phúc, niềm vui.

=> Nhan đề đã dự báo một màn hài kịch sắp diễn ra với nhiều nghịch lí và những pha “cười ra nước mắt”.

B.Sơ đồ tư duy bài Hạnh phúc của một tang gia

Hỏi đáp VietJack

C. Dàn ý phân tích bài Hạnh phúc của một tang gia

1. Niềm vui và hanh phúc của các thành viên khi cụ tổ qua đời.

a. Nguyên nhân

- Cụ tổ mất, di chúc được thực hiện

- Mọi người được thỏa mãn ước nguyện bấy lâu

b. Những hạnh phúc khác nhau

- Hòa trong niềm vui cung bầy con cháu chí hiếu của cụ tổ mỗi người lại có niềm vui riêng:

   + Người có dịp diễn trò già yếu, phô trương thanh thế gia đình

   + Kẻ có cơ hội quảng bá sản phẩm

   + Kẻ khoe tài chụp ảnh

- Vậy nên khi có lệnh phát phục ban ai ai cũng sung sướng thỏa thích

⇒ Cả tang gia mỗi người một niềm vui chẳng ai quan tâm đến người chết đang nằm kia

c. Niềm vui hạnh phúc tràn cả ra ngoài

- Xuân Tóc Đỏ uy tín tăng thêm

- Các nhà cải cách Âu hóa có dịp lăng xê trang phục

- Cảnh binh sung sướng vì có việc làm

- Bạn bè cụ cố Hồng khoe huân chương, râu ria

- Đám giai thanh gái lịch ve vãn hẹn hò, tỏ tình đủ kiểu

⇒ Qua việc miêu tả đám ma với những niềm hạnh phúc ngập tràn tác giả đã vạch trần cái bộ mặt giả dối của xã hội đương thời, chạy theo lợi nhuận nhu cầu cá nhân, hủy diệt đi tình người, đạo lí truyền thống của dân tộc

2. Cảnh đám ma gương mẫu

* Không khí: Hỗn loạn

- Như một đám hội, đám rước

- Tổ chức linh đình theo cả lối Tây, tầu, ta: “có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng….”

* Các nhân vật trong đám tang

- Trong đám ma cụ Tổ, cô Tuyết mặc bộ trang phục Ngây thơ để cả thiên hạ biết cô chưa đánh mất chữ trinh.

- Xuân tóc đỏ khiến cụ Tổ chết lại được chào đón trịnh trọng.

- Cậu Tú Tân thể hiện trình độ chụp ảnh bằng cách nhảy lên những ngôi mộ khác.

- Sư cụ Tăng Phú vênh váo vì sẽ có người nghĩ cụ có chiến công hiển hách “lật đổ Phật giáo”.

Đám con cháu là ê kíp đạo diễn, diễn viên, nhiếp ảnh tài ba.

“Đám cứ đi” và nam nữ cứ “chim nhau, cười tình với nhau”.

3. Cảnh hạ huyệt.

- Cụ cố Hồng mếu máo khóc ngất đi “Hứt, hứt, hứt”

- Ông Phán mọc sừng rúi tiền vào tay Xuân tóc đỏ.

=> Đám tang trở thành trò diễn bịp bợm, lố bịch và lố lăng, đồi bại.
 ⇒ Qua việc miêu tả đám ma với những niềm hạnh phúc ngập tràn tác giả đã vạch trần cái bộ mặt giả dối của xã hội đương thời, chạy theo lợi nhuận nhu cầu cá nhân, hủy diệt đi tình người, đạo lí truyền thống của dân tộc.

⇒ Đám người đã phơi bày đầy đủ bộ mặt bỉ ổi của cái xã hội thượng lưu đang mang danh Âu hóa, chúng hiện nguyên hình là những kẻ khốn nạn, những tên chó đểu trong một xã hội chó đểu.

D. Bài văn phân tích Hạnh phúc của một tang gia

        Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trước những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế ki XX. Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt gây ấn tượng là chương Hạnh phúc của một tang gia.

       Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến chừng nào, ấy vậy mà lại hạnh phúc. Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chân thực, hợp lí. Ở đám tang cụ Tổ, mọi người đều vui như Tết: con cái, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết. ai cũng thấy đây là một dịp may hiếm có để thoả mãn một nguyện vọng, một ý đồ nào đó.

     Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lưu, quý phái, văn minh, tân tiến nhưng thực chất lại là những cặn bã, quái thai của cái xã hội ở Tây dở ta buổi ấy.

Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công những tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết, phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ.

       Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Thay vào sự tiếc thương, cái chết của cụ đã đem đến cho họ niềm vui to lớn không che giấu nổi - một "hạnh phúc": Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm ai cũng vui sướng thoả thích. Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma. Tang gia ai cũng vui vẻ cả.

        Cậu tú Tân, cháu nội cụ Tổ hào hứng, phấn khởi thật sự vì cậu có dịp trổ tài sử dụng cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Văn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ được mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mấn trắng viền đen. để quảng cáo cho một kiểu đồ tặng mới lạ của cửa hàng Âu hoá vừa mới chế ra.

     Còn người con trai cả của cụ Tổ thì sung sướng vì một lí do khác lớn hơn. Cụ cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen: úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa. Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có lấy một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) lại khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và con rể thêm một số tiền vài nghìn đồng. Chính ông không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế!

      Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt xuyên suốt hoạt cảnh này. Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay. Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay. đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đưa đám nghiêm nghị, thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ, trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo: kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tai, rộn rã của lốc bốc xoảng.

     Đám ma cụ Tổ trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hóa mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh - sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typn. Cô Tuyết cháu gái cụ Tổ với bộ y phục ngây thơ khá hở hang và nét mặt cố tạo ra một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà có đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn. ai oán, não nùng. Bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh cũng làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ.

         Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến đám bạn bè, quan khách của tang chủ, đi đưa đám không phải để chia buồn mà là cốt khoe ngực đầy những huy chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh.. trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loàn quản.Đám phụ nữ quý phái, đám trai thanh gái lịch đang theo đuổi, học đòi phong trào Âu hoá, vừa đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau. Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những chuyện ấy bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma (!) Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.

        Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai, chua chát!

     Đằng sau sự phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh đến trơ trẽn của bọn người giàu sang, hãnh tiến và bao trùm lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lừa mình và lừa người.

    Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm họa trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma - đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức loè loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giống nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.

      Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mấy trăm con người và gây ấn tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo Gõ mõ. Điều này khiến cho bà cố Hồng càng thêm sung sướng: Ấy, giả không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi. Còn cô Tuyết, người yêu của Xuân Tóc Đỏ cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.

      Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Vũ Trọng Phụng tả nó như một vở kịch mà bận tay dàn dựng của đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn: cậu Tú Tân bắt từng người phải chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt. để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng: ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hức! Hức! Hức. Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra, cụ Tổ chết ông ta rất mừng vì được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà cô vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông Phán dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc năm đồng gấp làm tư. để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước họ hàng nhà vợ, nhờ đó mà ông ta có thêm được một món tiền lớn.

     Tóm lại. qua chương "Hạnh phúc của một tang gia", Vũ Trọng Phụng thể hiện xuất sắc tài kể chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Cái tài của tác giả "Số đỏ" là đã phóng đại những bức chân dung biếm họa, những cảnh đời lố lăng theo thủ pháp của nghệ thuật trào phúng làm cho người ta cười mà thấy được bao sự thật chứa đựng ở trong đó. Chuyện kể đầy kịch tính với bao sự phi lí đến ghê người đã lật tung cái mặt nạ của bọn đạo đức giả !

    Tiếng cười trong "Số đỏ" là tiếng cười châm biếm có giá trị tố cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cố Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy con cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của xã hội nhuốm màu sắc "Âu hóa" kệch cỡm.

Bài viết liên quan

517