nguyễn hà
Kim cương đoàn
5,000
1000
Câu trả lời của bạn: 20:48 17/01/2022
- Chính trị: tình trạng bất ổn định, chiến tranh liên miên. Đất nước bị chia cắt kéo dài.
- Xã hội: đời sống nhân dân đói khổ, lầm than, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt => bùng nổ nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân.
Câu trả lời của bạn: 20:33 17/01/2022
là vua Lê chúa Trịnh
Câu trả lời của bạn: 20:21 17/01/2022
Chính sách quốc phòng, ngoại giao.
a. Chính sách quốc phòng:
- Sau chiến thắng Đống Đa, nền an ninh và toàn vẹn lãnh thổ vẫn bị đe doạ
- Tiếp tục thi hành chế độ quân dịch: ba suất đinh lấy một suất lính.
- Tổ chức quân đội bao gồm bộ binh, thuỷ binh, tượng binh và kị binh; có chiến thuyền lớn.
b. Chính sách ngoại giao:
- Đối với nhà Thanh: mềm dẻo nhưng kiên quyết bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc.
- Phía Nam: Nguyễn Ánh tìm cách đánh ra Quy Nhơn; Quang Trung quyết định mở cuộc tấn công lớn, tiêu diệt hoàn toàn lực lượng Nguyễn Ánh ở Gia Định. Kế hoạch đang tiến hành thì Quang Trung đột ngột từ trần (16/9/1792). Quang Toản lên kế nghiệp, nhưng từ đó nội bộ triều đình Phú Xuân suy yếu dần.
Câu trả lời của bạn: 19:51 17/01/2022
Nhà sử học Lê Văn Hưu đã đánh giá :"Tiền Ngô vương có thể lấy quân mới nhóm hợp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể bảo là một cơn giận mà yên được dân, mưu cũng giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi hoàng đế và đổi niên hiệu nhưng mà chính thống của nước Việt ngõ hầu đã nối lại được".
1230-1322
Câu trả lời của bạn: 19:48 17/01/2022
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng cả ta và địch đều cố nắm giữ, nhưng do nhận định sai hướng tiến công của ta nên địch tập trung ở đây lực lượng mỏng, bố phòng sơ hở. Căn cứ vào đó Bộ Chính trị chọn Tây Nguyên là hướng tiến công chiến lược đầu tiên cho chiến dịch giải phóng miền Nam.
→ Đó là toàn bộ những nhân tố tạo sức mạnh, bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ý nghĩa lịch sử Thắng lợi rất to lớn của Tây Nguyên là thắng lợi của sự chỉ đạo chiến lược, chiến dịch rất tài tình sáng tạo; thể hiện chất lượng chiến đấu cao, sức mạnh chiến đấu lớn của các lực lượng vũ trang giải phóng; là thắng lợi của cả 3 mũi tiến công quân sự, nổi dậy của quần chúng và vận động binh sĩ địch; là kết quả của sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các hướng trong chiến dịch.
→ Chiến thắng Tây Nguyên mở ra một cục diện hết sức tốt đẹp tạo nên thời cơ mới vô cùng thuận lợi cho quân và dân miền Nam xốc tới tiến công và nổi dậy thần tốc, mãnh liệt liên tiếp tiêu diệt các lực lượng sừng sỏ của địch, giải phóng toàn bộ vùng đồng bằng ven biển chiến lược miền Trung, lập nên thắng lợi cực kỳ to lớn của miền Nam anh hùng.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 19:30 17/01/2022
Đồng bào Thái ưa sự thênh thang, thoáng đãng, do vậy mỗi bản của họ thường chỉ vài ba chục nóc nhà. Nhà người Thái là nhà sàn, rộng và cao, nhiều gian, lắm cột; nhà có hai chái, mỗi chái có một sàn sân, mỗi sàn sân có một cầu thang. Chái nhà người Thái trắng (Táy đón) hình vuông, còn chái nhà người Thái đen (Táy đăm) hình mai rùa. Nhà người Thái trắng có khá nhiều điểm gần với nhóm Tày - Nùng. Còn nhà người Thái đen lại gần với nhà của các cư dân nhóm Môn - Khơ me. Tuy vậy, nhà người Thái đen lại có những nét đặc trưng không thấy ở nhà của cư dân Môn - Khơ me. Bộ khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ kháng và khay điêng. Kết cấu vì nhà kiểu khay điêng là vì nhà kiểu khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa (kiểu vì nhà này gần giống với kiểu vì nhà của nhóm Tày - Nùng). Cách bố trí sinh hoạt của nhà người Thái đen khá độc đáo, các gian đều có tên riêng. Từ xa xưa, kiểu dáng chái nhà của người Thái đen đã từng là đề tài cho một câu chuyện cổ tích khá thú vị (đó là chuyện “tụp cống”, đại ý từ cái mai con rùa gợi ý cho con người kiểu mái nhà). Mỗi đầu ngôi nhà truyền thống của người Thái đen có gắn một bộ khau cút, gồm hai thanh gỗ chạm khắc hình rồng, đan chéo nhau theo thế giao long, cùng đâm vút lên trời.
Bà con dân tộc Thái có nhiều kinh nghiệm trong việc chinh phục nguồn nước tự nhiên, các công trình thuỷ lợi như mương phai, ống máng, guồng cọn, lái lịn hoặc máy cán bông và cối gạo nước... là những bằng chứng cho kết luận trên. Sản phẩm tiêu biểu và đặc sắc của nền nông nghiệp Thái là cơm lam, nếp cẩm, nếp tan; toàn những thứ đã thơm lại dẻo, đã dẻo lại bùi. Hầu hết mọi phụ nữ Thái đều thành thạo các công việc trồng bông, kéo sợi, ươm kén, chăn tằm, dệt vải, nhuộm chàm... Với chất liệu bông sợi, thổ cẩm Thái đã đạt đến trình độ kỹ thuật cực kỳ tinh xảo: rực rỡ và sang trọng trong phối màu, mềm mại và tao nhã trong đường nét hoa văn; mát vào mùa hạ, ấm vào mùa đông. Không chỉ riêng dân tộc Thái mà dân tộc nào cũng thích, không chỉ người Việt Nam mà khách du lịch nước ngoài cũng thích. Tại một số địa bàn vùng sâu, các cô gái Thái thường lên rừng bóc lấy vỏ cây xo xe (cây tươi), mang về giã nát, lọc lấy bột để pha nước gội đầu (và cả tắm). Theo kinh nghiệm dân gian con gái gội đầu bằng nước bột cây xo xe, tóc sẽ dài, mượt và đen; tắm bằng nước vỏ cây xo xe làn da sẽ thơm, trắng mịn và hấp dẫn hơn.
Về tín ngưỡng, đối tượng thờ cúng cơ bản của dân tộc Thái là tổ tiên, trời đất, bản mường. Theo quan niệm của đồng bào, người ta không chết mà chỉ “chuyển” cuộc sống nơi trần ai (cõi khổ) đến một nơi cực lạc (vui sướng) khác. Ở đó con người sẽ được đầy đủ hơn về vật chất, thư thái hơn về tinh thần và thanh cao hơn về phẩm giá... Xứ sở kỳ diệu ấy là Mường Trời, tức Mường Then (chính tên gọi Mường Thanh của Điện Biên bây giờ, là do đọc trệch hai chữ Mường Then mà ra). Tại nhiều địa phương, người Thái còn tổ chức một thứ nghi lễ trang nghiêm với quy mô cả bản tham gia, đó là lễ cầu mùa, đón tiếng sấm; ý nghĩa gần giống như hội Lồng tồng của dân tộc Tày ở vùng cao Việt Bắc. Hầu hết các bậc cao tuổi người Thái cho rằng trong thế giới siêu hình không hề có thần phật, mà chỉ có ma tà và ma tà ngự trị ở khắp mọi nơi: trên đỉnh núi, dưới thung sâu, ngoài bìa rừng, cạnh gốc cây đầu bản... Và cuối cùng, khủng khiếp hơn cả là giống ma cà rồng túc trực ở ngay gầm sàn của mỗi gia đình, đêm đêm rình hút máu người(!)
Lễ đón nhận Bằng chứng nhận di tích văn hóa cấp tỉnh “Xên Mường Thanh” của dân tộc Thái, ngày 25/5/2018 tại UBND phường Thanh Trường, TP. Điện Biên Phủ.
Cho tới nay, về trang phục, những gì còn lại để làm nên bản sắc dân tộc Thái, đều tập trung ở người phụ nữ. Một bộ nữ phục truyền thống của người Thái gồm 4 thứ chính: piêu, xửa cỏm, xỉn và thông (khăn, áo ngắn, váy và túi). Bấy lâu, có lẽ vì lý do tế nhị nên chúng ta thường tránh nói nhiều, nói kỹ về bộ váy áo người Thái, bởi nó liên quan trực tiếp đến những đường cong gợi cảm và tuyệt mỹ nơi cơ thể chị em. Chỉ biết rằng, trên thực tế, một phụ nữ Thái dù được học hành tới đâu và có làm đến chức vụ gì đi chăng nữa thì, họ vẫn giữ cho mình tối thiểu một bộ trang phục truyền thống của dân tộc mình. Trong đó, dĩ nhiên là có chiếc xửa cỏm (áo ngắn) với hai hàng phạ khau (cúc bướm) lấp lánh ánh bạc, mang hình những chú bướm cách điệu hoặc mô phỏng đường nét của những loài cây (rau dớn) vốn được sinh ra từ chốn sơn thôn. Riêng chiếc piêu Thái thôi cũng đã là nguồn cảm hứng sáng tạo cho hàng loạt các tác phẩm hội hoạ, âm nhạc và nhất là văn học; cả văn xuôi lẫn văn vần, cả văn học viết lẫn văn học truyền miệng.
Dân tộc Thái có một nền văn hoá - văn nghệ đồ sộ và lâu đời, phong phú về thể loại, sâu sắc về nội dung. Chữ khắp (hát) vừa là danh từ để gọi, vừa là động từ để tả. Nhân dân lao động Thái có thể hát ở mọi nơi, vào mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh: hát đối đáp, hát mời rượu, hát lên nương, hát then, hát trong đêm xoè, hát trên sàn Hạn Khuống... Người Việt Nam, hẳn ai ai cũng đã hơn một lần được nghe bài hát Inh lả ơi với chất liệu dân ca Thái mượt mà, sâu lắng, mang âm hưởng của núi rừng Tây Bắc. Người Thái có hàng chục điệu dân vũ (có tài liệu nói 36 điệu) khác nhau, như: Múa xoè, múa chuông, múa khăn, múa chai, múa chọi gà, múa hái hoa, múa chèo thuyền, múa bật bông... Nhưng, hấp dẫn nhất là các điệu múa quạt, múa nón và múa sạp; đó là những điệu múa từng giành nhiều huy chương vàng tại các hội diễn trong nước và các cuộc thi quốc tế. Cùng với các bài dân ca và các điệu dân vũ, là sự góp mặt tất yếu của các nhạc cụ dân tộc. Nhạc cụ Thái, tựu trung, có thể chia làm 3 nhóm lớn: bộ gõ, bộ dây và bộ hơi. Xung quanh cây đàn tính (tính tẩu) với vai trò giữ nhịp, là các loại chiêng trống, các kiểu pí pặp, các dạng đàn môi...
Là một dân tộc có chữ viết riêng, nên nền văn học Thái có cơ hội để phát triển mạnh mẽ và có điều kiện để giữ gìn bản sắc của mình. Đó là các truyện cổ tích, thần thoại, ngụ ngôn; các trường ca, truyện thơ; các bài ca dao, đồng dao; các câu thành ngữ, tục ngữ... có nội dung bao trùm lên muôn mặt đời sống xã hội và đời sống con người, cả đời sống vật chất lẫn đời sống tâm linh. Đỉnh cao là thiên tình sử Xống chụ xon xao với độ dài 1.846 câu thơ trau chuốt, giàu hình ảnh; đã được đưa vào chương trình giảng dạy văn học trong nhà trường phổ thông. Ngoài Xống chụ xon xao còn có nhiều tác phẩm xuất sắc khác, như: Tản chụ xiết xương, Tản chụ xống xương, Tóng đón am ca, Táy pú xấc...
Câu trả lời của bạn: 19:26 17/01/2022
Các chiến công
- Lật đỡ chính quyền họ Nguyễn
- Chống quân xâm lược Xiêm
- Tiêu diệt họ Trịnh
- Tây Sơn đánh tan quân Thanh
Quân Tây Sơn thu được nhiều chiến công như vậy vì có tướng tài là Quang Trung, nhân dân đồng lòng giúp nghĩa quân và nghĩa quân luôn có ý chí đánh tan quân xâm lược
Ý nghĩa: xóa bở ranh giới của cả nước, giữ vững chủ quyền dân tộc ,lật đổ các chính quyền ,bộ máy thối nát nhà Nguễn, họ Trịnh
Câu trả lời của bạn: 19:25 17/01/2022
Về kinh tế:
- Nông nghiệp:
+ Công cụ bằng sắt ngày càng được sử dụng phổ biến trong sản xuất nông nghiệp cũng như đời sống.
+ Công cuộc khai hoang, mở rộng diện tích trồng trọt được đẩy mạnh.
+ Các công trình thủy lợi được xây dựng.
⟹ Năng suất cây trồng tăng hơn trước.
- Thủ công nghiệp, thương mại:
+ Kĩ thuật rèn sắt phát triển.
+ Việc khai thác vàng, bạc, châu ngọc trong nhân dân được đẩy mạnh, đồ trang sức được gia công tinh tế.
+ Xuất hiện một số nghề thủ công mới: làm giấy, làm thủy tinh,…
+ Nhiều tuyến đường giao thông được hình thành phục vụ mục đích giao lưu, buôn bán.
* Về văn hóa, xã hội:
- Nhân dân ta biết tiếp nhận và “Việt hoá” những yếu tố tích cực của nền văn hoá Trung Hoa như ngôn ngữ, văn tự.
- Mâu thuẫn bao trùm trong xã hội là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chính quyền đô hộ phương Bắc.
* Nguyên nhân của sự chuyển biến: là do các chính sách cai trị, bóc lột của chính quyền đô hộ đối với nhân dân ta và tinh thần quyết tâm giữ vững nền độc lập về văn hóa của nhân dân ta.
Câu trả lời của bạn: 19:24 17/01/2022
Cao trào giải phóng dân tộc từ 1918 đến 1923
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười 1917 ở Nga thắng lợi, cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết thúc đã mở ra một thời kỳ phát triển mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Tiếng vang của Cách mạng tháng Mười Nga đã vượt qua biên giới của nó, tác động mạnh mẽ đến hầu khắp các quốc gia – dân tộc trên hành tinh. Trong đêm dài đen tối đầy bất công của chế độ: phong kiến, tư bản thực dân, nhất là quan những năm tháng khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), nhân dân ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, những người phải chịu đựng nhiều tai họa nhất của chiến tranh đã tìm thấy ở Cách mạng tháng Mười những niềm hi vọng to lớn, đối với mình, thúc đẩy họ vùng dậy đấu tranh giành quyền sống, giành độc lập dân tộc.
1. Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc ở châu Á
Châu Á là vùng đông dân cư nhất, bao gồm những nước có lãnh thổ lớn với nguồn tài nguyên thiên nhiên hết sức phong phú. Từ cuối thế kỷ XIX, các nước châu Á đã trở thành những nước thuộc địa, nửa thuộc địa và là thị trường chủ yếu của các nước đế quốc Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản, Hà Lan…
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước châu Á lên cao và lan rộng hơn cả so với châu Phi và Mĩ la tinh.
Ở Trung Quốc, ngày 4-5-1919, phong trào cách mạng rộng lớn chống chủ nghĩa đế quốc đã bùng nổ, mở đầu cho cuộc cách mạng dân chủ mới tiếp diễn trong suốt 30 năm sau đó. Phong trào Ngũ Tứ đã thúc đẩy phong trào công nhân Trung Quốc nhanh chóng kết hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin và dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1921.
Năm 1921, cuộc cách mạng nhân dân Mông Cổ thắng lợi. Đến năm 1924, nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở châu Á được thành lập. Với sự ủng hộ và giúp đỡ của giai cấp vô sản Nga, nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ đã đứng vững và từng bước tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm 1918 - 1922, nhân dânẤn Độđã tăng cường đấu tranh chống thực dân Anh. Nhiều cuộc bãi công lớn của công nhân với hàng chục vạn người tham gia, kéo dài hàng tháng, đã lan lộng khắp cả nước. Đồng thời, phong trào nổi dậy của nông dân cũng liên tiếp bùng nổ chống lại bọn địa chủ phong kiến và đế quốc Anh.
Ở Thổ Nhĩ Kì, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 1919 - 1922 (do giai cấp tư sản lãnh đạo) đã kết thúc thắng lợi. Ngày 29-10-1923, chế độ cộng hòa được thiết lập Thổ Nhĩ Kì có điều kiện để trở thành một nước tư sản có chủ quyền và bước vào thời kì phát triển mới.
Năm 1919, nhân dân Ápganixtan thu được thắng lợi trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, buộc đế quốc Anh phải công nhận quyền độc lập chính trị của mình. Cũng vào năm 1919, nhân dân Triều Tiên đã nổi dây khởi nghĩa chống đế quốc Nhật Bản.
Những năm sau Cách mạng tháng Mười Nga, phong trào giải phóng dân tộc ở châu Phi và Mĩ la tinh cũng có những bước phát triển mới.
2. Phong trào cách mạng ở châu Phi
Ở châu Phi, phong trào đấu tranh mạnh mẽ nhất là ởAiCập.Năm 1918, những tiểu tổ xã hội chủ nghĩa xuất hiện ở Cairô, Alêchxanđri, Poócxait, rồi hợp nhất thành Đảng Xã hội và từ năm 1921 mang tên Đảng Cộng sản Ai Cập. Trong những năm 1918 - 1923, đã diễn ra cuộc đấu tranh giành độc lập hoàn toàn cho Ai Cập… bằng con đường hòa bình hợp pháp'', do giai cấp tư sản dân tộc khởi xướng. Bị thực dân Anh đàn áp, phong trào vẫn tiếp tục dâng cao và chuyển biến thành khởi nghĩa vũ trang trong nhiều thành thị. Công nhân xe điện, đường sắt ở Cairô, công nhân khuân vác ở Alêchxanđri, các viên chức cơ quan nhà nước đã bãi công.
Trong nhiều làng xã, tỉnh thành, các ủy ban cách mạng (mang tên gọi Xô viết) được thành lập. Nhân dân Ai Cập đã anh dũng đấu tranh nhưng do thiếu sự lãnh đao thống nhất nên đến đầu tháng 4-1919, thực dân Anh đã đàn áp được khởi nghĩa vũ trang.
Cuối năm 1921, cuộc khởi nghĩa mới lại bùng nổ. Thực dân Anh buộc phải đi đến những nhượng bộ bề ngoài. Tháng 2-1922, Chính phủ Anh phải tuyên bố hủy bỏ chế độ bảo hộ và trao trả “độc lập” cho Ai Cập. Xuntan Atmét Phuát đổi danh hiệu là vua Phuát I; tháng 5-1923, hiến pháp mới được ban hành. Tuy vậy, trên thực tế ảnh hưởng của đế quốc Anh vẫn giữ nguyên. Quân đội Anh vẫn đóng ở Ai Cập, thực dân Anh còn nắm quyền nội trị, ngoại giao và đô hộ trực tiếp vùng Xuđăng
Ở Tuynidi, phong trào diễn ra sôi nổi trong những năm 1920 – 1922.
Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ. Đồng thời giai cấp tư sản dân tộc, đứng đầu là Xaalibi, cũng dấy lên phong trào đòi hỏi những quyền lợi chính đáng cho Tuynidi. Thực dân Pháp chẳng những bác bỏ các yêu sách đó mà còn đàn áp phong trào. Lập tức làn sóng biểu tình phản đối và bãi công sôi sục diễn ra khắp cả nước. Phong trào đấu tranh chính trị lên tới đỉnh cao vào tháng 4-1922, đòi hỏi phải khẩn trương thực hiện những cải cách hiến pháp. Tháng 6-1922, chính phủ Pháp buộc phải ban hành sắc lệnh về cải cách hiến pháp ở Tuynidi. Phong trào đấu tranh vũ trang bùng lên mạnh mẽ ở nhiều vùng Marốc (thuộc Pháp) và đặc biệt Marốc thuộc Tây Ban Nha. Giữa năm 1921, các bộ lạc Rớp (thuộc Tây Ban Nha), dưới sự lãnh đạo của Ápđen Kêrim, đã đánh bại đạo quân của tướng Xinvéttôrơ gồm 12.000 binh lính với 120 khẩu đại bác. Ngày 19-9-1921, trong đại hội các bộ lạc, dưới sư lãnh đạo của Ápđen Kêrim, Cộng hòa Ríp độc lập đã ra đời và tồn tại được đến năm 1926.
Ở châu Phi nhiệt đới cũng bùng nổ phong trào đấu tranh chống đế quốc. Phong trào bãi công rộng lớn ở Nạm Phi (diễn ra trong những năm 1918 - 1920, Đảng Cộng sản Nam Phi ra đời năm 1921, Đảng Đai hội quốc dân Tây Phi thành lập năm 1920 và Đại hội toàn Phi họp năm 1919 là những sự kiện quan trọng trong phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân châu Phi. Đặc biệt, Đại hội toàn Phi lần thứ I họp năm 1919 ở Pari (có 17 Đại biểu tham dự) đã để ra nghị quyết về quyền của người Phi được tham gia cai quản đất nước, bắt đầu từ các cơ quan địa phương và dần dần đi đến những “nhiệm vụ chính quyền cấp cao để trong tương lai châu Phi phải do người Phi cai quản”.
3. Phong trào cách mạng ở Mĩ latinh
Ở Mĩ latinh, phong trào cách mạng lên cao ở nhiều nước. Trong những năm 1917 - 1921, ở Achentina đã xuất hiện cao trào đấu tranh của công nhân (riêng năm 1919 đã diễn ra 367 cuộc bãi công với 306.000 người tham gia).
Trong những năm 1920 - 1921, tại một số thành phố và các bang ở Mêhicô đã ra đời các Xô viết. Ở Braxin, làn sóng bãi công tiếp diễn trong suốt năm 1920 đã buộc chính phủ phải có một số nhượng bộ (như thực hiện chế độ ngày làm 8 giờ và nâng cao tiền lương cho công nhân một số ngành; thi hành chế độ tiền lương mới cho công nhân, thi hành chế độ trợ cấp cho công nhân bị tai nạn lao động).
Ở các nước Mĩ latinh khác, chính đảng vô sản và các tổ chức công đoàn lần lượt được thành lập nhằm lãnh đạo phong trào công nhân và nhân dân lao động chống đế quốc Mĩ và các lực lượng phản động trong nước.
Nhìn chung, cao trào cách mạng giải phóng dân tộc bùng nổ mạnh mẽ ở khắp các châu lục, tiến công vào chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong nước, đồng thời góp phần bảo vệ cách mạng Nga và nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới. Đặc điểm của cao trào cách mạng này là giai cấp vô sản non trẻ đã tích cực tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và ở nhiều nước, họ đã đóng vai trò lãnh đạo các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Trong điều kiện đó, các Đảng Cộng sản lần lượt được thành lập ở nhiều nước: Đảng Cộng sản Inđônêxia (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Aicập (1921), Đảng Cộng sản Braxin (1922), Đảng Cộng sản Cuba (1925)…
II. Phong trào giải phóng dân tộc trong những năm 1924-1929
Một đặc điểm nổi bật của phong trào cách mạng 1924 - 1929 là phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa xuống thấp nhưng phong trào giải phóng dân tộc vẫn tiếp diễn mạnh mẽ ở hầu khắp các nước châu Á, châu Phi và Mĩ latinh.
1. Ở châu Á, phong trào phát triển đặc biệt mạnh mẽ ở Trung Quốc. Những năm 1924 - 1927 là thời kì bùng nổ cuộc đấu tranh quan trọng - cuộc nội chiến cách mang lần thứ nhất.
Ở Ấn Độ, phong trào bãi công của công nhân tiếp diễn trong suốt những năm 1924 - 1927. Phong trào nông dân chống thuế, chống địa chủ tăng tô tức diễn ra mạnh mẽ vào năm 1927. Đảng Quốc đại, sau một thời gian suy giảm lực lượng, bắt đầu tăng cường hoạt động mở rộng đội ngũ.
Ở các nước Đông Nam Á, phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi. Đặc biệt ở Indônêxia, Đảng Cộng sản tích cực lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi hỏi những quyền lợi thiết thân. Năm 1925, phong trào bãi công của công nhân dâng cao. Năm 1926, nhân dân Bativia (tức Giacacta ngày nay) khởi nghĩa vũ trang. Năm 1927, khởi nghĩa vũ trang bùng nổ ở đảo Xumatơra.
Ở Việt Nam, trong những năm 20 của thế kỉ này, thông qua lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, người cộng sản Việt Nam đầu tiên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đến với nhân dân ta. Phong trào công nhân phát triển từ tự phát sang tự giác và tiến tới việc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương).
2. Ở Trung Đông và Bắc Phi, phong trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi sục, nhất là ở Xiri - Libăng và Marốc đã bùng nổ những cuộc đấu tranh vũ trang oanh liệt. Dưới sự thống trị nặng nề của thực dân Pháp, nhân dân Xiri trong những năm 1920 đến 1924 đã sáu lần vùng dậy khởi nghĩa: ở Khauran (8-1920), ở Bắc Xiri (1921 - 1925), ở vùng Giơben Đruydơ (1922- 1923) ở vùng Bêcaa (1924). Tháng 7-1925, lại một lần nữa nhân dân Xiri vùng dậy đấu tranh ở vùng Giơben Đruydơ. Cuộc khởi nghĩa do Xuntan Atratxơ lãnh đạo đã nhanh chóng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc. Vào đầu tháng 8-1925, quân khởi nghĩa đã giáng cho quân Pháp những đòn nặng nề. Cuộc chiến tranh kéo dài đến năm 1927, thực dân Pháp đã huy động lực lượng đến đàn áp, nên cuộc khởi nghĩa không tránh khỏi thất bại.
Tại Marốc thuộc Pháp, trong năm 1924 - 1926 đã diễn ra cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp rất quyết liệt. Nghĩa quân Ríp được nhân dân Marốc ủng hộ đã tiến công quân Pháp và thu đươc nhiều thắng lợi. Quân đội Pháp và quân đội Tây Ban Nha phải hợp sức tấn công mới chiến thắng được quân đội Ríp vào năm 1926. Cộng hòa Ríp bị thủ tiêu, phong trào đấu tranh của các bộ lạc Ríp thất bại.
Cuộc đấu tranh của nhân dân Xiri những năm 1925 - 1927 và cuộc đấu tranh vũ trang của Cộng hòa Ríp (Marốc thuộc Pháp) trong những năm 1925 – 1926, chống đế quốc Pháp đã nói lên tinh thần quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức và đóng góp nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Arập.
3. Ở Mĩ latinh, trong thời gian này phong trào dân tộc dân chủ đã diễn ra ở Haiti, Vênêxuêla, Côlômbia, và đăc biệt là ở Braxin và Nicaragoa.
Ở Braxin, chính sách phản động của chính phủ Bécnađét đã gây nên sự bất bình sâu sắc trong các lực lượng dân tộc dân chủ. Tháng 7-1924, một trại lính ở trung tâm công nghiệp Xan Paolô đã khởi nghĩa. Đến mùa thu năm ấy, làn sóng khởi nghĩa lan rộng đến lực lượng hải quân. Ở Tây – Nam Braxin, quân đội dưới quyền chỉ huy của đại úy Luít Cáclốt Pơretxtét đã khởi nghĩa. Cuôc đấu tranh lan rộng khắp vùng Tây-Nam. Nghĩa quân đề ra những yêu sách: tự do ngôn luận, tư do báo chí, thả tù chính trị, thực hiện bỏ phiếu kín, giải quyết nạn thất nghiệp, chia ruộng đất cho nông dân ...và đòi chính phủ Bécnađét phải thực hiện những yêu sách nói trên.
Tháng 10 – 1924, nghĩa quân của Pơretxtét bắt liên lạc được với nghĩa quân ở Xan Paolô. Nhưng cũng từ đây, chính phủ Bécnađét bắt đầu tấn công lại nghĩa quân.
Trong thời gian 2 năm (từ tháng l0-1924 đến tháng 2-1927), nghĩa quân đã vượt qua 26.000 km), đánh thắng nhiều trận. Cuối cùng, do bị hao tổn lực lượng, nghĩa quân buộc phải rút qua biên giới Bôlivia để củng cố lực lượng. Cuộc khởi nghĩa vì mục tiêu dân tộc - dân chủ này đã thức tỉnh ý thức cách mạng của nhân dân bị áp bức ở Braxin.
Ở Nicaragoa, từ năm 1924 đế quốc Mĩ thiết lập chính quyền tay sai Chamôrô và tiến hành can thiệp vũ trang vào Nicaragoa nhằm đàn áp phong trào giải phóng dân tộc ở nước này và uy hiếp phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và tay sai của nhân dân Mĩ latinh nói chung.
Các tầng lóp nhân dân đông đảo - nông dân, công nhân nông nghiệp, lao động thành thị - ở Nicaragoa đã tham gia cuộc đấu tranh dân chủ chống chính phủ phản động Chamôrô, nổi tiếng nhất là các đơn vị du kích dưới sự lãnh đạo của Angutxtô Xêxa Xanđinô bị ám sát. Tháng 4-1927, nghĩa quân uy hiếp thủ đô Managoa. Đế quốc Mĩ đã đưa quân đội vào đối phó và tìm cách phá hoại các lực lượng dân tộc từ bên trong. Những người tư sản tự do do bị mua chuộc đã thỏa hiệp với bọn đế quốc. Chỉ có một bộ phân cách mạng kiên quyết, đứng đầu là Xanđinô, tiếp tục đấu tranh vũ trang. Cuối cùng, Xanđinô bị ám sát, phong trào dân tộc dân chủ ở Nicaragoa bị đàn áp.
Nhìn chung, cao trào giải phóng dân tộc trong những năm 1924 – 1929 là một trong những nhân tố quan trọng làm cho sự ổn định của thế giới tư bản chỉ là tạm thời. Phong trào cách mạng lên cao và bị đàn áp đẫm máu, nhưng biểu hiện ý chí quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do, dân chủ của các dân tộc bị áp bức.
III. Phong trào giải phóng dân tộc và phong trào mặt trận nhân dân chống phát xít trong những năm 1929 - 1939.
Những năm 1929 - 1939 là thời kì khủng hoảng kinh tế sâu sắc và toàn diện của thế giới tư bản. Khủng hoảng kinh tế dẫn đến khủng hoảng chính trị. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và chuẩn bị gây chiến tranh thế giới.
Vào giữa những năm 30, ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc, Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân yêu nước nhằm chống bọn phản động thuộc địa, chống nguy cơ phát xít và chiến tranh xâm lược.
l. Ở châu Á, nhân dân Trung Quốc đã tiến hành cuộc đấu tranh chống nền thống trị phản động của chính quyền Tưởng Giới Thạch và cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật xâm lược, bảo vệ đất nước. Ở Ấn Độ, phong trào đấu tranh chống thực dân Anh tiếp tục phát triển rộng khắp trong những năm 1929 – 1932. Sự thành lập Đảng Cộng sản Ấn Độ vào tháng 11-1939 đã đánh dấu một bước phát triển mới của phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ.
Trên bán đảo Triều Tiên, nhân dân tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng…tiến hành cuộc đấu tranh chống Nhật.
Ở Đông Nam Á, đầu những năm 30, một số Đảng Cộng sản được thành lập, mở ra một thời kì mới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Riêng ở Việt Nam, cuộc khởi nghĩa Yên Bái tháng 2-1930 (do Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức) bị thất bại đã chấm dứt vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp tư sản dân tộc, đồng thời cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1930- 1931, mà đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ -Tĩnh, đã mở ra thời kì cách mạng Việt Nam đi theo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và chính Đảng mácxít - lêninnít của nó - Đảng Cộng sản Đông Dương. Ở Philíppin, cuộc khởi nghĩa nông dân chống ách bóc lột của địa chủ phong kiến gắn liền với cuộc đấu tranh chống đế quốc bùng nổ năm 1931 đã buộc Mĩ phải trao trả quyền tự trị cho nước này. Ở Miến Điện, phong trào khởi nghĩa nông dân được diễn ra từ cuối năm 1930 đến mùa xuân năm 1932. Đầu năm 1933, ở Inđônêxia đã bùng nổ cuộc khởi nghĩa của thủy binh trên tàu chiến Đơ Giơven Pơrôvinxien.
2. Ở châu Phi, phong trào cách mạng lên cao ở Ai Cập trong những năm khủng hoảng kinh tế. Tháng 10-1930, thực dân Anh đề ra hiến pháp nhằm tập trung toàn bộ quyền hành vào tay nhà vua thân Anh. Tháng 5-1931, cuộc bầu cử diễn ra trong tình hình quần chúng bất bình sâu sắc.
Trong cả nước đã bùng nổ cuộc bãi công chính trị, đặc biệt mạnh mẽ ở Cairô và Poóc Xít, quần chúng đã xung đột vũ trang với bọn cảnh sát và quân đội.
Ở Êtiôpi, cuộc đấu tranh anh dũng và chính nghĩa của nhân dân chống phát xít Italia xâm lược có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành phong trào chống đế quốc trên toàn lục địa Phi.
Trong các nước châu Phi nhiệt đới ở phía nam sa mạc Xahara, vào cuối những năm 20 đến những năm 39 của thế kỉ XX đã diễn ra sự tập hợp dần dần các lực lượng yêu nước và cách mạng trong cuộc đấu tranh giành được độc lập dân tộc, giành quyền sống. Mầm mống của giai cấp công nhân được phát sinh và phát triển trong nhiều nước. Quá trình hình thành giai cấp tư sản dân tộc cũng bắt đầu trong một số nước.
Liên bang Nam Phi, một thuộc địa di dân của đế quốc Anh, nước phát triển nhất về mặt kinh tế, đã có ảnh hưởng hai mặt đối với tình hình chính trị của châu Phi nhiệt đới. Bọn thống trị ở đây là người da trắng đã thi hành chế độ phân biệt chủng tộc dã man, tàn bạo nhất. Phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Nam Phi đã có ảnh hưởng tích cực đối với phong trào cách mạng châu Phi.
3. Ở Mĩ latinh, trong những năm 1929 - 1933, khủng hoảng kinh tế đã giáng một đòn nặng nề vào các nước trong khu vực này. Hàng hóa xuất khẩu truyền thống của các nước Mĩ latinh xuống giá nghiêm trọng. Nạn thất nghiệp, đói khổ lan rộng trong quần chúng nhân dân. Trong nhiều nước, cuộc đấu tranh của các lực lượng dân chủ và yêu nước được đẩy mạnh.
Ở Pêru, chính phủ thân Mĩ của nhà độc tài Lêghi bị lật đổ năm 1930, Chính phủ Xanset Xerô được các độc quyền Anh ủng hộ đã lên thay. Dưới danh nghĩa tiến hành cuộc đấu tranh chống ''chủ nghĩa đế quốc bên ngoài'', Xerô tiến hành cuộc đàn áp các lực lượng tiến bộ trong nước. Năm 1932, Xerô gây chiến tranh với Côlômbia và được Mĩ ủng hộ. Cuộc chiến tranh kéo dài gần 2 năm đã gây tổn hại cho cả 2 nước.
Mùa hè năm 1931, các cuộc đấu tranh của quần chúng ở Chilê đẫ lật đổ chính phủ độc tài thân Mĩ của Ibaniét. Phong trào quần chúng tiếp diễn đòi thiết lập chế độ cai trị theo hiến pháp, chống lại ảnh hưởng của các độc quyền Mĩ ở trong nước, đòi giải quyết nạn thất nghiệp và khắc phục tình trạng sinh hoạt đắt đỏ. Đầu tháng 9-1931, binh sĩ trong hạm đội Chilê khởi nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản, nhiều cuộc bãi công của công nhân đã bùng nổ ở những thành phố hưởng ứng cuộc khởi nghĩa. Cuối cùng, cuộc khởi nghĩa bị thất bại vì quân đội phản động tập trung sức mạnh đàn áp. Tháng 6-1932, chính phủ mới đứng đầu là Gơrôvơ được thành lập Chilê tuyên bố là nước ''Cộng hòa xã hội chủ nghĩa'', chứng tỏ mong muốn của đông đảo nhân dân Chilê về một xã hội công bằng. Nhưng các lực lượng phản động trong nước và bọn đế quốc bên ngoài đã lật đổ chính phủ Gơrôvơ. Mùa thu năm 1932, lãnh tụ Đảng Tự do là Ácturô Alêchxanđri lên làm tổng thống. Chính sách phản nhân dân của chính phủ Alêchxanđri đã gây nên làn sóng phản đối không chỉ trong quần chúng lao động, mà cả trong tầng lớp tiểu tư sản và tư sản hạng trung.
Ở Cuba, năm 1933 cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài thân Mĩ – Machađô phát triển mạnh mẽ. Đế quốc Mĩ đưa Xétpêđét, nguyên đại sứ Cuba ở Mĩ, lên thay. Phong trào đấu tranh vẫn tiếp diễn, bao gồm các tầng lớp nhân dân đông đảo, kể cả giai cấp tư sản dân tộc. Binh lính yêu nước cũng vùng dậy đấu tranh. Đầu tháng 9-1933, đã diễn ra một cuộc đảo chính tiến bộ ở Cuba. Xétpêđét bi lật đổ, chính phủ mới do giáo sư Gơrây Xan Mactin đứng đầu được thành lập. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử Cuba, một chính phủ của giai cấp tư sản dân tộc lên cầm quyền và đã thi hành một số biện pháp dân chủ, như chế đó ngày làm 8 giờ, nâng cao tiền lương công nhân, hạn chế hoạt động của một số công ti độc quyền Mĩ…Đầu năm 1934, lực lượng thân Mĩ - Batixta gây áp lực buộc chính phủ Xan Mactin từ chức và chiếm đoạt mọi quyền hành ở Cuba. Tuy nhiên cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Cuba vẫn tiếp diễn trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong những năm 1935 - 1939, ở nhiều nước Mĩ latinh. Mặt trận nhân dân đã được thành lập, tập hợp đông đảo lực lượng nhân dân trong nước: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức tiến bộ và một bộ phận giai cấp tư sản dân tộc.
Ở Mêhicô, những năm 1934 - 1939 chính phủ của giai cấp tư sản dân tộc đứng đầu là Laxarô Cácđênát - lãnh tụ cánh tả của giai cấp tư sản dân tộc, được sự giúp đỡ của Đảng Cách mạng Mêhicô (đảng của giai cấp tư sản dân tộc) đã thi hành một số biện pháp tiến bộ có lợi cho nhân dân, hạn chế ảnh hưởng của chủ nghĩa đế quốc. Năm 1935, phong trào quần chúng nhân dân rộng lớn mà lực lượng cơ bản là công nhân đã đập tan âm mưu đảo chính của lực lượng phản động trong nước. Năm 1936, Tổng liên đoàn lao động Mêhicô ra đời, tập hợp hầu hết các công đoàn trong nước để lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Trước cao trào đấu tranh của quần chúng công nông, chính phủ Cácđênát đã tuyên bố thi hành ''luật cải cách ruộng đất''. Ngày 23-6-1937, luật quốc hữu hóa các đường sắt chủ yếu được thực hiện, đưa 700 km đường sắt vào tay Nhà nước. Tháng 3-1938, Cácđênát tuyên bố quốc hữu hóa 17 công ty dầu lửa nước ngoài. Các nước tư bản Anh - Mĩ tìm cách phá hoại, bao vây kinh tế Mêhicô. Trước áp lực đó, chính phủ Cácđênát ngày càng thiên hữu và cuối cùng đã bị đổ. Tuy vậy, phong trào đấu tranh của quần chúng vẫn tiếp tục phát triển. Tháng 9-1938, theo sáng kiến của các công đoàn Mêhicô, Tổng liên đoàn Mĩ latinh được thành lập ở Mêhicô (bao gồm tổ chức công nhân trong nhiều nước Mĩ latinh) đòi độc lập dân tôc, thủ tiêu tàn tích phong kiến, xây dựng một chế độ xã hội dựa trên ''sự tôn trọng độc lập kinh tế và chính trị của mỗi nước và tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới''.
Ở Chilê, Mặt trân nhân dân ra đời năm 1936 trong cao trào đấu tranh chống chính phủ Alêchxanđri. Mặt trận bao gồm Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, những người cấp tiến và những người dân chủ, với yêu sách chủ yếu là tự do, dân chủ, độc lập dân tộc thực sự, cải thiện đời sống nhân dân lao động. Tháng 12-1938, chính phủ Mặt trận nhân dân do Péđơrô Cácđa, lãnh tụ Đảng Cấp tiến, làm tổng thống đã được thành lập. Chilê là nước đầu tiên ở Tây bán cầu có chính phủ của Mặt trận nhân dân. Chính phủ Cácđa đã thực hiện một số biện pháp tiến bộ trong nước và giữ cho Chilê khỏi rơi vào tay lực lượng phát xít.
Ở Áchentina, cuộc đấu tranh thành lập Mặt trận nhân dân diễn ra trong hoàn cảnh khó khăn: giới cầm quyền có những liên hệ chặt chẽ với nước Đức phát xít, các tổ chức phát xít hoạt động mạnh, Đảng Cộng sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Mặc dù vậy, quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo đã đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đòi dân chủ và cải thiện đời sống. Tháng 3-1936, Tổng liên đoàn lao động đã thống nhất với Liên đoàn các thủy thủ và Liên hiệp các nhân viên điện thoại. Mặt trận nhân dân ra đời trên cơ sở lực lượng của giai cấp công nhân được tập hợp lại. Trong cuộc bầu cử Quốc hội, Mặt trận nhân dân đã giành được ít nhiều thắng lợi.
Cuộc đấu tranh xây dựng Mặt trận nhân dân ở Braxin đã diễn ra dưới nhiều hình thức đấu tranh quyết liệt chống chế độ độc tài Vácgát. Năm 1934, Vácgát ban hành đạo luật an ninh nhằm thủ tiêu những dấu vết cuối cùng của nền dân chủ. Bọn phát xít Braxin đã tăng cường hoạt động khủng bố nhân dân.
Trong những năm 1934 - 1935, giai cấp công nhân Braxin đã đi hàng đầu trong cuộc đấu tranh chống phát xít và 1,5 triệu công nhân đã tham gia các cuộc bãi công. Phong trào đấu tranh tự phát của nông dân cũng phát triển. Sự bất mãn lan rộng trong cả tầng lớp tiểu tư sản thành thị.
Tháng 3-1935 theo sáng kiến của Đảng Cộng sản, Đồng minh giải phóng dân tộc được thành lập dưới sự lãnh đạo của Cáclốt Luít Pơrettéc, bao gồm công nhân, nông dân, quân nhân, nhiều nhóm tư sản dân tộc. Đồng minh tập hợp được hơn 1,5 triệu người và trở thành bức tường ngăn chặn chủ nghĩa phát xít. Ngày 5-7-1935, khẩu hiệu ''Tất cả chính quyền về tay Đồng minh'' được nêu ra. Chính phủ Vácgat ra lệnh nghiêm cấm hoạt động của Đồng minh nhưng phong trào đấu tranh của quần chúng tiếp tục dâng cao và chuyển sang đấu tranh vũ trang. Chính quyền dân tộc cách mạng được thiết lập ở Natalia, rồi ở bang Riu Gơranđiđu Noócđi. Ngày 27-11, cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Riô đê Gianêrô. Tháng 11-1937, trước ngày bầu cả tổng thống Vácgat đã làm cuộc đảo chính, giải tán Quốc hội, đặt các chính đảng ra ngoài vòng pháp luật, tuyên bố Braxin là “Nhà nước nghiệp đoàn”.
Nhìn chung, phong trào giải phóng dân tộc trong những năm 1929-1939 đã có những bước tiến so với mấy năm trước, với sự tham gia của đông đảo quần chúng công nông và các tầng lớp trung gian ở thành thị. Sự tăng cường vai trò của giai cấp công nhân là một đặc điểm của phong trào giải phóng dân tộc trong thời kỳ này. Các Đảng Cộng sản trẻ tuổi phương Đông đã chiến đấu như những chiến sĩ kiên cường vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vào giữa những năm 30 đã diễn ra phong trào đấu tranh của các lực lượng yêu nước trong Mặt trận thống nhất chống đế quốc thực dân phản động, chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hòa bình và dân chủ.
IV. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945)
Cùng với chiến thắng của các lực lượng đồng minh dân chủ, đứng đầu là Liên Xô, đối với chủ nghĩa phát xít thế giới và trong những điều kiện lịch sử cụ thể ở mỗi nước, nhân dân các dân tộc thuộc địa, đặc biệt là ở châu Á, sau những năm tháng đấu tranh gian khổ, đã giành được độc lập ở những mức độ khác nhau.
Ở Trung Quốc, cuộc chiến tranh chống Nhật kéo dài 8 năm liền (1937 - 1945) với những hi sinh to lớn của nhân dân Trung Quốc đã kết thúc thắng lợi và góp phần cống hiến không nhỏ vào cuộc chiến tranh chống phát xít của nhân dân các nước trên thế giới.
Trên bán đảo Triều Tiên, cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật của các lực lượng yêu nước đã làm suy yếu lực lương phát xít Nhật chiếm đóng, góp phần dẫn tới thất bại của phát xít Nhật trên bán đảo Triều Tiên. Quân du kích Triều Tiên, dưới sự lãnh đạo của Kim Nhật Thành, đã hoạt động mạnh mẽ ở nhiều vùng trong nước, sát cánh với quân giải phóng Trung Quốc.
Ở các nước Đông Nam Á, đã diễn ra cuộc đấu tranh mạnh mẽ chống lại sự xâm lược của phát xít Nhật và chống lại ''trật tự mới'' của phát xít Nhật (thiết lập từ năm 1940) nhằm thủ tiêu hoàn toàn nền độc lập của các dân tộc. Trong cuộc đấu tranh này, các lực lượng yêu nước chống phát xít đã tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất để hòa nhập vào phong trào dân chủ chống phát xít trên thế giới. Đồng thời, các lực lượng vũ trang cũng được thành lập ở những thời điểm khác nhau và góp phần vào việc giải phóng đất nước, tiêu diệt phát xít Nhật.
Sự thất bại của chủ nghĩa phát xít, thời điểm phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh là thời cơ ''có một không hai'', tạo ra tình thế hết sức thuận lợi cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á. Chớp lấy thời cơ đó, các dân tộc ở Đông Nam Á đã vùng dậy tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước. Tháng 8-1945, cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi. Ở Lào, ngày 23-8 nhân dân Lào nổi dậy thành lập chính quyền cách mạng ở nhiều nơi. Ngày 12-10-1945, nhân dân thủ đô Viêng Chăn khởi nghĩa giành chính quyền. Ở Inđônêxia, ngay sau khi Nhật đầu hàng, ngày 17-8-1945 Tuyên ngôn độc lập được công bố, nước Cộng hòa Inđônêxia thành lập.
V. Phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc ở Đông Nam Á (từ 1918 đến 1945)
1. Phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc từ năm 1918 đến năm 1945
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước đế quốc đều tăng cường chính sách khai thác và bóc lột thuộc địa để giải quyết những khó khăn trong nước. Tình hình đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến các nước Đông Nam Á. Đời sống nhân dân ngày càng cùng cực, mâu thuẫn dân tộc với đế quốc càng thêm sâu sắc.
Bắt đầu từ những năm 20, trong phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc ở Đông Nam Á đã xuất hiện và phát triển một xu hướng mới: xu hướng vô sản. Giai cấp vô sản trẻ tuổi ở Đông Nam Á bắt đầu bước lên vũ đài chính trị, mở ra triển vọng mới cho phong trào cách mạng ở Đông Nam Á: từ giải phóng dán tộc tiến lên giải phóng giai cấp. Điều đó không chỉ phản ánh ảnh hưởng to lớn của Cách mạng tháng Mười Nga đối với các dân tộc ở Đông Nam Á, mà còn cho thấy những biến đổi lớn lao đã diễn ra trong từng nước. Đó là sự hình thành và phát triển nền công nghiệp dân tộc, cùng với quá trình đó là sự trưởng thành của giai cấp công nhân cả về số lượng và ý thức giai cấp. Đồng thời quá trình bần cùng hoá nông dân cũng diễn ra nhanh chóng. Tất cả những yếu tố đó đã làm bùng nổ một cao trào cách mạng mới, một xu hướng mới trong phong trào đấu tranh giành độc lập ở Đông Nam Á - xu hướng vô sản. Như vậy, trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân tộc Đông Nam Á đã tồn tại và phát triển song song hai xu hướng tư sản và vô sản. Trong giai đoạn này, đã xuất hiện hàng loạt các Đảng Cộng sản trong khu vực, mở đầu là sự thành lập Đảng Cộng sản Inđônêxia (5-1920). Đảng Cộng sản Inđônêxia đã nhanh chóng trở thành một lực lượng chính trị quan trọng và là đại diện chân chính cho những nguyện vọng của nhân Inđônêxia.
Tiếp theo Inđônêxia, năm 1930 ở Đông Nam Á đã xuất hiện Đảng Cộng sản ở Việt Nam (tháng 2), ở Mã Lai và Xiêm (tháng 4), ở Philippin (tháng 11).
Ở Miến Điện, Đảng Công sản được thành lập năm 1939. Sự thành lập các Đảng Cộng sản là kết quả của quá trình phát triển phong trào yêu nước kết hợp với phong trào công nhân, tiếp nhận và vận dụng học thuyết Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của các nước Đông Nam Á. Đó cũng là hậu quả của cuộc khủng hoàng kinh tế thế giới bắt đầu từ năm 1929 làm cho mâu thuẫn vốn có giữa các dân tộc với chủ nghĩa đế quốc càng trở nên gay gắt. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động cùng những người yêu nước đã hướng về Đảng Cộng sản với nguyện vọng thiết tha là giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước. Dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động một số nước đã vùng dậy đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Nổi bật là cuộc khởi nghĩa ở Xumatơra 1926 - 1927 và sự thành lập chính quyền Xô viết ở Nghệ-Tĩnh.
Mặc dù bị thất bại nhưng những cuộc nổi dậy đó chính là sự xuất hiện trên vũ đài chính trị những cuộc đấu tranh yêu nước mang màu sắc vô sản, diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Như vậy, giai cấp công nhân dù mới ra đời cũng đã tham gia vào cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
Trong những năm 20 và 30, phong trào dân tộc tư sản đã có những bước tiến rõ rệt so với những năm đầu thế kỉ. Nếu như trước đây, những hoạt động chính trị chỉ nhằm mục đích ''khai trí để chấn hưng quốc gia'' thì đến nay mục tiêu giành độc lập được đề xuất rõ ràng: đòi quyền tự chủ về chính trị, quyền tự do trong kinh doanh, quyền dùng tiếng ''mẹ đẻ'' trong giáo dục…Nếu như trước đây mới xuất hiện các học hội hay nhóm phái mà vai trò quan trọng thuộc về những người cấp tiến trong sĩ phu phong kiến thì đến giai đoạn này đã hình thành các chính đảng có tôn chỉ mục đích rõ ràng và có ảnh hưởng xã hội rộng lớn.
Lực lượng đóng vai trò nổi bật trong phong trào dân tộc tư sản thời kì này là tầng lớp trí thức. Họ là học sinh, sinh viên, các nhà kĩ thuật, viên chức tiếp thu ảnh hưởng văn hóa nước ngoài, từ tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp đến chế độ cộng hòa của Hợp chủng quốc Hoa Kì, từ “chủnghĩa Tam dân”của Tôn Trung Sơn đến học thuyết ''bất bạo động'' của Găngđi. Họ trở thành bộ phân cấp tiến trong giai cấp tư sản và tiểu tư sản, là ngòi nổ trong những cuộc đấu tranh lớn ở Đông Nam Á.
Những tổ chức sinh viên ở Miến Điện đã dấy lên những cuộc đấu tranh đòi cải cách quy chế đại học, đòi tự trị, dẫn đến ''phong trào Thakin'' (có nghĩa là những người chủ đất nước) trong những năm 30. Tổ chức đại hội toàn Mã Lai từ đầu thế kỉ đòi cải cách Hồi giáo và dùng tiếng Mã Lai trong nhà trường, phát triển thành phong trào đấu tranh chống thực dân Anh đòi tư trị. Ở Inđônêxia, năm 1927 Đảng Dân tộc do Xucácnô đứng đầu được thành lập. Trải qua nhiều năm tháng, đến cuối năm 1939, Xucácnô đã tổ chức Đại hội nhân dân Inđônêxia bao gồm 90 đảng phái và tổ chức chính trị biểu thị sự thống nhất dân tộc, thông qua nghị quyết về ngôn ngữ (Bahasa Inđônêxia), về quốc kì (đỏ-trắng), về quốc ca (Inđônêxia Raya).
Ý chí về cuộc đấu tranh cho một quốc gia Inđônêxia thống nhất và độc lập đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh trong toàn dân ở giai đoạn tiếp theo.
Hai phong trào tư sản và vô sản cùng tồn tại ở Đông Nam Á có nhiều điểm khác biệt về ý thức hệ, về mục tiêu cuối cùng. Nhưng đứng trước mục tiêu chung là độc lập dân tộc nên cả hai phong trào đã tồn tại song song, có những lúc kết hợp với nhau trong một chừng mực nhất định. Bởi lẽ đối với nhân dân Đông Nam Á, kẻ thù lớn nhất là chủ nghĩa đế quốc, không một lực lượng cứu nước nào có thể đứng riêng lẻ hoặc chống đối lẫn nhau. Điều đó đã tạo nên những tiền đề khách quan cho sự thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn sau.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đã đưa lịch sử Đông Nam Á bước sang giai đoạn mới.
Câu trả lời của bạn: 18:44 17/01/2022
Chính quyền phong kiến phương Bắc thực hiện chính sách đồng hoá dân tộc Việt vì:
Chúng muốn biến nước ta thành lãnh thổ của chúng, biến nhân dân thành nô lệ của Trung Quốc, xoá bỏ quốc hiệu nước ta trên bản đồ thế giới
Muốn cướp đoạt lãnh thổ, sản vật quý, vải vóc, hương liệu để đưa về Trung Quốc
Muốn bành trướng sức mạnh
2/ Hậu quả chính sách bóc lột kinh tế của các triều đại phong kiến phương Bắc để lại hết sức nặng nề:
Lĩnh vực
Thông tin phản ánh
Suy luận về hậu quả
Đất đai
Chiếm ruộng đất, lập thành áp trai để bắt dân ta cày cấy.
Người Việt mất ruộng bị biến thành nông nô của nhà nước đô hộ
Thuế khóa - Cống nạp
- Áp đặt chính sách tô thuế nặng nề.
- Bắt cống nạp nhiều vải vóc, hương liệu và sản vật quý để đưa về Trung Quốc
Bóc lột sức lao động, cướp đoạt tài sản của nhân dân ta
Khiến đất nước ta đói kém, nghèo nàn, kém phát triển
Thủ công nghiệp
Nắm độc quyền về sắt và muối
- Đánh nặng thuế sắt là để nhân dân ta không có đủ cơ hội để sản xuất vũ khí chống lại chúng.
- Đánh nặng thuế muối là vì muốn nhân dân ta cơ thể ốm yếu, ngu dốt, lạc hậu giúp thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị, vì muối là thành phần thiết yếu và quan trọng trong bữa ăn
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 18:41 17/01/2022
Chế độ cai trị
a) Tổ chức bộ máy cai trị
- Nhà Triệu chia thành 2 quận, sáp nhập vào quốc gia Nam Việt.
- Nhà Hán chia làm 3 quận, sáp nhập vào bộ Giao Chỉ cùng với một số quận của Trung Quốc.
- Nhà Tùy, Đường chia làm nhiều châu. Từ sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40, chính quyền đô hộ cử quan lại cai trị đến cấp huyện (áp dụng hình thức trực trị).
- Các triều đại phong kiến phương Bắc từ nhà Triệu, Hán, Tùy, Đường đều chia nước ta thành các quận, huyện cử quan lại cai trị đến cấp huyện.
=> Mục đích của phong kiến phương Bắc là sáp nhập đất nước Âu Lạc cũ vào bản đồ Trung Quốc.
b) Chính sách bóc lột về kinh tế và đồng hóa về văn hóa
* Chính sách bóc lột về kinh tế:
- Thực hiện chính sách bóc lột, cống nạp nặng nề.
- Nắm độc quyền muối và sắt.
- Quan lại đô hộ bạo ngược tham ô ra sức bóc lột dân chúng để làm giàu.
* Chính sách đồng hóa về văn hóa:
- Truyền bá Nho giáo, mở lớp dạy chữ nho => Nho giáo chỉ có ảnh hưởng đến một số vùng trung tâm châu, quận.
- Bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục, tập quán theo người Hán.
- Đưa người Hán vào sinh sống cùng người Việt.
* Chính quyền đô hộ còn áp dụng luật pháp hà khắc và thẳng tay đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta.
Mục 2
2. Những chuyển biến về kinh tế, văn hoá và xã hội
a) Về kinh tế
* Trong nông nghiệp:
- Công cụ sắt được sử dụng phổ biến.
- Công cuộc khai hoang được đẩy mạnh.
- Thủy lợi được mở mang.
* Thủ công nghiệp, thương mại có sự chuyển biến đáng kể.
- Nghề cũ phát triển hơn: Rèn sắt, khai thác vàng bạc làm đồ trang sức.
- Một số nghề mới xuất hiện như làm giấy, làm thủy tinh.
- Đường giao thông thủy bộ giữa các quận, vùng hình thành.
=> Năng suất lúa tăng hơn trước.
b) Về văn hóa - xã hội
* Về văn hóa:
- Một mặt ta tiếp thu những yếu tố tích cực của văn hóa Trung Hoa thời Hán - Đường như ngôn ngữ, văn tự.
- Bên cạnh đó nhân dân ta vẫn giữ được phong tục, tập quán: nhuộm răng, ăn trầu, làm bánh chưng, bánh dày, tôn trọng phụ nữ.
=> Nhân dân ta không bị đồng hóa.
* Về xã hội có chuyển biến:
- Quan hệ xã hội là quan hệ giữa nhân dân với chính quyền đô hộ (thường xuyên căng thẳng).
=> Đấu tranh chống đô hộ.
- Làng xóm trở thành nơi xuất phát các cuộc đấu tranh giành độc lập.
Câu trả lời của bạn: 18:34 17/01/2022
Sự giống nhau giữa phong trào Cần Vương và khởi nghĩa Yên Thế đều là những phong trào yêu nước, tiến hành khởi nghĩa vũ trang. Hai phong trào này có sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Bên cạnh đó, phong trào Cần Vương và khởi nghĩa Yên Thế đều bị thất bại.
Sự khác nhau giữa phong trào Cần Vương và khởi nghĩa Yên Thế
Dưới đây là sự khác nhau giữa phong trào Cần Vương và khởi nghĩa Yên Thế:
Mục đích:
Phong trào Cần Vương: Chống Pháp để giành lại độc lập đồng thời khôi phục lại chế độ phong kiến.
Khởi nghĩa Yên Thế: Nhằm chống lại chính sách bình định của Pháp, muốn xây dựng cuộc sống bình đẳng và bảo vệ bản thân.
Thời gian tồn tại:
Phong trào Cần Vương: Được diễn ra từ năm 1885 – 1896, kéo dài trong 10 năm ở thời kì Pháp bình định Việt Nam.
Khởi nghĩa Yên Thế: Diễn ra từ năm 1884 – 1913, kéo dài tận 30 năm, trong cả thời kì Pháp bình định và tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất.
Lãnh đạo:
Phong trào Cần Vương: Các sĩ phu văn thân yêu nước.
Khởi nghĩa Yên Thế: Nông dân.
Địa bàn hoạt động:
Phong trào Cần Vương: Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Khởi nghĩa Yên Thế: Diễn ra trên một địa phương nhỏ hẹp phía tây bắc tỉnh Bắc Giang.
Lực lượng tham gia:
Phong trào Cần Vương: Gồm nhiều tầng lớp, trong đó có thể kể đến văn thân, sĩ phu, nông dân.
Khởi nghĩa Yên Thế: Nông dân.
Phương thức đấu tranh:
Phong trào Cần Vương: Khởi nghĩa vũ trang.
Khởi nghĩa Yên Thế: Cũng là khởi nghĩa vũ trang nhưng có giai đoạn hòa hoãn, có giai đoạn tác chiến.
Tính chất:
Phong trào Cần Vương: Phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp theo khuynh hướng phong kiến.
Khởi nghĩa Yên Thế: Phong trào nông dân mang tính tự phát.
Câu trả lời của bạn: 18:32 17/01/2022
Sau khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ngày 24-8-1945, công cuộc xây dựng chế độ mới của quân và dân Đắk Lắk đang có những chuyển biến bước đầu quan trọng thì thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Nam Bộ, đánh chiếm các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ, đồng thời chiếm đóng Campuchia và các tỉnh Nam Lào.
Tây Nguyên trở thành mục tiêu tiến công trực tiếp của quân xâm lược, trong đó Đắk Lắk là một cửa ngõ quan trọng, một bàn đạp tiến công mà từ đó địch có thể đánh chiếm Tây Nguyên và đồng bằng Trung Bộ.
Lúc này, Đắk Lắk đã ở vào vị trí bị bao vây từ 3 phía. Qua phân tích tình hình, Ban lãnh đạo tỉnh xác định quân địch có thể đánh vào Đắk Lắk theo 3 hướng: theo đường 14 từ Nam Bộ; từ Campuchia sang; theo đường 21 (nay là Quốc lộ 26) từ Nha Trang lên. Vì vậy, ta đã gấp rút triển khai xây dựng phòng tuyến và bố trí lực lượng ngăn chặn địch ở Ba ranh giới (nơi giáp giới giữa Tây Nguyên với Đông Nam Bộ và Campuchia, vùng Bu Prăng, Đắk Song, Tuy Đức hiện nay) và ở M’Đrắk - Phượng Hoàng.
Sau các đòn thăm dò, phá vỡ được phòng tuyến của ta ở khu vực Ba ranh giới, ngày 6-12-1945, quân Pháp theo đường 14 tiến đánh thị xã Buôn Ma Thuột. Mặc dù đã có phòng bị và chủ động chặn đánh địch, song trước tương quan lực lượng bất lợi, quân ta chủ động vừa đánh, vừa rút lui ra khỏi trận địa để bảo toàn lực lượng. Sau khi thị xã Buôn Ma Thuột rơi vào tay địch, Bộ Chỉ huy Khu 6 đã thành lập Ban Chỉ huy tiền phương và điều một chi đội lên để cùng với các lực lượng tại chỗ chiến đấu giữ vững mặt trận Đắk Lắk, không cho chúng mở rộng phạm vi chiếm đóng và liên lạc với quân Pháp đang bị bao vây ở Nha Trang.
Cuối tháng 1-1946, địch được tăng cường thêm viện binh nên đã đánh chiếm được hầu hết các vùng phía nam và phía tây thị xã, tiếp đó chúng cho quân lấn dần theo đường 14 về phía bắc để tiến ra Pleiku, đồng thời tập trung binh lực đánh mạnh theo đường 21 ra phía đông nhằm tiêu diệt lực lượng của ta ở vùng CADA, nơi đóng các cơ quan đầu não của tỉnh.
Cuộc chiến đấu của bộ đội, tự vệ ta diễn ra hết sức quyết liệt tại các trận địa phòng ngự dọc đường 21. Trong hơn một tháng, địch cố tình chọc thủng phòng tuyến của ta tại đây nhưng đều thất bại. Ngày 25-1-1946, quân Pháp tập trung toàn bộ lực lượng, có cơ giới yểm trợ, phá vỡ tuyến phòng ngự cuối cùng của ta trên đường 21, phòng tuyến M’Đrắk - Phượng Hoàng.
Ở hướng mặt trận Buôn Hồ, lực lượng của ta lập phòng tuyến ở chân đèo Cư Kty (trên đường 14, cách Buôn Ma Thuột 50 km) liên tiếp chặn đánh địch, bảo vệ vùng phía bắc của Đắk Lắk và cản bước tiến của chúng ra phía Pleiku. Đến ngày 23-6-1946, do mặt trận Gia Lai - Đông Bắc Campuchia bị vỡ, quân Pháp từ Pleiku đánh xuống, từ Buôn Ma Thuột đánh ra, quân ta mới rút khỏi trận địa để bảo toàn lực lượng.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân Đắk Lắk kể từ ngày bắt đầu nổ súng ở mặt trận Ba ranh giới cho đến khi vỡ mặt trận Buôn Hồ kéo dài gần 7 tháng (30-11-1945 đến 23-6-1946). Trong những ngày tháng lịch sử đó, quân và dân Đắk Lắk đã chuẩn bị và xác định quyết tâm kháng chiến ngay khi tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp vừa nổ, phát động một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, dưới nhiều hình thức. Đó là biểu hiện của lòng yêu nước, tinh thần quả cảm, truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường, bất khuất của đồng bào các dân tộc trong tỉnh, với quyết tâm “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó là cuộc chiến đấu quyết liệt ghìm chân quân địch, tạo điều kiện cho các tỉnh Gia Lai - Kon Tum và Khánh Hòa có thêm thời gian để chuẩn bị kháng chiến, làm phá sản âm mưu chiến lược đầy tham vọng của thực dân Pháp đánh bại các tỉnh miền Nam Trung Bộ trong vòng mấy tháng, chuẩn bị thực lực cách mạng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài. Trong cuộc kháng chiến 9 năm, Đắk Lắk đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề là chiến trường phối hợp, căng kéo, tiêu hao lực lượng địch, tạo điều kiện cho các chiến trường khác đánh những đòn tiêu diệt lớn, mang tính chất quyết định.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ đã mang lại hòa bình, độc lập cho một nửa đất nước ở miền Bắc, miền Nam vẫn nằm dưới sự kiểm soát của thực dân đế quốc. Trong hơn 20 năm chiếm đóng, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai đã tập trung xây dựng Đắk Lắk thành một địa bàn chiến lược trọng yếu, với nhiều thủ đoạn hòng đè bẹp ý chí cách mạng nhân dân. Nhưng quân và dân Đắk Lắk đã đoàn kết, bền bỉ đấu tranh, lần lượt đập tan các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, phối hợp với quân chủ lực lập nên những chiến công oanh liệt, mà đỉnh cao là chiến thắng Buôn Ma Thuột, mở đầu cho cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trong lịch sử chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc (1945-1975), Đắk Lắk đã hai lần được chọn làm nơi mở đầu. Đó là mở đầu cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên địa bàn Tây Nguyên; mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Tự hào về những trang sử vẻ vang của mình, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục nỗ lực, phấn đấu xây dựng Đắk Lắk phát triển toàn diện, bền vững, sớm trở thành trung tâm kinh tế – văn hóa – xã hội vùng Tây Nguyên.
Câu trả lời của bạn: 18:26 17/01/2022
Nét đặc sắc của nghệ thuật tác chiến trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785
Trận Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785 là một trong các trận thủy chiến mang lại chiến thắng lừng lẫy trên sông nước trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Bằng tài thao lược, Nguyễn Huệ đã vận dụng sáng tạo, hiệu quả các biện pháp và thủ đoạn tác chiến, giải quyết một cách mẫu mực vấn đề nghệ thuật quân sự, đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của quân Xiêm.
Nhân cớ nhận được sự cầu viện của Nguyễn Phúc Ánh, mùa Hạ năm Giáp Thìn (1784), vua Xiêm sai hai tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương thống lĩnh hai vạn thủy quân và 300 chiến thuyền vượt biển sang xâm lược nước ta. Để bảo đảm chắc thắng, vua Xiêm còn phái hai tướng Lục Côn và Sa Uyên đem ba vạn quân đánh chiếm nước ta bằng đường bộ. Các đạo quân này liên tục được tăng viện bởi quân bản bộ của nhà Nguyễn.
Tuy nhiên, những thất bại liên tiếp của quân Nguyễn trước quân đội Tây Sơn đã phần nào làm cho các tướng Xiêm thận trọng. Vì vậy, trong đợt tiến công xâm lược Đại Việt, các tướng Xiêm - Nguyễn đề ra phương châm tác chiến đánh đến đâu củng cố đến đó, vừa đánh chắc, vừa giải quyết nhanh. Thực hiện phương châm đó, sau khi phát động cuộc chiến tranh xâm lược, liên quân Xiêm - Nguyễn không đánh thẳng vào thành Gia Định ngay, mà tiến hành đổ bộ và chiếm giữ Rạch Giá, để xây dựng khu vực này thành một tiền đồn chiến lược vừa bảo đảm cung cấp lương thảo, vừa thuận lợi trong việc tiến công hoặc rút lui. Bởi vậy, dù có một lực lượng thủy quân hùng hậu và phương tiện chiến tranh lớn mạnh, song cuộc tiến công của liên quân Xiêm - Nguyễn rất chậm, trong vòng 03 tháng (từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1784), mới chỉ tiến được lên Cần Thơ, chiếm giữ đồn Ba Xác, Trà Ôn, rồi dừng lại ở Sa Đéc.
Trước sự tiến công xâm lược của giặc, tướng Tây Sơn ở Gia Định là Trương Văn Đa, một mặt đem thủy quân từ Gia Định tiến xuống Long Hồ (tỉnh Vĩnh Long ngày nay) ngăn chặn giặc; mặt khác, sai Đô úy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo rõ tình hình. Tuy không đủ sức đánh bại cuộc tiến công của liên quân Xiêm - Nguyễn bởi sự chênh lệch quá lớn về lực lượng, nhưng quân Tây Sơn luôn bám sát giặc, kiên quyết cố thủ, giữ vững Long Hồ - đối diện với căn cứ quân Xiêm - Nguyễn ở Sa Đéc, án ngữ đường tiến quân của Nguyễn Ánh và các tướng Xiêm. Tại Quy Nhơn, sau khi nhận được tin cấp báo từ Gia Định, Nguyễn Huệ cùng các tướng Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân thống lĩnh hai vạn quân Tây Sơn thiện chiến lập tức khởi binh. Khoảng đầu năm 1785, quân Tây Sơn đổ bộ và đóng quân ở Mỹ Tho. Tại đây, cùng với việc tổ chức ngay lực lượng nắm tình hình địch, Nguyễn Huệ còn đặc biệt quan tâm và tập trung nghiên cứu, đánh giá đặc điểm tình hình. Qua đó, không chỉ giúp cho vị tướng trẻ tài ba, mưu lược nắm chắc bản chất của quân xâm lược sau những thắng lợi bước đầu, nhất là mâu thuẫn gay gắt bởi sự kiêu căng, khinh mạn của quân Xiêm đối với Nguyễn Ánh và giữa nhân dân Gia Định với quân Xiêm - nhân quả của sự bạo ngược, đàn áp nhân dân, giết người, cướp của vô cùng tàn bạo của giặc, mà còn đánh giá chính xác lợi thế về địa hình - vị trí đóng quân của địch, cũng như thuận lợi, khó khăn khi ta thực hành tác chiến ở địa bàn sông nước. Đây chính là những cơ sở khoa học quan trọng để Bộ Chỉ huy quân Tây Sơn, đứng đầu là Nguyễn Huệ quyết định không tiến công thẳng vào đại bản doanh thủy quân giặc ở Sa Đéc mà kéo chúng ra khỏi căn cứ, dụ dẫn chúng đến khu vực đã lựa chọn, có lợi cho ta, bất lợi cho giặc, bí mật tập trung lớn lực lượng đánh một trận tiêu diệt toàn bộ thủy quân Xiêm - Nguyễn.
Thực hiện quyết tâm đó, trước hết, Nguyễn Huệ và Bộ Chỉ huy quân Tây Sơn đã triệt để lợi dụng địa hình thiên hiểm, bí mật tạo lập thế trận hiểm hóc đánh địch. Đây là một trong những nét nghệ thuật quân sự đặc sắc, một nguyên tắc giành thắng lợi trong tác chiến. Nếu tận dụng được địa hình, tổ chức bố trí lực lượng, phương tiện chặt chẽ, khoa học, hình thành thế trận liên hoàn, hiểm hóc, “dồn địch mà đánh, chia địch ra mà diệt”, đánh địch cả phía trước, bên sườn, phía sau, làm cho địch không biết đâu mà chống đỡ đẩy địch vào thế bị động, tinh thần hoang mang dẫn tới bị tiêu diệt. Nắm chắc được điều đó, Nguyễn Huệ đã quyết định lựa chọn sông Mỹ Tho, đoạn từ Rạch Gầm đến Xoài Mút để quyết chiến với địch. Bởi lẽ, đây là đoạn sông dài khoảng 07 km, lòng sông rộng, đủ để dồn hàng trăm chiến thuyền quân Xiêm. Đồng thời, với sự kết hợp tự nhiên giữa hai con sông nhỏ Rạch Gầm, Xoài Mút, sông Trước, sông Sau1 với địa thế hai bên bờ sông Mỹ Tho và cù lao Mỹ Sơn, tạo ra thế thiên hiểm trong hoạt động tác chiến và điều này đã được vị tướng đầy mưu lược Nguyễn Huệ phát hiện. Từ thực tế đó, Nguyễn Huệ triệt để lợi dụng sự thiên hiểm của địa hình, tạo lập thế trận mai phục hiểm hóc. Theo đó, thủy quân và thuyền chiến Tây Sơn được giấu kín trên hai sông Rạch Gầm, Xoài Mút và sông Sau; pháo binh và bộ binh được bố trí bí mật ở hai bên bờ sông Mỹ Tho và trên cù lao Thới Sơn. Với thế trận này, khi quân Xiêm - Nguyễn lọt vào sông Trước, lực lượng thủy binh Tây Sơn từ hai con sông nhỏ Rạch Gầm và Xoài Mút tiến ra đánh “chặn đầu, khóa đuôi”, dồn thuyền giặc vào khu vực lựa chọn. Lực lượng pháo binh Tây Sơn nắm chắc thời cơ, bắn xối xả vào thuyền chiến quân Xiêm - Nguyễn, kết hợp với bộ binh đánh “thốc” vào bên sườn đội hình cơ động của giặc, chia cắt đội thuyền chiến Xiêm - Nguyễn ra nhiều mảng để tiêu diệt.
Thứ hai, thực hiện mưu kế “điệu hổ ly sơn” dẫn dắt chúng vào nơi ta chuẩn bị để tiêu diệt. Trên thực tế, với hai vạn quân Xiêm, 300 chiến thuyền, cùng mấy nghìn quân Nguyễn chỉ tập trung chiếm giữ khu vực Sa Đéc. Xét về tương quan so sánh lực lượng, thế trận, địch tập trung một lực lượng khá lớn, không thể đánh thắng dễ dàng; địa điểm chiếm đóng của chúng lại ở đoạn đầu sông Tiền Giang, nên có ưu thế về dòng chảy giúp cho tốc độ vận động trong triển khai và thực hành tác chiến của thủy quân Xiêm càng thuận lợi. Đây chính là điều bất lợi cho quân Tây Sơn nếu đánh thẳng vào Sa Đéc. Trước tình hình đó, với tài thao lược sắc sảo, chủ tướng Nguyễn Huệ đã thực hiện mưu kế “điệu hổ ly sơn” - kéo địch rời khỏi căn cứ, dẫn dụ chúng vào nơi chuẩn bị sẵn để tiêu diệt với một kế hoạch nghi binh hoàn hảo đến mức làm cho các tướng Xiêm - Nguyễn ngỡ rằng đó chính là kế hoạch tiến quân tiếp theo của chúng.
Thực tế cho thấy, sau khi bố trí xong trận địa, Nguyễn Huệ cho một bộ phận thủy quân Tây Sơn thường xuyên khiêu khích giặc ở Sa Đéc, một bộ phận dàn thuyền chiến chắn ngang khúc sông Rạch Gầm - Xoài Mút, cố ý như án binh, bất động,… để nhử giặc. Các tướng Xiêm chủ quan, cậy có ưu thế, muốn nhân việc truy kích quân Tây Sơn mà “tương kế, tựu kế” tận dụng thời cơ tiến xuống đánh chiếm Mỹ Tho. Ngày 18-01-1785, toàn bộ thủy quân Xiêm - Nguyễn ở Sa Đéc được lệnh tiến theo sông Mỹ Tho, đánh đuổi lực lượng thủy quân Tây Sơn. Thủy quân Tây Sơn thực hiện mưu kế “giả chết bắt quạ”, đánh trả một cách yếu ớt, vừa đánh vừa lui. Quân Xiêm nhận định toàn bộ quân Tây Sơn đã lộ diện. Không chần chừ, các tướng Xiêm đốc thúc ba quân đuổi theo thủy quân Tây Sơn. Do nhờ thuận chiều gió và đà nước trên sông Mỹ Tho bắt đầu rút, binh thuyền quân Xiêm ồ ạt bám đuổi thủy binh Tây Sơn. Đến cuối chiều, khi trời bắt đầu tối, thuyền giặc cứ theo ánh sáng đèn của thủy quân Tây Sơn rượt đuổi mà không biết rằng trên đường rút lui để nhử địch, thủy quân của Tây Sơn đã dần dần tắt đèn, tấp thuyền sang hai bên bờ, lẩn vào các ngách sông, còn đoàn chiến thuyền quân Xiêm – Nguyễn vẫn hăng hái tiến về hướng Mỹ Tho. Đến lúc lọt vào khu vực Rạch Gầm - Xoài Mút, chúng chỉ thấy đoàn thuyền binh Tây Sơn lác đác còn vài chiếc. Biết là đã bị mắc mưu Tây Sơn, thủy quân Xiêm - Nguyễn “tiến thoái lưỡng nan” đành liều mình tìm cách chống đỡ khi nghe tiếng pháo lệnh tiến công của quân Tây Sơn rền vang.
Thứ ba, phục kích, vận động tiêu diệt địch. Đúng như dự đoán, đoàn thuyền chiến của quân Xiêm - Nguyễn bị lực lượng thủy quân Tây Sơn nhử, “dẫn dắt” vào khu vực quyết chiến đã lựa chọn. Trận đánh được khởi đầu với việc hai đội thủy binh phục kích của Tây Sơn từ Rạch Gầm và Xoài Mút bất ngờ lao ra, chặn đánh hai đầu, dồn quân địch vào vòng vây đã bố trí sẵn. Đồng thời, đại bác của quân Tây Sơn bố trí ở hai bên bờ sông và trên cù lao Thới Sơn bắn xối xả vào khúc giữa đoàn thuyền giặc lúc bấy giờ đang bị ùn lại. Bị chặn đầu, khóa đuôi và bị quân Tây Sơn áp đảo từ đầu, quân địch hết sức hốt hoảng, đội hình rối loạn. Quân Xiêm - Nguyễn chưa kịp hoàn hồn bởi đợt pháo kích dồn dập, lại phải căng mình chống đỡ các đợt tiến công mãnh liệt của các đội thuyền chiến Tây Sơn từ các vị trí mai phục đánh thẳng vào “mạng sườn” đội hình đang bị dồn ứ của giặc và chiến thuyền của Tây Sơn từ Mỹ Tho kịp thời đến tăng cường. Dưới sự chỉ huy và đốc chiến của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn lao vào cuộc quyết chiến chiến lược với một tinh thần quả cảm. Quân thủy, quân bộ Tây Sơn phối hợp với nhau, khép chặt vòng vây, tiêu diệt quân địch hết mảng này đến mảng khác, đẩy thủy quân giặc vào một tình thế hiểm nghèo, vừa bị vây hãm về chiến dịch, vừa bị chia cắt về chiến thuật dẫn tới đội hình tan vỡ, quân lính khiếp đảm. Hàng loạt thuyền chiến của giặc lần lượt bị đánh đắm, vô số quân lính bị giết chết tại trận, kẻ bị trúng đạn, trúng tên, kẻ bị gươm, giáo đâm chém, kẻ bị chết đuối giữa dòng nước, v.v. Một số quân địch sống sót cố bơi vào bờ để tìm đường trốn thoát, nhưng đã bị lực lượng bộ binh Tây Sơn đón lõng tiêu diệt. Số phận khoảng chừng ba, bốn nghìn quân của Nguyễn Ánh cũng không hơn gì quân Xiêm, hoàn toàn bị tan rã. Các tướng Nguyễn đều lo chạy thoát thân, mỗi người mỗi ngả. Riêng đối với lực lượng bộ binh Xiêm ở Trà Tân cũng cuống cuồng tháo chạy về nước, trước sự phản công dũng mãnh của quân Tây Sơn ngay sau khi đại phá thủy quân Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút. Theo nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Lương Bích, sau trận Rạch Gầm - Xoài Mút “thì có thể, ngay canh năm ngày 19, quân đội Tây Sơn tiến công quân Xiêm ở Trà Tân”2.
Cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn của quân Xiêm đã bị quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy sáng suốt, tài tình của Nguyễn Huệ đập tan chỉ trong một trận đánh. Thắng lợi của trận Rạch Gầm - Xoài Mút cho chúng ta thấy tài thao lược của thiên tài quân sự Nguyễn Huệ, từ việc chọn hình thức tiến công địch đang vận động, lựa chọn khu vực tác chiến, đến vận dụng thủ đoạn kéo địch ra xa căn cứ để tiêu diệt - thể hiện nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đây là bài học quý cần tiếp tục được nghiên cứu, kế thừa và phát triển sáng tạo trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Câu trả lời của bạn: 18:06 17/01/2022
Tình hình kinh tế thời Lê Sơ có những biểu hiện dưới đây:
- Nông nghiệp: Được phục hồi và phát triển nhanh chóng nhờ những chính sách tích cực của nhà nước (Cử lính về quê làm ruộng thời bình, đặt một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Hà đê sứ, Khuyến nông sứ,...).
- Thủ công nghiệp: Phát triển với những nghề thủ công truyền thống (đan nón, dệt lụa,...), nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời, nhất là Thăng Long.
- Thương nghiệp: Chợ búa được khuyến khích mở để lưu thông hàng hóa trong nước và nước ngoài.
=> Nhờ những biện pháp tích cực, tiến bộ của nhà Lê mà nền kinh tế Đại Việt được phục hồi nhanh chóng và tiếp tục phát triển một cách thịnh vượng.
Câu trả lời của bạn: 18:04 17/01/2022
Quá trình vận động cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân ở Dương Hòa (1930 - 8/1945)
Với vị thế là địa bàn chiến lược quan trọng, điểm tiếp giáp với thành phố Huế - thủ phủ xứ Trung Kỳ bảo hộ, nên chính sách đô hộ của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai ở Dương Hòa[1] rất hà khắc. Bộ máy cai trị từ huyện đến tổng, xã khá hoàn chỉnh. Đứng đầu huyện là Tri huyện. Ở tổng có các Chánh- Phó tổng. Dưới xã, ấp là bọn lý, hương và địa chủ cường hào… chiếm đoạt công điền, công thổ, tham nhũng công quỹ, ức hiếp nông dân. Nhân dân Dương Hòa không có quyền tự do dân chủ nào.
Không thể cam chịu cảnh cùng cực, một số thanh niên có chí hướng ở Dương Hòa đã bắt đầu đi tìm hiểu thời cuộc qua sách báo, qua các cuộc tiếp xúc với những nhà yêu nước tại Huế.
Cuối năm 1929, nội bộ Tân Việt cách mạng Đảng bị phân hóa để chuyển sang Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Việc thành lập Chi bộ đảng Đông Dương Cộng sản liên đoàn có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần vào việc tuyên truyền giác ngộ một số thanh niên yêu nước ở Dương Hòa đi theo con đường cách mạng mới.
Ngày 03/02/1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ở Thừa Thiên Huế, tháng 4/1930, tại Bến Ngự (Huế), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Phong Sắc, Hội nghị hợp nhất Đảng bộ tỉnh được tiến hành. Hội nghị tuyên bố hợp nhất hai tổ chức Đông Dương Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn thành một tổ chức là Đảng Cộng sản Việt Nam ở tỉnh Thừa Thiên, do đồng chí Lê Viết Lượng làm Bí thư. Đồng chí Lê Bá Dị được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành lâm thời, trực tiếp chỉ đạo 3 huyện phía Nam, trong đó có Hương Thủy.
Sau ngày 01/5/1930, các đồng chí đảng viên chủ chốt trực tiếp đi vào nông thôn, miền núi vận động nông dân, tập hợp họ vào tổ chức nông hội, đấu tranh chống bọn cường hào, ác bá.
Ngày 18/6/1931, nhân kỉ niệm ngày Gia Long lên ngôi, nhiều truyền đơn được rải khắp Dương Hòa để vạch mặt bọn thực dân, phong kiến áp bức, bóc lột nhân dân, kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi quyền sống.
Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào cách mạng của nhân dân ta. Tháng 10/1939, địch thực hiện cuộc khủng bố trắng ở Thừa Thiên, hầu hết các đảng viên ở Hương Thủy đều bị bắt. Hệ thống cơ sở bị phá vỡ, phong trào cách mạng ở Hương Thủy bị tổn thất nặng nề, còn lại một vài đồng chí và cơ sở phải rút vào hoạt động bí mật để đảm bảo duy trì những hoạt động của Đảng sau này.
Tháng 7/1942, đồng chí Nguyễn Chí Thanh vượt ngục trở về triệu tập Hội nghị cán bộ đảng tại Quảng Điền, triển khai Nghị quyết Trung ương VIII. Hội nghị quyết định củng cố các tổ chức đảng để đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới.
Ngày 23/5/1945, Ban Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị ở Đầm Cầu Hai (Phú Lộc), chuẩn bị khởi nghĩa. Sau Hội nghị, Tỉnh ủy cử các đồng chí Lê Minh, Phạm Quang Thuyết, Phan Bạch Vân về chỉ đạo phong trào ở Hương Thủy.
Được sự tiếp sức của tỉnh, các tổ chức đảng ở các huyện khẩn trương triển khai Nghị quyết Hội nghị Đầm Cầu Hai, tiến hành chuẩn bị về mọi mặt để khi thời cơ đến là tổ chức nhân dân vùng lên khởi nghĩa.
Tháng 6/1945, Mặt trận Việt Minh huyện Hương Trà được thành lập lấy tên là Việt Minh Bình Sơn. Ban lãnh đạo Việt Minh Bình Sơn gồm các đồng chí: Đặng Cháu, Hoàng Liên, Trần Danh, Lâm Mộng Quang, Nguyễn Thị Út do Lâm Mộng Quang làm chủ nhiệm[2].
Đầu tháng 8/1945, không khí chuẩn bị khởi nghĩa ngày càng khẩn trương, nhân dân xã Dương Hòa cùng với các địa phương trong huyện Hương Thủy đẩy mạnh việc quyên góp thóc, gạo, tiền vào ngân quỹ của Việt Minh để trang cấp cho việc huấn luyện các đội tự vệ chiến đấu, rèn vũ khí, mua vải may cờ chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.
Trước khí thế của quần chúng và thấy rõ nguy cơ bị tiêu diệt của phát xít Nhật đang đến gần, ngày 10/8/1945, Tỉnh ủy họp phiên mở rộng quyết định kế hoạch khởi nghĩa. Sau Hội nghị, các đồng chí Tỉnh ủy viên trực tiếp về chỉ đạo ở các huyện.
Ngày 17/8/945, Việt Minh Bình Sơn (Việt Minh Hương Trà) họp, thành lập Ủy ban khởi nghĩa huyện và khu vực, đề ra kế hoạch khởi nghĩa ở các làng, tổng và tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế.
Dưới sự chỉ đạo của Việt Minh Bình Sơn (Việt Minh Hương Trà), ngay trong đêm 22 rạng sáng ngày 23/8 nhân dân Hương Thọ đã nhất tề nổi dậy đấu tranh giành chính quyền. Tại Dương Hòa đồng chí Ngô Đức Vui đã tập hợp các đoàn biểu tình từ các thôn về tại nhà thờ họ Phan tổ chức mít tinh tuyên bố chính quyền vào tay nhân dân. Bọn hương lý lo sợ đem ấn triện nộp cho chính quyền cách mạng của nhân dân[3].
Ngày 30/8, hàng nghìn nhân dân Dương Hòa đã về Huế cùng nhân dân toàn tỉnh tham dự cuộc mít tinh dưới rừng cờ đỏ sao vàng ở Ngọ Môn trong buổi lễ thoái vị của Bảo Đại và nghe đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố xáo bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam.
Ngày 02/9/1945, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) cùng nhân dân cả nước chứng kiến thời khắc lịch sử của dân tộc “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do, độc lập”.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám (1945), nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) được đổi đời từ địa vị nô lệ, làm thuê trở thành người chủ xã hội. Cách mạng tháng Tám chứng minh truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất của nhân dân Dương Hòa. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã tạo ra bước ngoặt mới để xây dựng và phát triển Dương Hòa ngày càng khởi sắc sau này.
II. Xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân ở Dương Hòa (8/1945 - 12/1946)
Sau khi giành được chính quyền, việc xây dựng và giữ vững chính quyền là một vấn đề vừa cấp bách, vừa phức tạp. Với khó khăn về kinh tế tài chính, văn hóa, xã hội và ngoại xâm, tất cả đang đe dọa một cách nghiêm trọng vận mệnh dân tộc nói chung và Dương Hòa nói riêng. Nhưng do vừa thoát khỏi thân phận một người dân mất nước, nô lệ, nhân dân xã Dương Hòa ý thức sâu sắc giá trị của độc lập, tự do và nguyện đem hết khả năng trách nhiệm của mình để bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng vừa giành được.
1. Về chính trị.
Để củng cố nhà nước về mặt pháp lý và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Ngày 22/11/1945 Chính phủ ra Sắc lệnh tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp, chuẩn bị Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Phấn khởi, tràn đầy tin tưởng, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên)[4] cùng với nhân dân cả nước hăng hái tham gia bầu cử Quốc hội chung cả nước (6/1/1946). Một không khí sinh hoạt chính trị sôi động đầy khắp thôn xóm. Trước ngày bầu cử các đoàn thể như Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc ngày đêm hăng hái vận động nhân dân tích cực tham gia bầu cử. Lực lượng tự vệ ngày đêm thường xuyên canh gác sẵn sàng đập tan mọi âm ưu phá hoại của kẻ địch, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của xã đã phổ biến quy định bầu cử, đồng thời nhấn mạnh cho nhân dân hiểu rõ tính chất dân chủ của việc phổ thông đầu phiếu. Khẩu hiệu “hoan nghênh ngày bầu cử thống nhất” hòa trong tiếng reo hò của đội cổ động đã làm tăng thêm không khí sôi động của ngày bầu cử. Nhiều loại thơ ca hò vè được nhân dân truyền miệng nhắc nhở nhau bầu cho các đại biểu do Việt Minh đưa ra ứng cử, như:
“Thích Mật Thể, kể cả Hoàng Anh
Cùng Trần Thanh Chữ bạn lành của ta…”
Hòm phiếu được đặt ở đình làng các thôn: Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn, Kim Ngọc. Để tranh giành với ta, bọn Quốc dân đảng đã đưa ra một số ứng cử viên và chúng đã dùng mọi thủ đoạn xấu xa, thâm độc hòng lừa bịp nhân dân, chúng tìm cách nói xấu các đại biểu Việt Minh. Nhưng kết quả cuộc bầu cử đã thắng lợi, hầu hết các ứng cử viên do Việt Minh giới thiệu là Hoàng Anh và Thích Mật Thể đã trúng cử tỉ lệ cao, có người đạt trên 90% số phiếu.
Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chính trị rất to lớn, cho thấy nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã đặt hết tin tưởng vào Mặt trận Việt Minh, vào Chính phủ cách mạng.
Sau bầu cử Quốc hội, thực hiện Sắc lệnh 63/SL về việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân để cử ra bộ máy chính quyền quản lý xã, thôn. Tại kì họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân xã Hương Nguyên đã bầu ra Ủy ban hành chính xã do đồng chí Hồ Văn Hiến làm Chủ tịch[5].
Để tiếp tục củng cố chính quyền cách mạng các cấp và đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới của cách mạng địa phương, công tác xây dựng Đảng rất được Huyện ủy Hương Trà chú trọng. Tháng 2/1946, tại thôn Hải Cát, đồng chí Đặng Cháu - Bí thư Huyện ủy Hương Trà, đã chủ trì lễ kết nạp 2 quần chúng ưu tú là đồng chí Trần Hữu Thí (quê ở Kim Long) và Đặng Hiền (quê ở Hải Cát)) vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó không lâu kết nạp thêm đồng chí Hồ Văn Hiến (quê ở Đình Môn) hình thành nên Chi bộ ghép đầu tiên, có nhiệm vụ lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty và Hương Phụng. Chi bộ do đồng chí Trần Hữu Thí làm Bí thư.
Ngay sau khi ra đời, Chi bộ ghép phụ trách 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty và Hương Phụng đã tích cực hoạt động, chú trọng xây dựng và phát triển lực lượng Đảng viên để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đến các địa bàn thôn, xóm. Tại Hương Thọ, được sự quan tâm của Chi bộ, các quần chúng ưu tú như Nguyễn Công Khanh (La Khê Bải), Trần Quang Hợi (Hải Cát Thượng), Bùi Văn Huyên (tức Bùi Ngọc Tịnh, Dương Hòa), Lê Thương (La Khê Trẹm) đã được kết nạp vào Đảng, trên cơ sở đó Huyện ủy Hương Trà cử các đồng chí Hoàng Liên, Nguyễn Vật, Hồ Văn Hiến về xây dựng Tổ đảng Dương Hòa (Hương Nguyên) do đồng chí Hồ Văn Hiến trực tiếp chỉ đạo[6].
Sự kiện Chi bộ đảng Cộng sản ghép của 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty , Hương Phụng và Tổ đảng Dương Hòa ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong đời sống chính trị của nhân dân các xã. Từ đây dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ, tổ đảng nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) một lòng theo Đảng, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến kiến quốc, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng toàn thắng.
2. Về kinh tế.
Song song với việc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng ở địa phương, Ủy ban Nhân dân lâm thời và sau đó là Ủy ban Hành chính đã tiến hành phân cấp lại ruộng đất chia cho dân nghèo. Tất cả nam nữ công dân từ 18 tuổi trở lên đều được cấp phát ruộng đất để cày cấy, sản xuất.
Thực hiện chủ trương của cấp trên, chính quyền địa phương đã tiến hành giảm 25% tô, thuế, giảm nợ cho nông dân, xóa bỏ thuế thân và mọi thứ thuế bất hợp lý khác.
Việc tịch thu ruộng đất của cường hào, của những kẻ có nợ máu, việc cấp phát ruộng đất, giảm tô, tức và các thứ thuế bất hợp lý đã có tác dụng rất lớn trong việc động viên nhân dân hăng hái tham gia sản xuất.
Trong tình thế khó khăn chung của đất nước, Chính quyền Cách mạng Dương Hòa (Hương Nguyên) đã đề ra một số biện pháp cấp bách như ra lệnh cấm dùng gạo vào những công việc không cần thiết như nấu rượu, làm bánh và kêu gọi nhân dân giúp đỡ lẫn nhau dưới hình thức “hũ gạo đồng tâm” để giải quyết nạn đói. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh sản xuất cũng rất được chú trọng. Hưởng ứng lời kêu gọi “tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa” của Đảng và Chính phủ, dưới sự chỉ đạo của Chính quyền và Chi bộ đảng địa phương, nhân dân Dương Hòa đã tích cực canh tác, từ sáng sớm đã có những đoàn người tham gia lao động sản xuất; đẩy mạnh hơn nữa việc khai hoang để mở rộng sản xuất. Nhờ vậy, đã tạo dựng được những tiền đề vững chắc để giải quyết tận gốc nạn đói.
Với quyết tâm của chính quyền cách mạng và sự nỗ lực của nhân dân, nạn đói đã được đẩy lùi, đời sống vật chất của nhân dân được ổn định và góp phần vào việc thực hiện khẩu hiệu “Diệt giặc đói” của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch.
Phong trào xây dựng Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng.
Sau Cách mạng tháng Tám, tài chính Nhà nước hầu như trống rỗng. Để giải quyết khó khăn trên, ngày 04/5/1946 Chính phủ Lâm thời ra Sắc lệnh số 4 - Sắc lệnh xây dựng Quỹ độc lập và tổ chức “Tuần lễ vàng” trong cả nước kể từ ngày 12/9/1946 - 24/9/1946 nhằm động viên nhân dân tự nguyện đóng góp phần mình vào việc xây dựng đất nước và giữ vững nền độc lập.
Hưởng ứng phong trào gây Quỹ độc lập, Tuần lễ vàng ở Dương Hòa (Hương Nguyên), cán bộ cách mạng đã tuyên truyền và giải thích sâu rộng trong quần chúng nhân dân về ý nghĩa chính trị to lớn của việc làm nói trên. Đây không chỉ là việc quyên góp đơn thuần mang tính chất kinh tế mà mang một nội dung yêu nước sâu sắc. Hiểu được ý nghĩa của hoạt động này, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) người ít kẻ nhiều đã lần lượt đến đình làng tự giác đóng góp vàng, bạc; có nhiều người còn đem cả vật kỷ niệm ngày cưới như đôi hoa tai vàng, nhẫn… đóng góp cho cách mạng không ghi tên tuổi. Tính chung, trong đợt vận động này, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) cùng toàn thể nhân dân Hương Thọ đã góp hơn 15 lượng vàng, 200kg đồng để đóng góp vào công quỹ Nhà nước[7].
Phong trào Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng đã đem lại kết quả tốt đẹp, nhiều người dân đã tham gia đóng góp với các mức độ khác nhau. Điều này đã thể hiện sự giác ngộ cách mạng và tinh thần yêu quê hương, đất nước, thiết tha với độc lập, tự do của nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên).
Về văn hóa giáo dục.
Do hậu quả của chính sách ngu dân mà chế độ thực dân, phong kiến để lại, hơn 90% nhân dân Dương Hòa bị mù chữ. Vì vậy, để nâng cao dân trí, góp phần kiến quốc, công cuộc xóa nạn mù chữ được xem như là một yêu cầu cần kíp đặt ra cho chính quyền cách mạng.
Ngày 06/5/1946, Hội đồng Chính phủ đã họp và quyết định phát động phong trào xóa nạn mù chữ trong cả nước.
Sau Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, phong trào học chữ quốc ngữ thực sự là một phong trào rộng rãi của quần chúng mang tính chất tự giác cao. Các buổi học thường được tổ chức vào ban đêm tại các đình, các nhà thờ các thôn ở Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn, Kim Ngọc, La Khê Trẹm... Nhân dân lao động trẻ, già, trai, gái không phân biệt lứa tuổi đều tích cực tham gia học tập. Mỗi thôn có từ 3 đến 4 lớp. Với tinh thần người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ, người biết nhiều dạy cho người biết ít, nên có người vừa là thầy vừa là trò[8]. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về dụng cụ học tập như: giấy, bút, dầu đèn... song tiếng ê, a đánh vần vào mỗi buổi tối vẫn vang lên từ đầu đến cuối làng.
Trong các buổi lao động gia đình hoặc hội họp tập thể, hình thức đố bài để giúp nhau ôn lại bài vở đã học đã diễn ra sôi nổi; nhiều bài thơ ca, hò vè đã được sáng tác để kịp thời vận động nhân dân học tập; tại những điểm giao thông có nhiều người qua lại, chính quyền địa phương đã tổ chức giăng dây đố chữ hoặc tổ chức thi hàng tuần, kỳ, tháng hoặc 3, 4 tháng một lần để kiểm tra và kịp thời có những biện pháp thích hợp khuyến khích nhân dân chú trọng hơn nữa đến công tác xóa nạn mù chữ. Từ trong phong trào “diệt giặc dốt”, nhiều cán bộ, đảng viên trở thành những giáo viên giỏi và sau này có những người trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng.
Thắng lợi của phong trào xóa nạn mù chữ không đơn thuần có giá trị về mặt văn hóa - xã hội, mà mang một nội dung yêu nước sâu sắc.
Nhờ đó mà nhân dân lĩnh hội được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách tương đối dễ dàng, tạo thêm khả năng để nhân dân tham gia đóng góp phần mình vào công cuộc kháng chiến.
5. Về xây dựng lực lượng vũ trang và hỗ trợ phong trào Nam tiến.
Công tác xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ.
Hầu hết thanh niên tích cực ở Dương Hòa (Hương Nguyên) sau Cách mạng tháng Tám được đưa vào các đội tự vệ. Mỗi thôn có một tiểu đội, vũ khí chủ yếu là dao găm, mã tấu, nhưng tinh thần luyện tập rất hăng hái. Nhiệm vụ của các tiểu đội tự vệ là cảnh giác, tuần tra cho thôn xóm và bảo vệ cơ quan chính quyền xã. Tại Dương Hòa, đội tự vệ thôn có sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, phụ nữ như: Mai Văn Trừng, Lê Phán, Lê Thạc, Võ Thanh Duy, Phan Mông, Bùi Ngọc Tịnh, Võ Thị Mòn, Phan Bá Cừ, Phan Sinh, Phan Thị Hàm, Phan Tự… Do đồng chí Mai Văn Trừng làm đội trưởng (1949 - 1950)[9].
Năm 1946, chính quyền nhân dân được thành lập và song song với việc tổ chức, củng cố các tổ chức đoàn thể quần chúng, lực lượng tự vệ được phát triển hơn. Đội trưởng tự vệ lúc này là đồng chí Mai Văn Trừng.
Không khí luyện tập rất hăng hái, sôi nổi hơn trước, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang không chỉ đóng khung trong các thôn xóm mà được mở rộng ra địa bàn xã.
Phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến.
Ba tuần lễ sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (23/9/1945), thực dân Pháp núp bóng quân Anh quay trở lại xâm lược nước ta. Tiếng súng xâm lược nước ta lần thứ hai của thực dân Pháp đã gây nên một làn sóng căm phẫn dữ dội trong toàn thể quốc dân đồng bào cả nước. Nhân dân Nam bộ ngay từ đầu đã nhất tề đứng dậy cầm súng đánh giặc, mở đầu một trang sử vô cùng oanh liệt của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã ra lời kêu gọi đồng bào cả nước dốc sức ủng hộ Nam bộ kháng chiến.
Ở Dương Hòa (Hương Nguyên), phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú. Thanh niên Dương Hòa (Hương Nguyên) đã nô nức lên đường vào Nam chiến đấu. Nhiều người đã gia nhập giải phóng quân, khẩu hiệu “Đả đảo thực dân Pháp, ủng hộ Nam bộ kháng chiến”, “Thà chết vinh còn hơn sống làm nô lệ” được giương cao khắp thôn xóm, Ủy ban ủng hộ Nam bộ kháng chiến được thành lập, động viên nhân dân ủng hộ nhân tài vật lực cho miền Nam như lúa, gạo, chăn màn, quần áo, tiền bạc để mua sắm vũ khí.
Cùng với cả nước, phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến ở Dương Hòa (Hương Nguyên) thực sự trở thành cuộc vận động chính trị vô cùng rộng lớn kể từ sau Cách mạng tháng Tám. Đã có những đóng góp vật chất, tinh thần xứng đáng cho kháng chiến chống quân xâm lược.
Thời kỳ từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946, trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ là thời kỳ mà đất nước nói chung và Dương Hòa (Hương Nguyên) nói riêng gặp vô vàn khó khăn như trong tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm cùng với muôn vàn khó khăn đã đặt đất nước, quê hương trước thử thách nghiêm trọng. Song dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ cấp trên và các đảng viên lúc đó như Hồ Văn Hiến (Xạ Hiến người Đình Môn), Nguyễn Công Khanh (Hải Cát) nên chỉ trong một thời gian rất ngắn, chính quyền cách mạng Dương Hòa (Hương Nguyên) đã lãnh đạo nhân dân giải quyết nhiều vấn đề phức tạp, chuẩn bị tiềm lực để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lâu dài và hết sức gian khổ.
III. Dương Hòa (Hương Nguyên)[10] tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (19/12/1946 - 20/7/1954)
Đúng như Đảng đã dự đoán, thực dân Pháp tiếp tục chính sách “việc đã rồi” hòng đặt lại ách thống trị của chúng lên đất nước ta. Sau nhiều vụ khiêu khích của thực dân Pháp, ngày 19/12/1946, chiến tranh bắt đầu lan tỏa khắp đất nước. Thời kỳ tạm hòa hoãn đã chấm dứt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, toàn dân Việt Nam đã đứng dậy kháng chiến, kiên quyết giữ vững độc lập, thống nhất tổ quốc.
Ngày 20/12/1946, Hồ Chủ tịch thay mặt Đảng và Chính phủ, kêu gọi đồng bào cả nước: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[11].
Cùng cả nước, cả tỉnh và thành phố Huế nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã hưởng ứng tích cực lời kêu gọi kháng chiến của Đảng và Hồ Chủ tịch.
1. Dương Hòa (Hương Nguyên) từ kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946) đến khi mặt trận Thừa Thiên Huế vỡ (5/2/1947).
Mặc dù đã kí với Chính phủ các Hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm ước ngày 14/9, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ mưu đồ tái xâm chiếm nước ta. Chúng sẵn sàng hành động với sự hậu thuẫn của các nước đồng minh để chiếm lại nước ta bằng mọi giá.
Tại Thừa Thiên Huế, trước những hành động xâm lược trắng trợn của quân đội Pháp, đầu tháng 12/1946, Thường vụ Tỉnh ủy họp đã rà soát kiểm điểm việc chuẩn bị các mặt cho công cuộc kháng chiến và đề ra nhiệm vụ mới cho toàn Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh.
Ngày 19/12/1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngay trong đêm hôm đó, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên thông qua kế hoạch tác chiến của Liên khu 4 và Ủy ban kháng chiến Liên khu. Tỉnh ủy chủ trương dùng lực lượng vũ trang kết hợp sức mạnh của nhân dân tiến công, bao vây và tiêu diệt quân Pháp đóng ở Huế trước khi lực lượng tăng viện của địch đến.
Hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tinh thần chỉ đạo của Tỉnh ủy, suốt đêm hôm đó và ngày hôm sau, tất cả các xã trong toàn huyện Hương Thủy đã sôi sục trong bão lửa chiến tranh, quyết đem tinh thần chiến đấu chống thực dân Pháp bảo vệ quê hương.
Trong 50 ngày đêm liền, quân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã góp phần cùng quân dân Hương Thủy tấn công liên tục vào những các vị trí của địch có pháo binh yểm trợ lưu động trên trận địa Hương Thủy từ Quảng Tế đến Ngự Bình. Ban ngày từ các vị trí chúng tấn công ta bằng thiết giáp và bộ binh. Ta dựa vào trận địa giao thông mà chiến đấu bằng nhiều hình thức phù hợp như bắn tỉa, bắn đón bằng súng trường. Nhiều lúc đánh giáp lá cà, đánh cháy xe thiết giáp của chúng bằng bom xăng.
Các cuộc tấn công của ta diễn ra bằng những vũ khí thô sơ, có khi còn dùng cả rơm rạ và ớt, dùng lửa và khói đánh vào các tòa nhà chúng dùng làm công sự để chặn ta tấn công. Hầu hết các gia đình trong xã đều có đóng góp ít nhất là một gánh rơm, vài ba *** ớt… Khoảng 7 - 8 giờ tối, tất cả những thứ đó được đưa xuống đò chuyển về Huế tiếp viện cho lực lượng bộ đội đánh địch[12].
Tại chùa Khoai (nơi xưa kia đặt Bộ Chỉ huy của Đoàn Trưng, Đoàn Trực lãnh đạo khởi nghĩa Chày Vôi) chị Tú - cán bộ phụ nữ huyện, báo cáo trước nhân dân trong xã về tình hình diễn biến chiến trận và kêu gọi nhân dân “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hưởng ứng lời kêu gọi của chị
Tú, đồng chí Thân Trọng Một và đồng chí Thạnh ở Dương Hòa (Hương Nguyên) đã tình nguyện tham gia đội quân này, sẵn sàng hy sinh tính mạng cho Tổ quốc. Hôm sau, hai đồng chí vác bộ 10kg bộc phá vào nhà Mác-bớp đánh địch đang cố thủ ở đây. Đồng chí Thạnh hy sinh tại chỗ, đồng chí Thân Trọng Một bị thương[13].
Khi mặt trận tiếp tục mở rộng, địch liên tiếp càn quét. Do chủ quan và chưa nắm được tình hình, nên lúc đầu các cơ sở của ta bị vỡ, chính quyền cách mạng và các tổ chức đoàn thể phải rút lui, thậm chí các đồng chí cán bộ trong Ủy ban hành chính và Ủy ban kháng chiến phải phân tán mỗi người một nơi. Sau khi địch rút lui, lực lượng của ta lại tập hợp, củng cố để chuẩn bị đối phó với kế hoạch mới của địch
Nhìn chung, trong khoảng thời gian này, lúc đầu ta có lúng túng, bị động nhưng chỉ sau một thời gian ngắn được sự chỉ đạo của Trung ương, tỉnh, huyện, quân và dân Dương Hòa (Hương Nguyên) vẫn thực hiện cuộc rút lui về tuyến sau an toàn, xây dựng căn cứ địa đảm bảo lực lượng để bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.
2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) từ tháng 2/1947 đến cuối năm 1950.
Âm mưu của thực dân Pháp
Sau khi chiếm được thành phố và các đầu mối giao thông quan trọng, thực dân Pháp tổ chức những cuộc hành quân lớn để càn quét vùng đồng bằng và đánh sâu vào căn cứ của ta ở rừng núi, đặc biệt là Dương Hòa, nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang, phá hoại kho tàng của ta. Đi đôi với chiến thuật càn quét lớn, giặc Pháp dùng chiến thuật cứ điểm nhỏ để kìm chân các hoạt động của ta ở đồng bằng, phong tỏa ta ở miền núi. Địch đánh tới đâu, chúng xây dựng, đóng đồn tới đó để thực hiện chiến thuật “Vết dầu loang”.
Tại Dương Hòa (Hương Nguyên), thực dân Pháp đã hỗ trợ cho Linh mục Nguyễn Ngọc xây dựng Giáo xứ Buồng Tằm. Nhiệm vụ chủ yếu của các đồn, lô cốt là bảo vệ an ninh cho địch, khủng bố nhân dân, xây dựng bộ máy tề - ngụy phản động ở địa phương, lùng bắt cán bộ và phá hoại phong trào.
Chủ trương kháng chiến của ta:
Không để cho thực dân Pháp thực hiện được những ý đồ thâm độc của chúng, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chi bộ đảng đã lãnh đạo nhân dân dũng cảm đứng lên đấu tranh phá tan các âm mưu của địch.
Một tháng rưỡi sau khi vỡ mặt trận, Hội nghị Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế mở rộng đã họp từ ngày 25 đến 27/3/1947 tại thôn Nam Dương (huyện Quảng Điền) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Tỉnh ủy. Hội nghị đã kiểm điểm tình hình phong trào cách mạng trong toàn tỉnh từ khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ đến khi mặt trận mở rộng. Đồng thời đề ra nhiệm vụ cần kíp trước mắt để củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Hội nghị chủ trương:
+ Tiếp tục tiếng súng kháng chiến, không để cho giặc ăn ngon, ngủ yên, phá chính sách “bình định” của giặc, cương quyết phá tề, trừ gian, làm cho đồng bào tin tưởng Đảng vẫn còn, bộ đội vẫn còn và nhân dân tiếp tục kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
+ Tổ chức tăng gia sản xuất, cất giấu của cải, lúa gạo, tổ chức cảnh giác để lúa gạo không rơi vào tay giặc.
+ Xây dựng lại cơ sở, tổ chức đưa cán bộ về lại địa phương cũ để hoạt động, gây dựng lại phong trào, cơ sở, nắm lấy quần chúng để kháng chiến (nhất là 3 huyện phía Nam Thừa Thiên), phải chấn chỉnh lại quân đội, tổ chức lại hệ thống chỉ huy và cơ sở du kích, chỉnh đốn lại Ủy ban, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng[14].
Sau Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng họp ở Nam Dương (3/1947), Huyện ủy Hương Trà đã họp quán triệt chủ trương của cấp trên và đề ra những biện pháp cấp thiết giữ vững chính quyền cách mạng.
Thực hiện chủ trương của Hội nghị cán bộ toàn tỉnh và Huyện ủy Hương Trà, cán bộ, đảng viên và nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã từng bước khôi phục, củng cố phong trào cách mạng, góp phần với huyện, tỉnh làm nên những thắng lợi quan trọng trên các mặt trận: chính trị, kinh tế và quân sự trong giai đoạn 1947 - 1950.
c. Nhân dân Dương Hòa chiến đấu chống lại âm mưu của thực dân Pháp, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc (từ ngày 5/2/1947 đến cuối năm 1950).
- Phong trào đấu tranh của nhân dân Dương Hòa từ ngày 5/2/1947 đến giữa năm 1948.
Sau khi Mặt trận Huế vỡ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lan rộng khắp toàn tỉnh. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi các cơ sở đảng phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo mình đối với phong trào cách mạng của quần chúng. Nhận thức rõ những yêu cầu cấp thiết nói trên, từ năm 1947, việc phát triển đảng viên, xây dựng các hạt nhân nòng cốt để trực tiếp lãnh đạo nhân dân địa phương tiếp thu và thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng rất được các Chi bộ cơ sở chú trọng. Tại Hương Thọ, với những hoạt động tích cực của Chi bộ đảng, số lượng đảng viên của xã cuối năm 1947 đã tăng lên 18 người, gồm các đồng chí: Hồ Văn Hiến (tức Xạ Hiến, Đình Môn), Bùi Văn Huyên (tức Bùi Ngọc Tịnh, Dương Hòa), Lê Thượng (La Khê Trẹm), Nguyễn Công Khanh (La Khê Bãi), Trần Quang Hợi (Hải Cát Thượng), Nguyễn Bạo (Hải Cát Hạ), Trần Quang Bỉnh (Hải Cát Thượng), Đặng Văn Tuân (Hải Cát Thượng), Lê Văn Kế (La Khê Trạm), Mai Văn Trọng (Hải Cát Thượng), Nguyễn Văn Nghệ (La Khê Trẹm), Nguyễn Bách (La Khê Trẹm), Nguyễn Thị Châu (Kim Ngọc), Mai Văn Trừng (Đình Môn), Phan Bá Cừ (Dương Hòa), Mai Văn Sử (Đình Môn), Nguyễn Dương (Kim Ngọc). Về sau, các đồng chí trên mất liên lạc với tổ chức và không thể tiếp tục hoạt động.
Nhờ sự phát triển mạnh của lực lượng đảng viên đã góp phần quan trọng củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo của Chi bộ Hương Thọ và Tổ đảng Dương Hòa trong thực hiện nhiệm vụ đánh địch trên mọi mặt, dưới mọi hình thức để từng bước làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.
Sau khi xây dựng hệ thống đồn bốt tại địa phương, thực dân Pháp bắt đầu xây dựng và củng cố lại bộ máy tề - ngụy, nhằm tạo lập chính quyền tay sai phục vụ cho những chính sách xâm lược của chúng. Trước tình hình đó, ta chủ trương biến hội tề của địch thành lực lượng hoạt động phục vụ cho cách mạng, bằng cách đưa một số người của ta cài vào hoạt động trong các tổ chức của địch để có điều kiện hoạt động công khai và kiên quyết trừng trị những tên phản cách mạng phục vụ đắc lực cho thực dân Pháp. Tại Dương Hòa (Hương Nguyên), mặc dù địch đã thành lập bộ máy hương lí làm tay sai cho chúng nhưng bộ máy này đã bị vô hiệu hóa vì ta đã cài người của mình vào đây.
Thực hiện chủ trương không để địch tăng cường các hoạt động quân sự nhằm chống phá lực lượng cách mạng, ta đã tập trung lực lượng dân quân tiến hành bao vây liên tục không cho địch tiếp xúc với bên ngoài. Kết hợp với bao vây, ta tiến hành binh vận, kêu gọi những binh lính lầm đường lạc lối, thức tỉnh trở về với cách mạng.
Đầu năm 1947, Đội hành động (tổ chức của An ninh Trinh sát vũ trang) về đóng quân tại Đình Môn (khu vực lăng Gia Long). Để giữ vai trò liên lạc giữa đồng chí lãnh đạo Ty Công an ở Dương Hòa với tổ Minh Khai (các cơ sở, các điệp báo viên cắm trong thành phố), các đội viên đội công an hành động qua cơ sở ở Dương Hòa đã hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo đường dây liên lạc giữa Đội Công an Hành động ở chiến khu Dương Hòa và thành phố.
Tháng 3/1947 tại 2 thôn Dương Hòa và Đình Môn, dựa vào bọn phản động và Linh mục Nguyễn Ngọc chỉ điểm, thực dân Pháp đã bắt 13 cán bộ chủ chốt của xã đem về đồn Nam Giao để khai thác dụ dỗ nhưng không thành. Chính vì vậy, nhiệm vụ trừ gian, diệt tề tại đây được tiến hành khẩn trương nhằm đảm bảo an toàn cho lực lượng kháng chiến và củng cố niềm tin cho nhân dân[15]. Quán triệt tinh thần chỉ đạo trên, tháng 7/1947, đồng chí Thân Trọng Một, Phạm Công Lan phối hợp với đồng chí Hồ Văn Hiến (Xạ Hiến), Chủ tịch xã Hương Nhuyên chỉ huy quyết tử quân, du kích đánh và giải tán bọn phản động tại đây. Linh mục Ngọc phải bỏ giáo xứ chạy về nhà thờ Thần Phù.
Sau chiến thắng này, ta đã làm chủ hoàn toàn con đường liên lạc Bắc - Nam đi qua Dương Hòa, mở ra vành đai bảo vệ từ Le Le lên đến điện Hòn Chén, tạo tiền đề to lớn để năm sau xây dựng chiến khu Dương Hòa[16]. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Dương Hòa từ đây bắt đầu có những bước phát triển mới. Chuyển từ thế phòng ngự sang chiến tranh du kích diệt tề, trừ gian. Từ đó đã tạo dựng được những tiền đề quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của phong trào dân quân du kích ở Dương Hòa.
Do vậy, vào đầu năm 1948, mặc dù thực dân Pháp thực hiện kế hoạch bình định vùng đồng bằng và bao vây chiến khu miền núi, tiến hành xây dựng đồn bốt, làm chỗ dựa về quân sự cho việc xây dựng chính quyền tề, ngụy của chúng nhưng vẫn không đàn áp được phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Du kích các xã đã ra sức phối hợp với bộ đội chính quy (Trung đoàn 101) đánh địch càn quét, hỗ trợ nhân dân làm chủ thôn xóm. Hoạt động vũ trang được đẩy mạnh khắp toàn huyện.
- Sự ra đời của chiến khu Dương Hòa và các hoạt động đấu tranh cách mạng bảo vệ chiến khu của nhân dân Dương Hòa (từ giữa năm 1948 đến năm 1949).
Vấn đề xây dựng chiến khu, căn cứ kháng chiến được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết hàng đầu góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến. Nhận thức rõ về vấn đề trên, ngay trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, việc chọn địa bàn để xây dựng thành điểm đứng chân cho các ban ngành lãnh đạo kháng chiến của tỉnh và bảo toàn lực lượng cách mạng rất được Tỉnh ủy chú trọng thực hiện. Trên cơ sở đó, từ năm 1947 các chiến khu cách mạng đã lần lượt ra đời: chiến khu Hòa Mỹ (Phong Điền), chiến khu Trò (Hương Trà), Khe Tre - Nam Đông (Phú Lộc)... Tại Hương Thủy chiến khu động Mỏ Tàu (ở đất xóm Hộ, Dương Hòa) đã được thành lập vào năm 1947, đặt tên là chiến khu Phương Hải để tưởng nhớ 2 đồng chí đã hy sinh: đồng chí Lê Trạc (Hải), Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách Huyện ủy Phú Vang và đồng chí Nguyễn Thượng Phương (Hương Thủy).
Đến giữa năm 1948, phong trào cách mạng ở các huyện phía Nam của tỉnh phát triển mạnh nhằm để đáp ứng yêu cầu sự lãnh đạo, chỉ đạo phong trào, tháng 5/1948, Tỉnh ủy đã quyết định chuyển địa bàn từ chiến khu Hòa Mỹ vào vùng rừng núi phía Tây huyện Hương Thủy để xây dựng chiến khu Dương Hòa, lấy làng Dương Hòa làm trung tâm của chiến khu.
Việc lựa chọn Dương Hòa làm căn cứ đứng chân của lãnh đạo tỉnh không phải được quyết định một cách ngẫu nhiên, mà quyết định này được đưa ra trên cơ sở những phân tích về vị trí địa lí và thực tiễn hoạt động của các tổ chức cách mạng tại đây.
Về mặt vị trí địa lí, chiến khu Dương Hòa hội tụ nhiều yếu tố mà chiến khu Hòa Mỹ không thể có được.
Dương Hòa là vùng đất được bao bọc bởi 2 nhánh sông Tả Trạch và Hữu Trạch, có núi non che chở ở phía Tây, phía Nam gần đô thị Huế (cách Huế 12km), cách trung tâm huyện lị Hương Thủy 11km theo đường chim bay, nằm trên tuyến đường nối liền 2 chiến khu Hòa Mỹ (Phong Điền) và Khe Tre - Nam Đông (Phú Lộc), tạo thế liên hoàn giữa các mặt trận.
Chiến khu bao gồm địa phận xã Hương Thọ (Hương Trà) và các vùng lân cận khu vực rừng núi của dãy Trường Sơn trùng điệp, tiếp giáp với thôn Lương Miêu. Ngoại vi chiến khu bao gồm Bình Điền, An Bằng, Hải Cát và một số thôn thuộc các xã Phú Sơn, Thủy Bằng (Hương Thủy). Do vậy, từ chiến khu Dương Hòa ta có nhiều thuận lợi để triển khai các hoạt động về các xã đồng bằng: Dương Hòa - Hương Thủy (từ Dương Hòa về Ấp 5, Thủy Phương), Dương Hòa - Hương Hồ (từ Dương Hòa qua đồi “Đất Mẹ” (Thủy Bằng), sau lưng điện Hòn Chén về Hương Hồ), Dương Hòa - Huế (Dương Hòa vượt qua sông đến Thủy Bằng về Huế), Dương Hòa - Liên khu 5 (Dương Hòa băng qua Khe Sòng, Khe Ván đi Nam Đông lên Liên khu 5).
Nhìn chung,“đặc điểm của chiến khu Dương Hòa là dễ thủ khó công. Tiếp tế lên về có nhiều đường, nhiều phía. Đánh địch cũng dễ vì chỉ cần vận động trong thời gian ngắn là có thể đến được nơi cần đến”[17] nên có nhiều ưu thế để cơ quan đầu não kháng chiến tỉnh chọn đây làm nơi đứng chân của mình để lãnh đạo kháng chiến.
Về mặt địa hình, Dương Hòa có nhiều điểm cao nếu ta làm chủ sẽ rất thuận lợi để nắm bắt kịp thời những mưu đồ và hoạt động của thực dân Pháp, Chính phủ bù nhìn Trung Kỳ, tạo điều kiện chỉ đạo sâu sát tình hình toàn tỉnh và thành phố Huế; nhiều khe, động, núi, sông ở Dương Hòa là những địa bàn lí tưởng để làm nơi trú chân của các cơ quan, ban, ngành lãnh đạo kháng chiến. Đến cuối tháng 6/1948, các cơ quan lãnh đạo kháng chiến của tỉnh đã di chuyển vào Chiến khu Dương Hòa an toàn:
Ty Công an đặt cơ quan tại lăng Gia Long.
Cơ quan quân sự, cơ quan đầu não tỉnh đóng ở khe Ồ Ồ (một nhánh của khe Dài).
* Bệnh viện, cơ quan thông tin văn hóa, cơ quan Thành ủy Huế đóng ở Khe Cống, đồi 815.
Trung đoàn 101 thường trú quân ở thôn Lương Miêu, Đại đội trọng pháo đóng quân ở Bến Trẹ (Dương Hòa).
Xưởng quân giới đóng ở Khe Dài.
Cơ quan tòa án, Công an tỉnh đóng ở xóm Hạ và xóm Trung (Buồng Tằm, Dương Hòa).
Chiến khu Dương Hòa được thành lập một mặt vừa tạo điều kiện cho Đảng bộ và nhân dân Dương Hòa tiếp nhận sự chỉ đạo sát sao của Ban Lãnh đạo kháng chiến của Tỉnh ủy, Huyện ủy, mặt khác cũng đặt ra cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Dương Hòa những nhiệm vụ hết sức nặng nề, đó là phải trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ an toàn tuyệt đối cho chiến khu và phải tổ chức các hoạt động đảm bảo việc vận chuyển, tiếp tế lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm cho chiến khu.
Trong những ngày đầu mới thành lập, Chiến khu Dương Hòa dựa vào sự che chở, tiếp tế của nhân dân các làng khắp Hương Thủy, Hương Trà cũng như thị xã Huế để duy trì hoạt động.
Hàng hóa trung chuyển từ đồng bằng lên Chiến khu Dương Hòa để chi viện cho các cơ quan cách mạng đều tập kết cạnh miếu Ngũ Hành, ở thôn Hạ (một thôn của Dương Hòa). Với vai trò, vị trí trọng yếu như vậy đối với chiến khu, khu vực này được xem như là chợ kháng chiến của ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp xâm lược[18]. Hoạt động của chợ kháng chiến Dương Hòa thời kì này rất tấp nập. Gần như mọi thứ hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu cho đời sống cán bộ, nhân dân đều có ở đây. Ngay cả khi địch tiến hành ngăn chặn, cô lập Chiến khu Dương Hòa khốc liệt, chợ kháng chiến Dương Hòa vẫn tiếp tục duy trì hoạt động. Nhiều đoàn dân công từ Dương Hòa lên, về thành phố tiếp tế lương thực, thực phẩm để nuôi cán bộ, bộ đội; nhiều con em Dương Hòa đã phải hi sinh vì bom đạn của địch hoặc bị bắt bớ tù đày trong quá trình vận chuyển các nhu yếu phẩm tiếp tế cho chiến khu, song vẫn một lòng trung thành với cách mạng; có nhiều chị; nhiều mẹ tháng tháng, ngày ngày nuôi giấu cán bộ, nuôi dưỡng thương binh, không một chút suy tính[19].
Hoạt động cách mạng ở một số thôn xóm xung quanh Dương Hòa không ngừng được đẩy mạnh để đảm bảo an toàn cho căn cứ địa kháng chiến của tỉnh.
Chiến khu Dương Hòa được thành lập, vạn đò ở trên sông đã tích cực tham gia kháng chiến nên được đặt tên là vạn Độc Lập, với hàm ý đây là địa bàn tích cực tham gia kháng chiến vì độc lập, tự do của quê hương đất nước. Từ bến sông của vạn đò này, nhân dân đã tiếp tế và trung chuyển hàng hóa từ đồng bằng Hương Thủy lên chiến khu.
Từ những hoạt động cách mạng của xóm Lụ, xã Dương Hòa (sau này giao cho Thủy Phương), nhân dân Hương Thủy đã gọi xóm này là “xóm Trung ương”. Vì tất cả những người muốn qua Tân Ba để vào Chiến khu Dương Hòa đã phải được kiểm tra, kiểm soát ở xóm này. Do vậy, Tân Ba và xóm Lụ được xem như tuyến đầu của Chiến khu Dương Hòa ở phía Đông.
Làng La Khê Trẹm là địa đầu của Dương Hòa. Nhờ trạm canh ở đây ta có thể quan sát mọi hoạt động của địch và đánh mỏ cảnh báo mỗi khi địch tổ chức các trận càn lên Chiến khu Dương Hòa[20]. Vì tổ chức tốt các hoạt động cảnh giới, cảnh báo từ xa nên thế chủ động của Chiến khu Dương Hòa trong việc chống càn được phát huy tối đa.
Mặt khác, nhân dân Dương Hòa đã tích cực phối hợp với các lực lượng chủ lực tỉnh, nhất là lực lượng công an tỉnh, huyện để bảo vệ an toàn cho các cán bộ và giữ vững chiến khu.
Trên cơ sở lực lượng công an trật tự rút từ Hòa Mỹ vào được bố trí sắp xếp lại, các đồn, trạm để bảo vệ chiến khu đã ra đời. Đồn Công an Dương Hòa thành lập có nhiệm vụ bảo vệ tiền chiến khu, nắm tình hình địch qua chị em tiểu thương Mỹ Thủy (Thủy Phương) lên buôn bán; đồn có nhiệm vụ kiểm soát chặt chẽ nhân, hộ khẩu để phát hiện người lạ vào chiến khu. Trạm gác ở bờ sông Kim Ngọc có nhiệm vụ nắm tình hình địch ở vùng La Khê Trẹm, người qua lại bến đò để vào Chiến khu Dương Hòa… Hàng tuần, các đồn, trạm công an đều báo cáo về Ty Công an (Ban II) danh sách người từ nơi khác đến tạm trú tại Kim Ngọc hoặc đi qua trạm để kiểm tra đối chiếu nhằm phát hiện những đối tượng nghi vấn để có đối sách xử lý kịp thời.
Tiếp đó, Ty Công an đã tham mưu cho Ủy ban kháng chiến - hành chính tỉnh lập thêm “Lao xá Nam” đóng tại chiến khu Dương Hòa phục vụ yêu cầu tạm giam phạm nhân các huyện Phú Lộc, Phú Vang, Hương Thủy và thị xã Huế[21].
Nhiều hoạt động chính trị góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, của các cán bộ cách mạng, các phong trào thi đua đã thường xuyên được triển khai, phát động tại Chiến khu Dương Hòa.
Để phổ biến chủ trương, đường lối kháng chiến, tuyên truyền thắng lợi của quân và dân ta, Nội san Danh dự (ra đời tháng 4/1947 Chiến khu Hòa Mỹ) được nâng lên thành Tạp chí Học tập do đồng chí Đoàn Hải làm biên tập, in li-tô tại Dương Hòa và phát hành đến quận, huyện. Những số báo trên được phát hành trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp đã góp phần giáo dục chính trị, tư tưởng, hướng dẫn, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên công an và tích cực động viên nhân dân tham gia ủng hộ kháng chiến, giúp đỡ công an hoàn thành nhiệm vụ[22].
Tháng 7/1948, lãnh đạo Ty Công an Thừa Thiên quyết định mở lớp Công an sơ cấp khóa Nguyễn Xuân Thưởng tại Thác Mít (Dương Hòa). Học viên là cảnh sát, đi động viên các huyện. Tháng 11/1948,
Ty Công An Thừa Thiên Huế mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho Trưởng quận Công an và các Trưởng ban của Ty tại Chiến khu Dương Hòa, thời gian học hai tháng.
Trên mặt trận kinh tế, cuộc đấu tranh chống chính sách bao vây kinh tế của địch diễn ra một cách quyết liệt. Mặc dù thực dân Pháp ra sức thực hiện chủ trương triệt phá công cuộc kháng chiến của nhân dân ta, đặc biệt chúng phá rối không cho đồng bào sản xuất, cày cấy trên ruộng đồng của mình, thậm chí lúa chín vàng địch quyết phá không cho nhân dân thu hoạch. Mọi âm mưu của kè thù không làm mất ý chí kiên cường và lòng quả cảm, mưu trí của cán bộ, đảng viên, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên). Trong thời gian đầu cuộc kháng chiến, địch càn quét rất ác liệt nhưng Chi bộ đảng, chính quyền cách mạng, các tổ chức đoàn thể vẫn lãnh đạo, động viên, tổ chức cho nhân dân và lực lượng vũ trang tranh thủ tăng gia sản xuất, phục vụ kháng chiến.
Có thể nói, trong thời gian đầu kháng chiến chống Pháp, một trong những thành tích tiêu biểu của nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) là đã góp phần mình xây dựng và bảo vệ chiến khu. Dưới bom đạn, đòn thù tra tấn của địch, nhân dân Dương Hòa vẫn bám trụ quê hương, che giấu và nuôi dưỡng cán bộ tỉnh, huyện, Trung ương về hoạt động và chỉ đạo phong trào kháng chiến ở Thừa Thiên Huế nói chung và Hương Thủy, Hương Trà nói riêng.
- Thống nhất bộ máy chính quyền xã và thành lập Chi bộ xã Hương Thọ (trong đó có Dương Hòa) (1949)[23], không ngừng tăng cường sức mạnh chiến đấu của toàn xã.
Năm 1949, cuộc kháng chiến của nhân dân cả nước chuyển dần từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy. Mọi tiềm năng của dân tộc cần được huy động để đáp ứng nhu cầu cần thiết cho cuộc kháng chiến. Đáp ứng tình hình của đất nước, được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, khoảng giữa năm 1949, xã Hương Thọ được thành lập. Xã Hương Thọ gồm các thôn của các xã Hương Nguyên (Lương Miêu, Dương Hòa, vạn Độc Lập, Đình Môn), xã Hương Ty (Kim Ngọc, La Khê Trẹm, Thạch Hàn, vạn Thạch Hàn) và xã Hương Phụng (Bình Điền, Diễn Phái, La Khê Bãi và Hải Cát)(1).
Trên cơ sở chính quyền của các đơn vị hành chính cũ, Ủy ban kháng chiến hành chính xã Hương Thọ đã ra đời, do đồng chí Hồ Văn Hiến làm Chủ tịch, Phó Chủ tịch kiêm chủ tịch Mặt trận Liên Việt là đồng chí Phan Hữu Huyên. Sau khi nhập thành xã lớn (xã Hương Thọ), Đại hội Đảng bộ xã Hương Thọ lần thứ nhất đã triệu tập vào cuối năm 1949 tại Am Cây Quạ bên hồ Dài, gần Sở Minh (lăng Gia Long), dưới chân núi Thiên Thọ thuộc thôn Đình Môn đã bầu ra ra Ban Chấp hành và bầu đồng chí Nguyễn Công Khanh làm Bí thư, bầu đồng chí Lê Thượng làm Phó Bí thư Chi bộ, Đảng bộ gồm 120 đảng viên, tổ chức thành nhiều chi bộ sinh hoạt theo đơn vị thôn. Riêng Chi bộ thôn Dương Hòa có hơn 20 đảng viên do đồng chí Phan Hữu Huyên, làm Bí thư chi bộ; Vạn Độc Lập có hơn 10 đảng viên do đồng chí Lê Hai, làm Bí thư chi bộ(2).
Đến năm 1950 tổ chức đảng ở Hương Thọ tiếp tục được kiện toàn về mặt tổ chức, do đồng chí Nguyễn Dương làm Bí thư, Phó Bí thư là đồng chí Trần Quang Hợi. Địa điểm sinh hoạt của tổ chức đảng ở Hương Thọ được chuyển từ Đình Môn về Liên Bằng đóng tại nhà ông Nguyễn Khắc Niêm. Ủy ban kháng chiến hành chính xã do đồng chí Phan Nghệ làm Chủ tịch; đồng chí Trần Bính làm Phó Chủ tịch. Trụ sở Ủy ban đóng tại nhà bà Vẽ thôn Thạch Hàn(3).
(1) (2) Tư liệu Hội thảo xây dựng Lịch sử Đảng bộ xã Dương Hòa lần thứ nhất, ngày 07 tháng 12 năm 2015 (Văn phòng - Đảng ủy xã Dương Hòa).
(3) Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Thọ, Lịch sử Đảng bộ xã Hương Thọ (1930 - 2010), Huế, tháng 4/2015, Bản đánh máy, trang 32.
Nhằm xây dựng lực lượng chính trị vững mạnh đảm bảo là hậu phương của cơ sở kháng chiến đầu não, Chi bộ chủ trương tăng cường công tác phát triển đảng, đẩy mạnh việc xây dựng các đoàn thể. Chỉ trong một thời gian ngắn đã xây dựng được hệ thống chính trị ở hầu hết các thôn trung tâm và những vùng xa như vạn Độc Lập, thôn Bình Điền. Về công tác quần chúng, Chi bộ tập trung củng cố các đoàn thể nông hội, thanh niên, phụ nữ, thiếu niên tiền phong. Gần như toàn bộ người dân tùy theo độ tuổi, giới tính đều tham gia một hội, đoàn thể và có nhiều việc hành động thiết thực để phục vụ kháng chiến. Nhiều nam nữ thanh niên xung phong vào du kích xã để chiến đấu, một số thanh niên tình nguyện gia nhập bộ đội chủ lực, một số khác tham gia công tác tại các cơ quan của tỉnh như: y tế, xưởng in, thông tin văn hóa, bưu điện… Nhiều trạm gác được lập nên ở La Khê Trẹm, Thạch Hàn, Đình Môn, Dương Hòa do lực lượng thiếu niên phối hợp với thanh niên ngày đêm canh gác, tuần tra, cảnh giới, báo động để lực lượng của ta kịp thời tổ chức đánh giặc hoặc di chuyển.
Lực lượng vũ trang xã được tổ chức và tăng cường thêm về số lượng và chất lượng do đồng chí Mai Văn Trừng làm Xã đội trưởng, sau đó thì đồng chí Hoàng Trọng Duyệt (thôn Kim Ngọc) thay. Đặc biệt Chi bộ rất quan tâm đẩy mạnh củng cố và phát triển lực lượng dân quân du kích. Toàn xã có 3 trung đội du kích tập trung, mỗi thôn có 1 trung đội.
Sự kiện thành lập xã Hương Thọ có ý nghĩa to lớn trong đời sống chính trị của nhân dân. Lần đầu tiên sức mạnh của nhân dân địa phương được quy tụ lại, lớn mạnh hơn, có kinh nghiệm hơn nhiều so với thời kỳ đầu kháng chiến. Ủy ban hành chánh kháng chiến, các tổ chức đoàn thể quần chúng, lực lượng vũ trang ra đời dựa trên cơ sở đội ngũ cán bộ cốt cán qua thử thách trong thời gian tương đối dài và khá ác liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ đây, nhân dân Dương Hòa dưới sự lãnh đạo của Chi bộ xã Hương Thọ, được tôi luyện và trưởng thành trong cuộc chiến đấu một mất một còn với địch, sức mạnh vốn có của nhân dân Dương Hòa lại được nhân lên gấp bội, lập thêm nhiều chiến công trên tất cả các mặt trận.
Trong những năm 1949, 1950 mặc dù địch ráo riết tăng quân càn quét đồng bằng, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt”, tập trung binh lực để xóa sổ chiến khu nhưng không thể thực hiện được và phải nhận những thất bại cay đắng sau những đợt phản kích của ta.
Từ 25/2 đến 14/3/1949, dưới sự chỉ đạo của Thủ hiến Trung Kỳ Phan Văn Giáo địch tập trung 2000 quân, có máy bay yểm hộ theo 3 hướng: từ Truồi - Nong lên La Hy theo đường 14, từ Tuần theo sông Hữu Trạch đến Bình Điền, từ Dạ Lê (Thủy Phương) tiến lên Lương Miêu - Dương Hòa để đánh phá chiến khu, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Nắm được âm mưu của địch, Tỉnh ủy kịp thời chỉ đạo các cơ quan và nhân dân sơ tán, hạn chế tổn thất. Đồng thời chỉ đạo bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, công an, dân quân du kích hợp đồng chiến đấu, nhằm phá trận càn của địch, bảo vệ chiến khu. Sau 20 ngày phối hợp chiến đấu bảo vệ chiến khu, quân, dân Thừa Thiên Huế trong đó có quân, dân Dương Hòa đã loại khỏi vòng chiến đấu 350 tên địch (có 1 quan tư, 1 quan ba, 1 quan hai), âm mưu “tiêu diệt chiến khu” của địch đã bị quân, dân ta đánh bại hoàn toàn.
Tiếp đó vào tháng 3/1949, tại trạm canh ở La Khê Trẹm, ba cán bộ của ta đã quan sát được mọi hoạt động của địch ở đồn Tuần và phát hiện quân Pháp đang chuẩn bị đợt hành quân càn quét của từ đồn Tuần hướng về La Khe Trẹm. Nắm bắt được ý đồ hành động của kẻ địch, Chi bộ đảng Dương Hòa đã kịp thời lãnh đạo nhân dân phối hợp với chủ lực của tỉnh, Thành đội Huế tiến hành chống càn. Kết quả ta đã đẩy lùi được trận càn của địch.
Sau những thất bại trên, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ mưu đồ xóa sổ Chiến khu Dương Hòa. Tháng 12/1949, địch tiếp tục mở trận tiến công lớn với 3 cánh quân đánh chiếm Chiến khu Dương Hòa. Cánh quân thứ 3 từ Phú Bài lên Dạ Lê (Thủy Phương), tiến lên sông Tả Trạch và dừng lại tại vùng Vỹ Dạ Thượng để đánh hủy diệt vùng này. Sau 20 ngày đêm tiến hành càn quét, chúng đã bị bộ đội chủ lực tỉnh kết hợp với du kích Dương Hòa dưới sự lãnh đạo của Chi bộ đảng đánh bại, buộc phải rút về Huế[24].
Tháng 5/1950, bộ đội địa phương Hương Thủy phối hợp với nhân dân du kích Dương Hòa và 1 đơn vị Trung đoàn 101 đánh bại trận càn của địch lên chiến khu.
Song song với những hoạt động quân sự, để làm thất bại chính sách chiêu an của Thủ hiến Trung Kỳ Phan Văn Giáo, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế chủ trương chú trọng hơn nữa đấu tranh chính trị, tăng cường binh vận, địch vận, động viên, giáo dục để nhân dân hiểu bản chất của kẻ địch và tin tưởng vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Với đặc thù là địa bàn trung tâm của chiến khu tỉnh, địch thường xuyên tung gián điệp, mật vụ giả dạng buôn bán, người thân để lên nắm tình hình. Do vậy, nhân dân Dương Hòa luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực phối hợp với các ban ngành của tỉnh chỉ thị, đẩy lùi các hoạt động chống phá từ bên trong của kẻ thù, bảo đảm an toàn cho các sự kiện chính trị quan trọng diễn ra trên địa bàn như các kì đại hội, Hội nghị của Tỉnh ủy và hoạt động của các ban, ngành đang trú chân tại đây.
Nhận thức rõ đặc thù trên, công tác giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức cảnh giác cho nhân dân rất được Chi bộ Hương Thọ đề cao. Nhờ làm tốt công tác này nên trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Hương Thọ không xảy ra tình trạng địch đánh phá do bị chỉ điểm. Đánh giá về những đóng góp của các đoàn thể và nhân dân Dương Hòa cho kháng chiến, Đại hội Dân quân tỉnh nhấn mạnh “về sự ủng hộ của đoàn thể, cơ quan, dân chúng: Chỉ có xã Hương Thọ giúp đỡ nhiều, còn các xã khác lẻ tẻ vì dân quân chưa công tác gì đặc biệt”. Những đóng góp này được thể hiện cụ thể qua những sự kiện sau:
Tháng 3/1949, Đảng bộ và nhân dân Dương Hòa đã bố trí chỗ ăn ở cho cụ Ưng Úy sau khi Đội Công an xung phong phối hợp với lực lượng tại chỗ của Quận Công an Hương Thủy, Phú Vang đưa cụ Ưng Úy và vợ lên chiến khu an toàn. Việc đưa và bảo vệ an toàn cụ Ưng Úy ra vùng tự do nhằm thực hiện chính sách đại đoàn kết của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã góp thêm tiếng nói đứng về phía cách mạng của những người trong Hoàng tộc có tác dụng rất lớn trong việc vận động quần chúng nhân dân đứng lên chống Pháp, ủng hộ kháng chiến(1).
Để trang cấp thêm y cụ và thuốc chữa bệnh cho bệnh viện ở Chiến khu Dương Hòa, biết tin Bệnh viện Huế vừa được trang cấp thêm dụng cụ phẫu thuật, thực hiện chỉ thị của Ty Công an tỉnh, các đồng chí Tráng Thông và Lâm Ấm, cơ sở của ta trong cơ quan cứu tế xã hội địch cùng các đồng chí Tôn Thất Long, Phan Văn Lưu (cơ sở Ban Dân vận Thị ủy Thuận Hóa) đã liên lạc với hai nữ y tá là cơ sở của ta tại Bệnh viện Huế lên kế hoạch để hành động. Với quyết tâm cao độ, mưu trí, hơp đồng chặt chẽ, lợi dùng từng chi tiết sơ hở của địch để đánh lừa địch và bảo vệ được cơ sở, chỉ trong một đêm ta đã lấy được bộ đồ mổ và một số thuốc chữa bệnh đưa ra Chiến khu Dương Hòa đầy đủ và an toàn để cứu chữa cho thương, bệnh binh phục vụ kháng chiến2.
Trên đà những thắng lợi quân sự, chính trị đã đạt được, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ I từ ngày 17/4/1949 đến ngày 27/4/1949 được tổ chức ở trung tâm Dương Hòa (cách đình làng Dương Hòa về phía Tây khoảng 3000m) với 130 đại biểu đại diện cho hơn 2000 đảng viên trong tỉnh đã diễn ra và thành công tốt đẹp.
(1) (2) Bộ Công an - Công an Thừa Thiên Huế, Biên niên Lịch sử Công an nhân dân Thừa Thiên Huế (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 107-109 và trang 107 - 109; 111 - 112.
Cuối năm 1949, tại Chiến khu Dương Hòa, lực lượng di động viên và công an đang hoạt động trên địa bàn Hương Thủy đã phối hợp với Ty Công an Thừa Thiên Huế đưa tên Hồ Minh lên Thác Mít (nơi đặt trụ sở Ty Công an Thừa Thiên Huế), để khai thác và sau đó xử lý; làm thất bại kế hoạch thu thập và ghép một bức ảnh có hình đồng chí Trưởng ty Công an Thừa Thiên cùng với một số cán bộ, nhân viên kháng chiến đứng dưới lá cờ ngụy ở một khu rừng để tuyên truyền khuếch đại là đã lập ra được một chiến khu “Quốc gia” chống cộng sản của kẻ thù.
Tiếp đó vào tháng 3/1950, Hội nghị điệp báo ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và Khu V được tổ chức tại Lương Miêu (Dương Hòa)[25].
Ngày 19/5/1950, tại Thác Hộ, Chiến khu Dương Hòa, trước đông đảo cán bộ các ngành, các cấp cùng cán bộ, nhân viên Ty Công an và một số đồng bào ở Dương Hòa[26], Tỉnh ủy , Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Thừa Thiên đã tổ chức lễ trao tặng phần thưởng chiếc áo bông của Bác Hồ cho Ban điệp báo Ty Công an Thừa Thiên Huế vì đã lập được nhiều chiến công xuất sắc trong phong trào thi đua “giết giặc lập công”.
Từ ngày 02 đến ngày 06/9/1950 Ty Công an đã tổ chức Đại hội trật tự xã tại Chiến khu Dương Hòa. Tham dự Đại hội có đại biểu của Ủy ban Kháng chiến hành chính của 15 xã, 78 đại biểu của 6 huyện và 12 đại biểu của Ty Công an Thừa Thiên Huế. Đại hội tập trung thảo luận một số vấn đề về tình hình trật tự xã, lân gia liên bảo và thông qua đề án phòng gian chống mật thám, chống địch bao vây kinh tế.
Với sự hỗ trợ và giúp sức của nhân dân Dương Hòa, những hoạt động chính trị mang tính định hướng chiến lược cho các lực lượng cách mạng trên toàn tỉnh được diễn ra một cách an toàn và thắng lợi, góp phần vào sự phát triển của phong trào cách mạng trong những giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh những hoạt động quân sự và chính trị để bảo vệ an toàn cho chiến khu, hoạt động đảm bảo công tác hậu phương kháng chiến cũng được Chi bộ Hương Thọ chú trọng. Dưới sự lãnh đạo của các cán bộ, đảng viên cơ sở, nhân dân Dương Hòa đã tích cực, sáng tạo, vượt qua nhiều tuyến ngăn chặn của địch để vào thị xã Huế thu mua lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm cung cấp cho các cơ quan kháng chiến, các đơn vị bộ đội; các chợ kháng chiến Dương Hòa, Đình Môn làm tốt nhiệm vụ đầu mối thu mua hàng hóa phục kháng chiến.
Như vậy, giai đoạn từ khi mặt trận vỡ đến cuối 1950, là một quá trình chuyển hóa quan trọng cả về chất và lượng của phong trào cách mạng ở Dương Hòa. Có thể nói, trong thời gian đầu, Dương Hòa cũng nằm trong tình trạng khó khăn chung của toàn tỉnh, phong trào bị động, lúng túng. Nhưng qua thực tế, dần dần phong trào đã ổn định, củng cố và phát triển mạnh. Đây là thời kì mà Dương Hòa củng cố lực lượng, xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ chiến khu Dương Hòa, bảo vệ cơ quan lãnh đạo kháng chiến của tỉnh Thừa Thiên Huế, góp phần tạo nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Phát huy những thắng lợi đã đạt được trong giai đoạn 1947 - 1950, nhân dân Dương Hòa bước vào thời kỳ mới, tuy có gian khổ, ác liệt, khó khăn hơn nhưng đầy tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến của toàn dân.
3. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Dương Hòa từ 1951 - 20/7/1954.
Với chiến thắng Biên giới Thu Đông năm 1950 và những chiến thắng liên tiếp của ta từ đầu năm 1951 đã tạo ra thế chiến lược mới ngày càng có lợi cho ta, bất lợi cho địch: ta giữ vững quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính ở Bắc Bộ, và đẩy mạnh chiến tranh du kích trên các chiến trường khác. Địch bị tổn thất nặng nề và ngày càng rơi vào thế bị động, lúng túng.
Được sự giúp đỡ của Mỹ, thực dân Pháp đưa ra nhiều thủ đoạn điên cuồng, xảo quyệt, tập trung củng cố về mặt quân sự hòng ngăn chặn bước tiến mạnh mẽ của ta. Là địa bàn có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, nên Dương Hòa đã trở thành nơi trọng điểm địch thường xuyên tổ chức các cuộc càn quét, bắn phá khu vực này nhằm “tiêu diệt” Chiến khu Dương Hòa. Song dù cố gắng bao nhiêu, chúng cũng không thể xoay chuyển được cục diện của chiến tranh đang phát triển theo chiều hướng ngày càng có lợi cho ta.
Ngày 21/01/1950, Đảng Cộng sản Đông Dương họp Hội nghị toàn quốc của Đảng đề ra những nhiệm vụ cần kíp cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 02/5/1950, tại Khe Rệ (Dương Hòa), Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ II đã họp và ra Nghị quyết nêu rõ: “Nhiệm vụ hàng đầu và cấp thiết là xây dựng lực lượng quân sự, phát triển đồng thời cả ba thứ quân, huy động nhân tài, vật lực của nhân dân trong tỉnh phục vụ kháng chiến, chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”[27]. Đại hội chủ trương phát động toàn dân mở chiến tranh du kích, bao vây đồn địch, kiên quyết chống càn mở rộng vùng giải phóng.
Sau Đại hội này, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 4/1952) về chỉnh Đảng, Huyện ủy Hương Trà[28] đã mở lớp “sơ chỉnh” cho cán bộ, đảng viên. Lực lượng cán bộ, đảng viên thôn Dương Hòa, Hương Thọ đã được tham dự các lớp sơ chỉnh để nâng cao nhận thức, gắn bó hơn với Đảng, với dân, với kháng chiến. Trên cơ sở đó, đã góp phần củng cố, tăng cường chất lượng hoạt động của Chi bộ Hương Thọ.
Sau đợt sơ chỉnh đảng, ý thức giai cấp của các đảng viên được nâng lên, nội bộ Đảng đoàn kết, phấn khởi, quyết tâm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Trong những năm 1952, 1953 Chi bộ tiếp tục được kiện toàn về mặt tổ chức. Đồng chí Nguyễn Bách được Chi bộ tín nhiệm bầu làm Bí thư xã Hương Thọ và đồng chí Trần Quang Hợi làm Phó Bí thư. Ủy ban Kháng chiến hành chính xã do đồng chí Mai Sử làm Chủ tịch, đồng chí Trần Quang Bính làm Phó Chủ tịch. Riêng bộ máy ở Dương Hòa vẫn giữ nguyên như cũ[29].
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chi bộ Hương Thọ nhân dân Dương Hòa từng bước ổn định lại tình hình, đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh quân sự, chính trị, kinh tế góp phần cùng quân dân cả nước phát huy những lợi thế mà ta đã đạt được sau chiến dịch Biên giới Thu - Đông năm 1950.
Trên mặt trận quân sự, vào năm 1951, địch mở những trận càn quét lớn để bảo vệ hệ thống lô cốt và đánh phá phong trào kháng chiến trong toàn huyện với âm mưu, đánh bật du kích ta ra khỏi thôn xóm.
Để chặn đứng việc địch thực hiện các kế hoạch càn quét lên Chiến khu, Chi bộ Dương Hòa (Hương Thọ) đã tăng cường việc xây dựng lực lượng vũ trang. Ngoài trung đội du kích tập trung của xã do đồng chí Nguyễn Phước Em (tức Tráng Em) làm Xã đội trưởng, tất cả các thôn đều có lực lượng dân quân du kích làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ làng xóm, bao vây, chống càn. Tham gia đội du kích tập trung của Dương Hòa có các đồng chí: Phan Dương, Phan Mông, Lê Thạc, Phan Văn Xuyên, Phan Thị Soi, Nguyễn Thị Gái, Võ Thuyết, Võ Đại Thoan (tức Võ Thanh Duy), Lê Thị Sâm...
Đến năm 1952, để cứu vãn thất bại trong chiến tranh, địch rút các vị trí lẻ để tập trung lực lượng mở các cuộc càn quét trên diện hẹp dài ngày, nhằm vào các căn cứ du kích và vùng đứng chân của chủ lực ta.
Hệ thống phòng thủ của địch được xây dựng ngày càng kiên cố, nhiều làng mạc bị triệt hạ, cục diện chiến tranh ở Thừa Thiên Huế trở nên quyết liệt. Trong đó, Chiến khu Dương Hòa vẫn là một trong những trọng điểm bắn phá, triệt hạ của kẻ thù.
Ngày 19/6/1952, Bộ Chỉ huy quân Pháp huy động Tiểu đoàn 27 lính Âu Phi, Tiểu đoàn 2 lính Bắc Phi tấn công lên Chiến khu Dương Hòa, nhằm bao vây và tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến của ta. Ngày 20/6 địch tiến lên Dương Hòa, chúng cho quân tản ra đốt nhà cửa, tàn phá tài sản của nhân dân xung quanh vùng chiến khu. Trước khi tấn công chúng cho mật vụ, gián diệp thăm dò tình hình biết được rằng Tiểu đoàn 319, Trung đoàn 101 đóng tại Đình Môn đã rút ra Quảng Trị, nên có phần chủ quan trong trận tập kích này. Đúng 9 giờ, ngày 20/6/1952, địch đã ồ ạt dùng tàu chiến, ca nô chở quân ngược sông Hương lên đánh phá chiến khu. Khi quân Pháp vừa từ các chiếc thuyền nhỏ đổ bộ lên khu vực bờ sông xóm Hạ, thôn Dương Hòa, quân dân ta đã mai phục từ trước, ở các rặng tre và một số mỏm đồi cao xung quanh nhanh chóng nổ súng đánh phủ đầu. Bất ngờ quân Pháp bị thương vong nhiều nhưng vẫn ngoan cố chống trả. Tiếp đó, quân dân Dương Hòa đã tổ chức các loại hầm chông, bẫy để phục kích địch, nhằm ngăn chặn những bước tiến quân của địch. Mặt khác, nhận lệnh của Bộ Chỉ huy mặt trận, Trung đoàn 101 cấp tốc hành quân vượt qua đoạn đường rừng gần 30 km dày đặc đồn địch quay trở lại chiến khu đánh địch. Đến sáng ngày 21/6, Trung đoàn 101 đã tiến về Chiến khu Dương Hòa, vừa đến nơi, cán bộ chiến sĩ đã dàn trận địa áp sát mục tiêu, chờ lệnh nổ súng. Đúng 13 giờ 30 ngày 21/6, các mũi xung kích của Tiểu đoàn 435 và Tiểu đoàn 319 xông lên dũng mãnh tiến công địch. Bọn địch bất ngờ bị ta tập kích bỏ chạy tán loạn vào rừng. Sau 15 phút nổ súng, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, tiêu diệt gần 350 tên, bắt sống 38 tên, thu 71 súng trung liên, 15 tiểu liên, 25 súng cối, 37 súng trường và nhiều phương tiện quân sự khác…
Trong trận vận động chiến ở Chiến khu Dương Hòa ngày 20/6/1952 dân quân du kích Lương Miêu, Dương Hòa, Đình Môn… đã phối hợp chặc chẽ với Trung đoàn 101, bộ đội huyện Hương Thủy, đánh địch thu được nhiều thắng lợi. Với chiến thắng này đã chứng minh ý thức chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc của chiến sĩ với tinh thần vượt qua mọi khó khăn, đảm bảo yếu tố bí mật bất ngờ, chiến đấu dũng cảm với quyết tâm cao và sự trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt của lực lượng vũ trang Thừa Thiên Huế nói chung và dân quân du kích Dương Hòa nói riêng; khẳng định sự bất khả xâm phạm của Chiến khu Dương Hòa, nâng vị thế Dương Hòa thành một chiến khu có tầm vóc trong cả nước. Sau trận đánh năm 1952, thực dân Pháp không đủ khả năng tấn công lên chiến khu, chúng tìm cách ngăn chặn các ngã đường tiếp tế của ta từ đồng bằng lên chiến khu.
Không chỉ chặn đánh địch ở vòng ngoài, trong những năm 1951 - 1953, các hoạt động đấu tranh chính trị, kinh tế nhằm củng cố tổ chức và mọi sinh hoạt đời sống trong Chiến khu Dương Hòa cũng rất được chú trọng.
Chi bộ Dương Hòa (Hương Thọ) được kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo, các đoàn thể quần chúng dần dần đi vào hoạt động có nề nếp, có tác dụng tích cực, nhất là tổ chức Thanh niên và Phụ nữ. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ được tổ chức thường xuyên trong thanh niên để gây khí thế cho kháng chiến. Phụ nữ tham gia tích cực phong trào chăm sóc cán bộ, bộ đội và thương binh. Trong đợt một (từ năm 1952 đến tháng 8/1953) hưởng ứng vận động gây quỹ nuôi quân, nhân dân Dương Hòa đã đóng góp và vận chuyển hàng trăm tấn gạo từ các xã đồng bằng lên chiến khu. Thanh niên tình nguyện tham gia tòng quân, hàng trăm con em Dương Hòa đã gia nhập lực lượng vũ trang của huyện và tỉnh…
Đặc biệt, trong hai năm 1951, 1952 trên đường đi công tác từ Bắc vào Nam, một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước như đồng chí Lê Đức Thọ (1948), đồng chí Phạm Văn Đồng (1949), đồng chí Lê Duẩn (1951), Phạm Hùng (1952)… đã dừng chân trực tiếp chỉ đạo và kịp thời thăm hỏi, động viên và phổ biến những chủ trương, đường lối kháng chiến cho cán bộ lãnh đạo tỉnh, khu và chiến sĩ tại Chiến khu Dương Hòa, góp phần thúc đẩy và phát triển hơn nữa sự nghiệp kháng chiến của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ngày 06/2/1952, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên họp đánh giá tình hình và ra chỉ thị phát triển phong trào chiến tranh du kích, ra sức bảo vệ mùa màng, thực hiện thuế nông nghiệp, đẩy mạnh cuộc vận động tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm.
Thực hiện chủ trương trên của Tỉnh ủy, bộ đội địa phương, dân quân, du kích Dương Hòa tích cực tổ chức cho dân gặt lúa ban đêm, thực hiện phương châm: “Đẩy mạnh chiến tranh du kích, gặt mau, giấu kín”. Mặc khác, lực lượng vũ trang cũng đã bảo vệ các đoàn vận tải chuyển lúa công lương, thuế nông nghiệp từ các xã đồng bằng, vượt Quốc lộ I, vượt sông lên Chiến khu Dương Hòa an toàn[30].
Đầu tháng 5/1953, Chính phủ Pháp cử tướng Nava sang làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Kế hoạch Nava ra đời với tham vọng tạo ra một tình hình quân sự cho phép đưa ra một giải pháp chính trị thích hợp để giải quyết chiến tranh.
Trong giai đoạn đầu triển khai Kế hoạch Nava, quân Pháp chủ trương giữ thế phòng ngự chiến lược, tránh quyết chiến với lực lượng vũ trang ta ở đồng bằng Bắc Bộ, thực hiện chiến lược tiến công ở Nam Bộ, xóa 2 vùng tự do của Liên khu 4 và Liên khu 5. Đối với địa bàn Thừa Thiên Huế, thực dân Pháp ráo riết bắt lính củng cố các vị trí chiếm đóng, mở hàng chục trận càn quét, tập kích đánh phá, đẩy mạnh chiến tranh tâm lí, bình định đồng bằng nhằm chuyển bại thành thắng trong khoảng thời gian 18 tháng. Trong tháng 7/1953, địch liên tiếp mở các cuộc càn quét ở Dương Hòa (Hương Thọ), gây cho ta nhiều khó khăn.
Tiếp đó, nhân dân Dương Hòa lại phải gánh chịu những tổn thất nặng nề do trận lũ tháng 9/1953 gây ra. Trong đợt thiên tai này, trên toàn xã Hương Thọ hàng trăm ngôi nhà đã bị cuốn trôi, hơn 90 người chết, hàng nghìn con trâu, bò, lợn gà bị nước cuốn, hoa màu bị hư hỏng nặng.
Tàn ác hơn, khi nhân dân còn tập trung trên các đỉnh đồi để chạy lụt thì địch còn cho máy bay đến bắn phá, nên nhân dân ngày càng khó khăn[31].
Trước những chuyển biến mới trên chiến trường, ngày 19/10/1953, tại Dương Hòa, Tỉnh ủy đã mở Hội nghị cán bộ chính trị và phát động phong trào thi đua giết giặc lập công, phối hợp với chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 trên toàn quốc.
Quán triệt chủ trương trên của Tỉnh ủy, trong những tháng cuối năm 1953, Chi bộ Dương Hòa (Hương Thọ) đã nhanh chóng đề ra các chủ trương tập trung khắc phục hậu quả lũ lụt. Với tinh thần vượt khó cùng với cự hỗ trợ tích cực từ nhiều đơn vị, địa phương chỉ trong một thời gian ngắn nhân dân Dương Hòa đã từng bước vượt qua khó khăn, thử thách, tiếp tục cùng quân, dân toàn tỉnh tiến lên đánh địch. Dân quân du kích tập trung ở La Khê Trẹm ngày đêm không lúc nào rời vị trí bao vây, uy hiếp đồn Trầu, giết nhiều tên địch; tổ du kích thôn Kim Ngọc do đồng chí Mai Văn Trừng chỉ huy bắn qua bến đò Dương Phẩm, nơi bọn Pháp đang tập trung làm chết một tên quan ba và nhiều tên khác; du kích thôn Đình Môn bắn máy bay địch đang uy hiếp đoàn vận tải từ Nghệ Tỉnh đi qua thôn Đình Môn vào Khu 5…
Ngày 13/3/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn, quân dân Dương Hòa tích cực tiến công địch để chia lửa với chiến trường chính.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (9/5/1954) và Hiệp định Giơnevơ về Việt Nam được ký kết (21/7/1954). Tại Dương Hòa, lính ở các đồn bốt hoảng hốt bỏ chạy về với nhân dân. Nhân dân Dương Hòa đã nổi dậy làm chủ quê hương của mình trong không khí cả nước vui mừng chào đón hoà bình sau cuộc kháng chiến trường kỳ chín năm gian khổ và ác liệt.
* *
*
Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), nhân dân Dương Hòa đã viết lên những trang sử truyền thống hào hùng cho quê hương, đóng góp cho cuộc kháng chiến của dân tộc những thành tích rất đáng tự hào.
Trước hết, Dương Hòa luôn là vị trí bàn đạp của lực lượng cách mạng đối với thị xã Huế và những xã ven Huế. Do vậy, trong thời kỳ ác liệt chống thực dân Pháp xâm lược, Dương Hòa đã được chọn làm nơi trú chân của các cơ quan Huyện ủy và Tỉnh ủy. Chính từ đây, những nghị quyết quan trọng của Đảng đã được ban hành và truyền đến các địa phương khác trên toàn tỉnh.
Với địa thế hiểm yếu và mang tính uy hiếp trực tiếp đối với thị xã Huế, Dương Hòa đã trở thành “cái gai” trong mắt thực dân Pháp. Địch không muốn mất Huế, không muốn Huế bị cô lập, tất nhiên phải “xóa sổ” Dương Hòa, nơi đóng quân của các cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Mặc dù là trọng điểm bắn phá của kẻ thù, nhưng ý chí đấu tranh, không ngại hy sinh, gian khổ; nhân dân Dương Hòa vẫn luôn phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, giúp Chiến khu Dương Hòa hoàn thành sứ mạng là chiến khu trung tâm nối liền hành lang Chiến khu Hòa Mỹ (Phong Điền) với Chiến khu Khe Tre - Nam Đông (Phú Lộc) để tiền nhập vào thị xã Huế đánh địch và trở thành vùng đất thánh “bất khả xâm phạm” một thời gian từ 1951 đến 1954.
Trong sứ mệnh bảo vệ và phát triển của chiến khu, nhân dân Dương Hòa đã tham gia đóng góp và vận chuyển hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm; khí tài, đạn dược, số lương thực nhân dân Dương Hòa đóng góp cho kháng chiến nhiều hơn so với dân số của Dương Hòa lúc đó. Chính nơi đây đã sản sinh ra nhiều cái tên huyền thoại phản ánh quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do cho Tổ quốc như Vạn Độc Lập (Vạn Tân Ba), chợ Kháng chiến (chợ thôn Hạ), xóm Trung ương (xóm Đồng Tân), Võng Gác “Mắt Thần” (trạm canh ở đồi làng La Khê Trẹm)… Chiến khu Dương Hòa là nơi đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử hết sức trọng đại như Đại hội Đảng và các Hội nghị của Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế và các cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh như: Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thừa Thiên Huế lần thứ I (17/4 - 27/4/1949), Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II (từ 02/5 - 15/5/1950), Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III (từ 20 - 24/7/1951), Hội nghị cán bộ chính trị toàn tỉnh phát động phong trào thi đua giết giặc lập công phối hợp chiến dịch Đông xuân 1953 - 1954 trên toàn quốc…; là điểm dừng chân và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước trong kháng chiến như đồng chí Lê Đức Thọ (1948), Phạm Văn Đồng (1949), Lê Duẩn (1951), Phạm Hùng (1952)…
Không chỉ trực tiếp tham gia làm tốt hậu phương của chiến khu, nhân dân Dương Hòa còn góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Trong lực lượng bộ đội chủ lực khắp các chiến trường bao gồm Cảm tử quân, Trung đoàn 101, Bộ đội địa phương huyện và lực lượng dân quân tự vệ đều luôn có những gương mặt con em Dương Hòa. Theo đà phát triển của cuộc kháng chiến, lực lượng dân quân du kích Dương Hòa ngày càng trưởng thành đã trực tiếp tác chiến hay phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương đánh hàng chục trận lớn nhỏ, tiêu hao và tiêu diệt địch với nhiều cách đánh địch thông minh, sáng tạo, góp phần vào thắng lợi chung của cả nước.
Trong suốt chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Dương Hòa xứng đáng với sự tin cậy của cấp trên, chịu nhiều hy sinh mất mát, nhiều người con ưu tú của Dương Hòa đã hy sinh tính mạng để phục vụ cho độc lập, tự do của quê hương, đất nước[32]. Chính vì vậy, có thể xem cuộc kháng chiến ở Dương Hòa là hình ảnh thu nhỏ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Thừa Thiên Huế…
Câu trả lời của bạn: 17:58 17/01/2022
Đầu thế kỷ 19, cuộc cách mạng mở ra với sự cơ giới hóa ngành dệt may, James Watt- phụ tá thí nghiệp của một trường đại học đã phát minh ra máy hơi nước giúp các nhà máy dệt có thể đặt bất kỳ nơi nào ( vào thời điểm đó máy dệt phải chạy nhờ vào sức nước) .
Đến năm 1785, linh mục Edmund phát minh ra máy dệt vải, bước tiến quan trọng cho ngành dệt. giúp tăng năng suất lên tới 40 lần.
Năm 1784, Henry Cort đã tìm ra cách luyện sắt pudding, mở đầu bước tiến cho ngành luyện kim. Nhưng với những phát minh đời đầu, phương pháp của Henry Cort tuy có lượng sắt đã luyện chất lượng nhưng không đáp ứng được yêu cầu về máy móc. Đến năm 1885, Henry Bessemer phát minh ra lò luyện gang thành thép lỏng, khắc phục được nhược điểm của máy trên.
Thương mại ngày càng mở rộng, hình thành lên kênh đào giao thông và đường sắt. Ngành giao thông vận tải cũng được ra đời với chiếc đầu xe lửa chạy bằng hơi nước đầu tiên vào năm 1804 với vận tốc lên đến 14 dặm/h . Đến năm 1807, Robert Fulton lại chế tạo ra tàu thủy chạy bằng hơi nước thay thế cho những mái chèo và những cách buồm.
3. Ý nghĩa của cuộc cách mạng công nghiệp lần 1 mang lại.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã mang lại nhiều biến đổi mới. Đã thay thế được hệ thống kỹ thuật truyền thống cũ của thời đại nông nghiệp bằng một hệ thống kỹ thuật tân tiến với nguồn lực là máy hơi nước và nguyên, nhiên vật liệu. Ngoài ra còn tìm kiếm được năng lượng mới là sắt và than đá.
Sự thay đổi đó đã giúp sản xuất được phát triển mạnh mẽ, gia tăng năng suất đột biến, bứt phá trong nông nghiệp, giúp nền kinh tế các nước đi lên. Chuyển đổi bộ máy cũ kỹ qua bộ máy sản xuất cơ khí trên cơ sở khoa học. Làm tiền đề cho nền kinh tế thời đại mới.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 16:17 17/01/2022
* Công lao của phong trào Tây Sơn trong việc thống nhất đất nước:
- Lật đổ chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong và đánh tan quân xâm lược Xiêm:
+ Năm 1771, cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra tại ấp Tây Sơn (Bình Định).
+ Năm 1777, quân Tây Sơn đã lật đổ chính quyền của chúa Nguyễn, làm chủ phần đất từ Quảng Nam trở vào.
+ Từ năm 1784 đến năm 1785, quân Tây Sơn đánh bại quân xâm lược Xiêm với chiến thắng tiêu biểu ở Rạch Gầm - Xoài Mút.
- Lật đổ chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài:
+ Trong những năm 1786 - 1788, phong trào Tây Sơn đã lần lượt lật đổ hai tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh, làm chủ toàn bộ đất nước.
+ Phong trào Tây Sơn đánh tan quân xâm lược nhà Thanh, giữ vững độc lập dân tộc.
* Đánh giá:
- Chỉ sau 17 năm (1771 - 1788), phong trào Tây Sơn đã lần lượt tiêu diệt 3 tập đoàn phong kiến Nguyễn, Trịnh, Lê, xoá bỏ sự chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài hơn 2 thế kỉ.
- Phong trào Tây Sơn đã đóng góp công lao vô cùng to lớn vào sự nghiệp thống nhất đất nước.
- Công lao của quân Tây Sơn trong việc thống nhất đất nước gắn liền với bảo vệ độc lập dân tộc.
Câu trả lời của bạn: 16:17 17/01/2022
Những nét chính về sự nghiệp của vua Quang Trung:
- Năm 1771: Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc và em là Nguyễn Lữ dựng cờ khởi nghĩa ở Tây Sơn Thượng Đạo (nay thuộc An Khê, Gia Lai), trở thành một trong ba lãnh tụ cao nhất của phong trào Tây Sơn.
- Từ năm 1773 đến năm 1777: Cùng nghĩa quân Tây Sơn lật đổ chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
- Tháng 1-1783: Tổng chỉ huy cuộc tấn công vào Gia Định, đánh tan 5 vạn quân Xiêm xâm lược bằng chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút.
- Mùa hè năm 1786: Được sự giúp sức của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ tiến quân vào thành Phú Xuân (Huế), tiêu diệt quân Trịnh tại đây, giải phóng toàn bộ đất Đàng Trong.
- Ngày 21-7-1786, Nguyễn Huệ đánh vào Thăng Long, chính quyền chúa Trịnh sụp đổ.
- Từ cuối năm 1786 đến giữa năm 1788, Nguyễn Huệ thu phục Bắc Hà, chính quyền vua Lê cùng các thế lực phản loạn lần lượt bị dẹp bỏ.
- Tháng 12-1788: Lên ngôi Hoàng đế tại Núi Bân (Phú Xuân - Huế), lấy niên hiệu là Quang Trung.
- Năm 1789: Nguyễn Huệ, quét sạch 29 vạn quân Thanh và bè lũ tay sai phản quốc Lê Chiêu Thống ra khỏi bờ cõi.
- Từ năm 1789 đến năm 1792: xây dựng chính quyền mới, đề ra những biện pháp thiết thực để khôi phục kinh tế và ổn định xã hội.
- Ngày 15-9-1792: Quang Trung đột ngột qua đời.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 16:16 17/01/2022
Những nét chính về sự nghiệp của vua Quang Trung:
- Năm 1771: Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc và em là Nguyễn Lữ dựng cờ khởi nghĩa ở Tây Sơn Thượng Đạo (nay thuộc An Khê, Gia Lai), trở thành một trong ba lãnh tụ cao nhất của phong trào Tây Sơn.
- Từ năm 1773 đến năm 1777: Cùng nghĩa quân Tây Sơn lật đổ chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
- Tháng 1-1783: Tổng chỉ huy cuộc tấn công vào Gia Định, đánh tan 5 vạn quân Xiêm xâm lược bằng chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút.
- Mùa hè năm 1786: Được sự giúp sức của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ tiến quân vào thành Phú Xuân (Huế), tiêu diệt quân Trịnh tại đây, giải phóng toàn bộ đất Đàng Trong.
- Ngày 21-7-1786, Nguyễn Huệ đánh vào Thăng Long, chính quyền chúa Trịnh sụp đổ.
- Từ cuối năm 1786 đến giữa năm 1788, Nguyễn Huệ thu phục Bắc Hà, chính quyền vua Lê cùng các thế lực phản loạn lần lượt bị dẹp bỏ.
- Tháng 12-1788: Lên ngôi Hoàng đế tại Núi Bân (Phú Xuân - Huế), lấy niên hiệu là Quang Trung.
- Năm 1789: Nguyễn Huệ, quét sạch 29 vạn quân Thanh và bè lũ tay sai phản quốc Lê Chiêu Thống ra khỏi bờ cõi.
- Từ năm 1789 đến năm 1792: xây dựng chính quyền mới, đề ra những biện pháp thiết thực để khôi phục kinh tế và ổn định xã hội.
- Ngày 15-9-1792: Quang Trung đột ngột qua đời.