nguyễn hà
Kim cương đoàn
5,000
1000
Câu trả lời của bạn: 22:18 19/01/2022
Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham chiến. Chính phủ Pháp thi hành một loạt các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa.Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn.Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 22:18 19/01/2022
Hậu quả :
- Chiến tranh kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của khối phát xít: Đức -Ý - Nhật
- Đây là cuộc chiến tranh lớn nhất, khốc liệt nhất, tàn phá nhất trong lịch sử loài người. Hơn 60tr người chết, 90tr người bị tương - tàn tật, thiệt hại vật chất = thiệt hại của các cuộc chiến tranh từ 1000 năm trước đó.
Thực tiễn ngày nay ,chiến tranh bệnh tật vẫn luôn là một vấn đề lớn và nan giải như covid 19 nó đã giết chết hơn 3 tr sinh mạng các cuộc chiến tranh ở trung đông ,bạo loạn ở châu phi khiến người dân ở đấy luôn phải sống trong cảnh khốn cùng
Câu trả lời của bạn: 22:16 19/01/2022
* Nhận xét:
- Hệ thống tổ chức bộ máy chính quyền chặt chẽ, với tay xuống tận vùng nông thôn.
- Kết hợp giữa nhà nước thực dân và quan lại phong kiến.
* Mục đích:
- Chia rẽ các dân tộc Đông Dương trong sự thống nhất giả tạo.
- Tăng cường ách áp bức, kìm kẹp, làm giàu cho tư bản Pháp.
- Biến Đông Dương thành một tỉnh của Pháp, xóa tên Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia trên bản đồ
Câu trả lời của bạn: 22:13 19/01/2022
* Về tổ chức bộ máy cai trị:
- Chia nước ta thành các quận, sáp nhập nước ta vào lãnh thổ Trung Quốc.
- Tăng cường kiểm soát, cử quan lại cai trị tới cấp huyện.
* Chính sách bóc lột về kinh tế:
- Thực hiện chính sách bóc lột, cống nạp nặng nề.
- Cướp ruộng đất, cưỡng bức nhân dân ta cày cấy, thực hiện chính sách đồn điền.
- Nắm độc quyền muối và sắt.
- Quan lại đô hộ bạo ngược tham ô ra sức bóc lột dân chúng để làm giàu.
* Chính sách đồng hóa về văn hóa:
- Truyền bá Nho giáo, mở lớp dạy chữ nho => Nho giáo chỉ có ảnh hưởng đến một số vùng trung tâm châu, quận.
- Bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục, tập quán theo người Hán.
- Đưa người Hán vào sinh sống cùng người Việt.
* Đối với các cuộc đấu tranh của nhân dân ta: chính quyền đô hộ áp dụng luật pháp hà khắc, thẳng tay đàn áp.
=> Mục đích của các chính sách đô hộ trên là: đồng hóa nhân dân ta để dễ cai trị, biến nước ta trở thành một quận huyện của Trung Quốc. Tuy nhiên, mục đích ấy không thể thực hiện được.
Câu trả lời của bạn: 22:06 19/01/2022
Nghe tin Lê Lợi đang chuẩn bị khởi nghĩa, hào kiệt khắp nơi tìm về Lam Sơn, vì:
- Thấy được uy tín, khả năng quân sự, sự hi sinh to lớn của Lê Lợi đã củng cố lòng tin của các hào kiệt đối với ông.
- Bên cạnh đó, các hào kiệt cũng đã tự mình nổi dậy chống quân Minh nhưng không thành công nên việc tìm về Lam Sơn là để kết hợp với Lê Lợi để tăng khả năng thành công.
=> Các hào kiệt như Nguyễn Trãi, Đinh Liệt, Lưu Nhân Chú,... đều tìm về Lam Sơn để cùng Lê Lợi chống giặc Minh.
Câu trả lời của bạn: 22:05 19/01/2022
Từ thế kỉ XVI - XVIII , xuất hiện nhiều làng ; phố xá buôn bán tấp nập ; ngoài ra còn xuất hiện thêm nhiều đô thị như : Thăng Long , Phố Hiến , Hội An , Thanh Hà ,.. nhiều thương nhân nước ngoài đến nước ta mở cửa hàng buôn bán lên , đồ pha lê , ... mua tơ tằm , đường , trầm hương , ngà voi , ....Nhờ vậy mà hoạt động trao đổi hàng hóa , ngoại thương của nước ta phát triển
Câu trả lời của bạn: 21:23 19/01/2022
Phong trào Đồng khởi miền Nam 1960 - Bước ngoặt chiến lược của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Geneve, lập lại hòa bình ở Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, mở ra một thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, do mưu đồ của các thế lực phản động quốc tế cũng như tương quan lực lượng và tình hình chính trị phức tạp của thế giới lúc đó, nên nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị-xã hội khác nhau. Ở miền Nam, lợi dụng thất bại và những khó khăn của Pháp, đế quốc Mỹ đã nhanh chóng dựng lên chính quyền tay sai, ngang nhiên phá bỏ Hiệp định Geneve hòng chia cắt lâu dài nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, tạo phòng tuyến ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội (CNXH) và phong trào cách mạng tràn xuống Đông Nam Á.
Tình thế cách mạng miền Nam đặt ra cho Đảng ta một yêu cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối lãnh đạo đúng, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế thời đại để đưa cách mạng cả nước tiến lên. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình quốc tế và trong nước, kết hợp với kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân miền Nam tiến hành phong trào Đồng khởi giành thắng lợi, tạo ra bước ngoặt chiến lược của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
1. Phong trào Đồng khởi miền Nam-hiện thực hóa bước chuyển chiến lược được xác định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Đảng
Sau khi thiết lập được chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam, Mỹ-Diệm thi hành chính sách “tố Cộng, diệt Cộng”, Luật 10/59, lập “khu trù mật”, “khu dinh điền”, dồn dân vào các trại tập trung để đàn áp phong trào yêu nước, xóa bỏ các cơ sở cách mạng của nhân dân ta. Cách mạng miền Nam bị đẩy vào tình thế khó khăn chưa từng thấy. Hành động tàn bạo của kẻ thù đã thổi bùng ngọn lửa căm thù khắp hai miền Nam-Bắc. Các cuộc đấu tranh chống “tố Cộng, diệt Cộng”, đòi dân sinh, dân chủ, thống nhất Tổ quốc ở miền Nam diễn ra liên tục với số lượt người tham gia ngày càng tăng, làm lung lay chế độ độc tài, tay sai Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên, do những khó khăn của miền Bắc sau giải phóng, cùng với xu thế “tâm lý hòa bình chủ nghĩa”, không muốn đối đầu với Mỹ của các nước lớn trong hệ thống xã hội chủ nghĩa nên việc hoạch định đường lối cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn.
Phó tư lệnh các Lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Định thăm một đơn vị nữ du kích năm 1961. Ảnh: baotanglichsu.vn
Sau một thời gian nghiên cứu tình hình và kế thừa các quan điểm về đường lối cách mạng miền Nam trong các kỳ hội nghị trước đó, tháng 1-1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã vạch ra đường lối, phương pháp cách mạng miền Nam. Nghị quyết xác định: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(1). Về phương pháp cách mạng, nghị quyết chỉ rõ: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”(2). Hội nghị lần thứ 15 của Đảng cũng nhận định khả năng phát triển của tình hình: “Đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ… và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”(3).
Những quan điểm của Nghị quyết 15 tạo ra bước ngoặt chiến lược về đường lối, phương pháp cách mạng miền Nam. Được ánh sáng Nghị quyết 15 soi đường, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam vốn đã âm ỉ, dồn nén, nay bùng nổ dữ dội và ngày càng lan rộng, dâng cao bằng nhiều hình thức, diễn ra mạnh mẽ theo phương châm “hai chân, ba mũi”, với sự phối hợp nhịp nhàng giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang (LLVT), giữa chính trị, quân sự và binh vận, đập tan từng mảng lớn bộ máy chính quyền tay sai ở cơ sở, giành quyền làm chủ hàng nghìn xã, thôn, giải phóng khoảng 5,6 triệu dân khỏi ách áp bức, kìm kẹp của địch.
Phong trào Đồng khởi chính là biểu hiện cụ thể, sinh động của sự vận dụng sáng tạo nghị quyết vào thực tiễn đấu tranh của các cấp ủy Đảng và nhân dân miền Nam. Thắng lợi của phong trào làm xoay chuyển tình thế, đưa cách mạng thoát khỏi thế hiểm nghèo, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, tạo tiền đề quan trọng cho quân và dân ta đánh bại các chiến lược quân sự của Mỹ trong những năm tiếp theo của cuộc kháng chiến.
Thắng lợi của phong trào Đồng khởi chứng minh sự chuyển hướng về đường lối, phương pháp cách mạng được xác định trong Nghị quyết 15 của Đảng là hoàn toàn đúng, để lại bài học quý trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) hiện nay. Đó là, phải quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng về BVTQ, công tác quân sự, quốc phòng, làm định hướng thực hiện “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội và môi trường hòa bình để xây dựng, bảo vệ đất nước”(4). Các địa phương và đơn vị trong toàn quân cần tập trung quán triệt và thực hiện thắng lợi Chiến lược BVTQ trong tình hình mới; Chiến lược Quốc phòng Việt Nam; Chiến lược Quân sự Việt Nam… Trong quá trình thực hiện, cần thống nhất nhận thức về một số quan điểm chỉ đạo cơ bản, xuyên suốt của Đảng là: Giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp BVTQ; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với CNXH; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ; xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng... làm định hướng xây dựng quân đội, từng đơn vị vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống.
2. Phong trào Đồng khởi thể hiện nghệ thuật mở đầu chiến tranh giải phóng của Đảng, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công
Trong điều kiện cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn, lực lượng bị tổn thất do chính quyền tay sai Sài Gòn khủng bố, đàn áp khắp nơi; các nước xã hội chủ nghĩa (nhất là Liên Xô, Trung Quốc) chưa đồng thuận ủng hộ nước ta tiến lên khởi nghĩa, thì việc chỉ đạo cách mạng miền Nam mở đầu chiến tranh bằng phong trào Đồng khởi giành chính quyền về tay nhân dân là một quyết định hết sức sáng suốt của Đảng ta. Quyết định đó bảo đảm phù hợp với đường lối cách mạng Việt Nam được xác định trong Nghị quyết 15, đáp ứng được nguyện vọng cháy bỏng giành độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt Nam nói chung, nguyện vọng của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ miền Nam nói riêng. Đồng thời, bảo đảm cho Đảng ta giữ vững tự chủ, tránh được sự áp đặt từ bên ngoài, nhất là đối với chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng miền Nam, ngăn chặn không để kẻ thù tạo cớ leo thang chiến tranh, bảo vệ được thành quả cách mạng ở miền Bắc và tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trong lãnh đạo nhân dân nổi dậy, Đảng ta đã có chủ trương, đường lối đúng, sách lược mềm dẻo, tích cực chuẩn bị xây dựng cơ sở và lực lượng ở các địa bàn xa miền Bắc, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị của quần chúng có sự hỗ trợ đắc lực của các LLVT địa phương với hình thức đấu tranh vừa bí mật vừa hợp pháp công khai, bảo đảm cho phong trào Đồng khởi giành thắng lợi. Trên cơ sở đó, tạo đà phát huy sức mạnh tổng hợp, từng bước đánh bại địch, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Quán triệt chủ trương, phương pháp khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng được xác định trong Nghị quyết 15, nhân dân miền Nam tiến hành Đồng khởi giành thắng lợi, đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công. Với sự sáng tạo, chủ động của các cấp ủy đảng địa phương, phong trào Đồng khởi ở miền Nam thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, phá tan một mảng lớn chính quyền tay sai ở cấp cơ sở, thiết lập và củng cố chính quyền cách mạng của nhân dân. Thắng lợi đó tạo tiền đề quan trọng cho phong trào cách mạng miền Nam phát triển lên tầm cao mới, từ khởi nghĩa từng phần thành chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng. Kẻ địch từ thế chủ động chuyển thành bị động về chiến lược, lúng túng đối phó với phong trào cách mạng. Đây là mốc quan trọng của cách mạng miền Nam, tạo ra điều kiện và cơ sở vững chắc để quân và dân ta tiến lên đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, mở ra một thời kỳ phát triển mới của cách mạng miền Nam-thời kỳ tiến công liên tục, mạnh mẽ vào các chiến lược, chiến thuật của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn-nhằm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, phát triển lực lượng của ta, đưa cách mạng miền Nam từng bước tiến lên. Đánh giá bước chuyển mình của cách mạng miền Nam sau phong trào Đồng khởi, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) khẳng định: “Những cuộc “Đồng khởi” nổ ra trong thời gian này đánh dấu một bước nhảy vọt quan trọng, chuyển cách mạng miền Nam sang thế tiến công, phát triển cao trào cách mạng ra khắp miền, với sự kết hợp cả hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự”(5).
Trong điều kiện hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, kích động chia rẽ dân tộc, tôn giáo, cổ vũ, hậu thuẫn ly khai, tự trị, khi có điều kiện, chúng có thể can thiệp trực tiếp bằng quân sự để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bài học về nghệ thuật mở đầu chiến tranh cách mạng, chuyển cách mạng sang thế tiến công rút ra từ phong trào Đồng khởi vẫn còn nguyên giá trị. Nếu phải tiến hành chiến tranh chính nghĩa BVTQ, quân đội cần nghiên cứu nắm chắc tình hình, tham mưu cho Đảng, Nhà nước về chủ trương, đường lối, sách lược lãnh đạo, chỉ đạo mở đầu chiến tranh ở thế có lợi nhất; kết hợp chặt chẽ các phương pháp, lực lượng đấu tranh, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đồng thời, quán triệt sâu sắc tư tưởng tiến công không ngừng, giành quyền chủ động ở các cấp chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, kết hợp vận dụng linh hoạt, hiệu quả các yếu tố “thế, lực, thời, mưu”, thực hiện lấy “nhỏ thắng lớn, ít địch nhiều”, đánh bại từng bộ phận địch, giành thắng lợi từng bước tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi quyết định.
3. Phong trào Đồng khởi miền Nam làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, đẩy chính quyền Sài Gòn vào cuộc khủng hoảng sâu sắc, toàn diện
Dưới sự lãnh đạo của các đảng bộ địa phương, nhân dân miền Nam có sự hỗ trợ của LLVT đồng loạt nổi dậy đấu tranh diệt ác, phá kìm, phá khu trù mật, giành quyền làm chủ nhiều xã, ấp, chống địch càn quét, dồn dân... Bằng những hình thức và quy mô lực lượng đấu tranh phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương, phong trào Đồng khởi năm 1960 mở đầu bằng cuộc đấu tranh chính trị quy mô lớn ở Bến Tre, sau đó là cuộc tiến công quân sự tiêu diệt căn cứ Tua Hai của địch trên địa bàn Tây Ninh, nhanh chóng lan rộng ra khắp các tỉnh Nam Bộ. Bộ máy chính quyền của địch ở xã, ấp-cơ sở của chế độ thống trị thực dân mới, nơi yếu nhất trong hệ thống chính quyền địch-bị tan rã hoặc mất hiệu lực. Chính quyền tự quản của nhân dân ra đời, tự giải quyết những công việc ở nông thôn, nhưng vẫn sử dụng thế hợp pháp để đấu tranh với địch, bảo vệ quyền làm chủ, hỗ trợ cho đấu tranh vũ trang. Đến cuối năm 1960, chính quyền tự quản của nhân dân được thành lập ở gần 1.400 xã, chiếm tỷ lệ hơn 50% số xã do chính quyền tay sai Sài Gòn dựng lên ở cơ sở. Vùng giải phóng hình thành và ngày càng mở rộng, nối liền từ Tây Nguyên đến miền Tây Nam Bộ và đồng bằng Liên khu 5. Chính sách “cải cách điền địa” của chính quyền tay sai bị thất bại, 2/3 số ruộng đất (khoảng 170.000ha) bị Mỹ và chính quyền Sài Gòn cướp, nay trở về tay nhân dân. Thắng lợi vĩ đại của phong trào Đồng khởi phá vỡ từng mảng lớn ở vùng nông thôn, “giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ”(6) đã hao tiền, tốn của để dựng lên ở miền Nam Việt Nam.
Cuộc nổi dậy tại chỗ, mạnh mẽ, đồng loạt của nhân dân ta ở miền Nam đã làm cho đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn hết sức bất ngờ (chúng đề phòng một cuộc tiến công quân sự từ miền Bắc). Chính quyền Sài Gòn bị đẩy vào cuộc khủng hoảng sâu sắc, toàn diện với những mâu thuẫn nội bộ ngày càng gay gắt. Chỉ trong một thời gian ngắn, 60 tỉnh trưởng, tỉnh phó, 100 quận trưởng bị thay thế hoặc chuyển vùng. Những cuộc đảo chính, phản đảo chính thanh trừng lẫn nhau diễn ra liên tục làm cho chính quyền trung ương Sài Gòn luôn trong trạng thái mất ổn định. Sau Đồng khởi, thế chiến lược của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ở miền Nam bị đảo lộn, từ chỗ tập trung lực lượng chủ động mở các cuộc càn quét, đánh phá quyết liệt, thậm chí có lúc hô hào “Lấp sông Bến Hải”, “Bắc tiến”, nay bị đẩy vào thế lúng túng, bị động đối phó, phải dồn lực lượng về chống đỡ, bảo vệ chính quyền cơ sở ở khắp mọi nơi.
Thất bại của đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đình Diệm trong thiết lập bộ máy cai trị điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam, cùng với những mâu thuẫn nghiêm trọng trong giới chóp bu của chính quyền tay sai Sài Gòn làm bộc lộ mặt yếu cơ bản của Mỹ-Diệm về chính trị, tinh thần, báo hiệu sự sụp đổ tất yếu của chế độ chính trị Sài Gòn, là nguyên nhân trực tiếp buộc địch phải chuyển chiến lược sang “chiến tranh đặc biệt” trong thế bị động. Những thất bại của địch trong và sau phong trào Đồng khởi làm thay đổi chiến lược về tương quan, so sánh lực lượng giữa ta-địch theo hướng có lợi cho ta, đồng thời cung cấp thêm luận chứng thực tiễn khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, là điều kiện, cơ sở quan trọng để Đảng ta tiếp tục lãnh đạo thực hiện phương châm kết hợp chính trị, quân sự với binh vận trong đấu tranh, đưa cách mạng miền Nam đến toàn thắng.
Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đã chứng minh khả năng đánh giá tình hình nhạy bén, sáng suốt của Đảng, từ đó phát huy được sức mạnh của cuộc chiến tranh cách mạng chính nghĩa, sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân đánh đúng chỗ yếu nhất của địch (về chính trị, tinh thần; hệ thống chính quyền của địch ở vùng nông thôn), đánh bại hình thức thống trị kiểu mới của Mỹ ở miền Nam. Trong điều kiện mới, bài học rút ra từ phong trào Đồng khởi vẫn còn nguyên giá trị. Đó là, phải đánh giá đúng tình hình mọi mặt, phát huy được điểm mạnh của ta, khoét sâu điểm yếu của địch để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ BVTQ. Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và BVTQ có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn, nhất là việc đối tượng tác chiến của Quân đội ta có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, cấp chiến lược cần quan tâm làm tốt công tác chuẩn bị mọi mặt ngay từ thời bình; khi có tình huống chiến tranh xảy ra phải giương cao ngọn cờ chính nghĩa, phát huy ưu thế tuyệt đối về chính trị tinh thần, bình tĩnh, sáng suốt đánh giá đúng tình hình, nhận định rõ thuận lợi, khó khăn của tình thế cách mạng để có những quyết sách phù hợp. Đối với quân đội, phải căn cứ tình hình cụ thể để tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, chủ động xử lý hiệu quả các tình huống bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên bộ, trên biển, trên không và không gian mạng, bảo đảm giữ vững chủ quyền quốc gia, phù hợp luật pháp quốc tế. Quá trình tác chiến, phải phát huy tối đa khả năng, sở trường của ta, khai thác khó khăn, bất lợi của địch để thực hiện những đòn tiến công vào mặt (nơi) yếu nhất, đẩy chúng vào thế bị động, giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Câu trả lời của bạn: 21:22 19/01/2022
* Triều đình nhà Nguyễn từ chối con đường cải cách, canh tân đất nước
- Nửa sau thế kỉ XIX, nhiều nước phương Tây tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa, nhu cầu về nguyên liệu, thị trường và nhân công đặt ra ngày càng cấp thiết. Do đó, các nước phương Tây đẩy mạnh thực hiện các cuộc chiến tranh xâm lược.
- Đến giữa thế kỉ XIX, giống như nhiều quốc gia phương Đông khác, Việt Nam cũng phải đương đầu với sự nhòm ngó, đe dọa xâm lược của các nước phương Tây. Tình hình trên đặt nhà Nguyễn đứng trước hai sự lựa chọn:
+ Tiến hành cải cách, canh tân đất nước để bảo vệ, giữ vững nền độc lập (theo gương của Nhật Bản,...).
+ Bảo thủ, thi hành các chính sách cai trị cũ.
- Từ nửa cuối thế kỉ XIX, trước vận nước nguy nan, nhiều quan lại, sĩ phu tiến bộ như: Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Bùi Viện,... đã đề xuất cải cách, canh tân đất nước, mong đất nước giàu mạnh, thoát khỏi họa xâm lăng.
- Triều đình nhà Nguyễn đã khước từ các đề nghị cải cách, canh tân mà ngược lại, nhà Nguyễn tiếp tục thực hiện các chính sách cai trị nội trị, ngoại giao lạc hậu, khiến cho sức nước, sức dân suy kiệt.
=> Nhà Nguyễn đã bỏ lỡ cơ hội có thể cứu nguy cho đất nước khỏi họa xâm lăng.
* Trong quá trình chiến đấu chống xâm lược, nhà Nguyễn thiếu quyết tâm kháng chiến, phạm nhiều sai lầm cả về đường lối chỉ đạo chiến đấu và đường lối ngoại giao.
- Ngay khi thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam (1858), triều đình nhà Nguyễn đã chỉ đạo và nỗ lực phối hợp cùng nhân dân đấu tranh chống Pháp (điều này được thể hiện rõ nét qua chiến sự ở Đà Nẵng). Tuy nhiên, thái độ chống Pháp của triều đình nhà Nguyễn lại thiếu kiên quyết, thiếu triệt để.
- Trong quá trình đấu tranh với Pháp, nhà Nguyễn đã phạm nhiều sai lầm cả về đường lối chỉ đạo chiến đấu và đường lối ngoại giao:
+ Về chỉ đạo chiến đấu: triều đình nhà Nguyễn thụ động chiến đấu, thiên về chiến thuật “thủ hiểm” vì vậy đã bỏ lỡ nhiều thời cơ đánh đuổi Pháp ra khỏi Việt Nam.
+ Về đường lối ngoại giao: triều đình nhà Nguyễn thỏa hiệp với Pháp, nuôi hi vọng có thể giành lại những vùng đất đã mất bằng con đường “thương thuyết”, đàm phán hòa bình.
- Trước sức mạnh quân sự, ưu thế vượt trội về vũ khí, kĩ thuật của Pháp, nội bộ triều Nguyễn có sự phân hóa thành hai phái: chủ hòa và chủ chiến khiến lòng dân li tán, mặt khác phái chủ hòa lại chiếm ưu thế trong triều đình.
- Với thái độ bạc nhược, thiếu quyết tâm chống giặc như trên, Triều Nguyễn đã lần lượt kí kết với Pháp các hiệp ước đàu hàng: Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), Hiệp ước Giáp Tuất (1874), Hiệp ước Hác-măng (1883) và Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884). Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884) đã chấm dứt sự tồn tại của triều đại phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lập, thực dân Pháp đã cơ bản hoàn thành quá trình xâm lược Việt Nam.
* Bên cạnh phái chủ hòa, một bộ phận quan lại triều đình vẫn nêu cao quyết tâm kháng chiến
- Trong quá trình chống thực dân Pháp xâm lược, vẫn có nhiều quan lại của triều đình, thậm chí cả các vua, như: Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết, vua Hàm Nghi, vua Duy Tân,... vẫn nêu cao quyết tâm kháng chiến, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước. Họ là những anh hùng dân tộc mà nhân dân Việt Nam đời đời kính trọng.
Kết luận: Việc để Việt Nam rơi vào tay Pháp, trở thành thuộc địa của thực dân Pháp ở cuối thế kỉ XIX là trách nhiệm của một bộ phận vua quan nhà Nguyễn.
Câu trả lời của bạn: 21:21 19/01/2022
- Giống nhau :
+ Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước, sử dụng sức kéo của trâu bò. Ngoài ra, cư dân còn chăn nuôi, làm các mặt hàng thủ công, đánh cá.
+ Có tập quán ở nhà sàn, có đời sống văn hoá phong phú gắn với sản xuất nông nghiệp.
- Khác nhau :
+ Ở cư dân Văn Lang - Âu Lạc thì nghề đúc đồng, làm gốm phát triển mạnh, trong khi đó cư dân Cham-pa lại phát triển nghề khái thác lâm thổ sản, xây dựng đền tháp và ở cư dân Phù Nam thì nghề đánh cá và buôn bán bằng đường biển lại phát triển mạnh.
+ Cư dân Văn Lang - Âu Lạc có tín ngưỡng phổ biến là sùng bái tổ tiên, thờ cúng tổ tiên, các anh hùng dân tộc và những người có công với làng, nước. Trong khi đó ở quốc gia Cham-pa và Phù Nam do ra đời muộn hơn nên chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của đạo Hinđu và đạo Phật.
Câu trả lời của bạn: 21:21 19/01/2022
- Giống nhau :
+ Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước, sử dụng sức kéo của trâu bò. Ngoài ra, cư dân còn chăn nuôi, làm các mặt hàng thủ công, đánh cá.
+ Có tập quán ở nhà sàn, có đời sống văn hoá phong phú gắn với sản xuất nông nghiệp.
- Khác nhau :
+ Ở cư dân Văn Lang - Âu Lạc thì nghề đúc đồng, làm gốm phát triển mạnh, trong khi đó cư dân Cham-pa lại phát triển nghề khái thác lâm thổ sản, xây dựng đền tháp và ở cư dân Phù Nam thì nghề đánh cá và buôn bán bằng đường biển lại phát triển mạnh.
+ Cư dân Văn Lang - Âu Lạc có tín ngưỡng phổ biến là sùng bái tổ tiên, thờ cúng tổ tiên, các anh hùng dân tộc và những người có công với làng, nước. Trong khi đó ở quốc gia Cham-pa và Phù Nam do ra đời muộn hơn nên chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của đạo Hinđu và đạo Phật.
Câu trả lời của bạn: 20:33 19/01/2022
- Ban đầu:
+ Nhà Nguyễn có ý thức cùng nhân dân đấu tranh chống giặc ngoại xâm: cử Nguyễn Tri Phương ra đốc quân chống giặc, cử Hoàng Diệu làm tổng đốc Hà nội để giữ lấy Bắc Kì,...
+ Tuy nhiên, nhà Nguyễn lại bỏ lỡ nhiều cơ hội đánh thắng giặc do thi hành đường lối kháng chiến sai lầm (chỉ lo thủ hiểm).
- Về sau: trước ưu thế về sức mạnh quân sự của kẻ thù, triều đình nhà Nguyễn không kiên quyết cùng nhân dân chống giặc, đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, tỏ ra bạc nhược, yếu kém để thực dân Pháp lấn tới. Triều Nguyễn đã vì quyền lợi ích kỉ của dòng họ đã bán rẻ quyền lợi dân tộc (thông qua việc kí hàng loạt các hiệp ước bất bình đẳng với Pháp).
Câu trả lời của bạn: 11:08 19/01/2022
hoc247
Câu trả lời của bạn: 10:40 19/01/2022
a) Khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 chống nhà Đông Hán.
Lược đồ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Hán (40 - 43)
- Tháng 3 – 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở Hát Môn (Phúc Thọ - Hà Tây) được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng.
- Chiếm được Cổ Loa, Luy Lâu buộc thái thú Tô Định trốn về Trung Quốc.
- Khởi nghĩa thắng lợi, Trưng Trắc lên làm vua xây dựng chính quyền tự chủ.
- Năm 42, Nhà Hán sai Mã Viện đưa hai vạn quân sang xâm lược.
- Hai Bà quyết chiến ở Lãng Bạc, rút về Cổ Loa, rồi về Hạ Lôi và Hy sinh tại Cấm Khê (Ba Vì - Hà Tây).
- Hai Bà Trưng tổ chức kháng chiến anh dũng nhưng do chênh lệch về lực lượng, kháng chiến thất bại Hai Bà Trưng hi sinh.
b) Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí và sự thành lập nước vạn Xuân 542 - 603
- Năm 542 Lý Bí liên kết với các hào kiệt thuộc các châu ở miền Bắc khởi nghĩa. Nghĩa quân chiếm được thành Long Biên (Bắc Ninh). Lật đổ chế độ đô hộ của nhà Lương.
- Năm 544 Lý Bí lên ngôi lập nước Vạn Xuân. Dựng kinh đô ở sông Tô Lịch.
- Năm 545 nhà Lương đem quân xâm lược, Lý Nam đế phải rút quân về Vĩnh Phúc, rồi Phú Thọ. Lý Bí trao binh quyền cho Triệu Quang Phục tổ chức kháng chiến tại đầm Dạ Trạch - Hưng Yên.
- Năm 550, cuộc khởi nghĩa thắng lợi. Triệu Quang Phục lên ngôi vua (Triệu Việt Vương).
- Năm 571 Lý Phật Tử cướp ngôi.
- Năm 603 nhà Tùy xâm lược, nước Vạn Xuân thất bại.
c) Cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ 905 - 938
- Năm 905, nhà Đường suy yếu, Khúc Thừa Dụ được nhân dân ủng hộ đánh chiếm Tống Bình, dành quyền tự chủ (giành chức Tiết độ sứ).
- Năm 907 Khúc Hạo lên thay thực hiện nhiều chính sách cải cách về các mặt để xây dựng chính quyền độc lập tự chủ.
* Ý nghĩa
- Lật đổ ách đô hộ của nhà Đường. giành độc lập tự chủ.
- Đánh dấu thắng lợi căn bản trong cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta thời Bắc thuộc.
d) Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938
- Năm 931, Dương Đình Nghệ đánh bại quân Nam Hán giữ quyền tự chủ.
- Năm 937, Ông bị Kiều Công tiễn giết hại để đoạt chức Tiết Độ sứ.
- Tháng 10 – 938, Ngô quyền đem quân đánh Kiều Công Tiễn, Công Tiễn cầu cứu nhà Nam Hán.
- Năm 938, quân Nam Hán xâm lược nước ta, Ngô Quyền lãnh đạo nhân dân giết chết tên phản tặc Kiều Công Tiễn và tổ chức đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đập tan âm mưu xâm lược của nhà Nam Hán.
* Ý nghĩa
- Bảo vệ vững chắc nền độc lập tự chủ của đất nước.
- Mở ra một thời đại mới thời đại độc lập tự chủ lâu dài cho dân tộc.
- Kết thúc vĩnh viễn 1 nghìn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc.
Câu trả lời của bạn: 10:34 19/01/2022
Thực hiện phương châm và kế hoạch tác chiến mới đề ra, sau khi có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, hơn 17 giờ ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 3 đợt tiến công, đến ngày 7/5/1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoàn toàn.
Có thể nói, quyết định hoãn kế hoạch tấn công, kéo pháo ra, thay đổi phương châm tiêu diệt địch, từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” là một quyết định lịch sử và là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Câu trả lời của bạn: 10:34 19/01/2022
So sánh tình hình xã hội nước ta ở nửa đầu thế kỉ XIX với thế kỉ XVIII.
Phương pháp giải - Xem chi tiết
dựa vào sgk Lịch sử 10 trang 130, 131 và liên hệ với kiến thức cũ để so sánh.
Lời giải chi tiết
- Trong xã hội có sự phân chia giai cấp ngày càng cách biệt hơn so với các triều đại trước:
+ Giai cấp thống trị bao gồm: vua, quan, địa chủ cường hào
+ Giai cấp bị trị: các tầng lớp nhân dân lao động, đa số là nông dân.
- Đời sống nhân dân cực khổ hơn so với các thế kỉ trước:
+ Phải chịu cảnh sưu cao, thuế nặng.
+ Chế độ lao dịch nặng nề.
+ Thiên tai, mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra.
- Phong trào đấu tranh của nhân dân diễn ra liên tục, rộng khắp, ngay từ đầu triều đại.
Câu trả lời của bạn: 10:33 19/01/2022
KHỞI NGHĨA TRƯƠNG ĐỊNH
Chuyên mục: Những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp
Khởi nghĩa Trương Định (1859 – 1864)
Năm 1859, thực dân Pháp chiếm thành Gia Định. Trương Định tổ chức nghĩa quân chống giặc ở Gò Công, Tân An, được triều đình Huế giao chức Lãnh binh. Năm 1862, vua quan nhà Nguyễn hàng giặc, ra lệnh giải binh, nhưng Trương Định cương quyết kháng Pháp đến cùng, được nhân dân suy tôn là Bình Tây đại nguyên soái. Ngày 20/8/1864, Trương Định bị thương nặng đã rút gươm tự sát. Con trai là Trương Quyền tiếp tục chiến đấu đến năm 1867.
KHỞI NGHĨA NGUYỄN TRUNG TRỰC
Chuyên mục: Những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp
Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực (1861 – 1868)
Năm 1861, Nguyễn Trung Trực (tức Nguyễn Văn Lịch) nổi dậy ở Tân An, chỉ huy nghĩa quân đốt cháy tàu Hy Vọng (Espérance) của giặc Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông (12/1861), rồi lập căn cứ kiên trì chống giặc khắp vùng Rạch Giá, Hà Tiên và đảo Phú Quốc. Năm 1868, bị giặc bắt và đưa đi hành hình, ông đã hiên ngang nói thẳng vào mặt chúng: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người nước Nam đánh Tây”.
KHỞI NGHĨA BA ĐÌNH
Chuyên mục: Những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp
Khởi nghĩa Ba Đình là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 của nhân dân Việt Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn ra vào năm 1886-1887 tại Ba Đình, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.KHỞI NGHĨA BÃI SẬY
Chuyên mục: Những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp
Khởi nghĩa Bãi Sậy là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 của nhân dân Việt Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn ra từ năm 1883 và kéo dài đến năm 1892 mới tan rã. Bãi Sậy là một trong những trung tâm chống Pháp lớn nhất vào cuối thế kỷ 19.[1]
Trong thời kỳ đầu (1883 - 1885), phong trào do Đinh Gia Quế lãnh đạo, các địa bàn hoạt động lúc này còn giới hạn ở vùng Bãi Sậy (bao gồm địa phận các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu, Yên Mỹ thuộc tỉnh Hưng Yên).[2] Từ năm 1885 trở đi, vai trò lãnh đạo thuộc về Nguyễn Thiện Thuật. Ông là thủ lĩnh cao nhất của nghĩa quân Bãi Sậy[3]. Bố chánh Thái Nguyên Vũ Giác là người giúp đỡ rất nhiều cho cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.[1]
KHỞI NGHĨA HÙNG LĨNH
Chuyên mục: Những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp
Khởi nghĩa Hùng Lĩnh là một cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.
Công cuộc này khởi phát năm 1887[1] tại Hùng Lĩnh (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), ngay sau khi căn cứ Ba Đình và Mã Cao lần lượt thất thủ. Lãnh đạo chính là Chánh sứ sơn phòng Thanh Hóa Tống Duy Tân cùng hai cộng sự đắc lực là Đề đốc Cao Điển[2] và tù trưởng người Thái Cầm Bá Thước. Tháng 10 năm 1892, cuộc khởi nghĩa kết thúc, sau khi thủ lĩnh là Tống Duy Tân bị đối phương bắt sống rồi xử chết.
Câu trả lời của bạn: 10:32 19/01/2022
thủ công nghiệp chăn nuôi gia súc buôn bán đường biển
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 09:55 19/01/2022
Âm mưu xâm lược Đại Việt của Mông Cổ
- Đầu thế kỉ XIII, nhà nước phong kiến Mông Cổ hùng manh ra đời.
- Mông Cổ muốn mượn đường Đại Việt để đánh lên phía Nam Trung Quốc nhằm thực hiện kế hoạch "gọng kìm" tiêu diệt Nam Tống. Ba lần sứ giả Mông Cổ đến Thăng Long đều bị vua Trần ra lệnh bắt giam.
Đế quốc Mông Cổ
2. Nhà Trần chuẩn bị và tiến hành kháng chiến chống quân Mông Cổ
a. Nhà Trần chuẩn bị
- Ban hành lệnh sắm sửa vũ khí.
- Quân đội dân binh được thành lập và ngày đêm luyện tập, sẵn sàng đánh giặc.
b. Diễn biến
- Tháng 1/1258, 3 vạn quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy tiến vào nước ta theo đường sông Thao qua Bạch Hạc đến Bình Lệ Nguyên, sau đó tiến vào Thăng Long.
- Nhà Trần tạm lui khỏi Thăng Long, thực hiện kế hoạch “vườn không nhà trống" xuôi về Thiên Mạc (Duy Tiên - Hà Nam) khiến cho giặc vào Thăng Long bị thiếu lương thực, thực phẩm rơi vào tình thế khó khăn.
- Nắm thời cơ, nhà Trần mở cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu.
- Ngày 29/1/1258 quân Mông Cổ thua trận, rút khỏi Thăng Long chạy về nước.
c. Kết quả
Quân Mông Cổ bị đánh bại hoàn toàn.
II. Cuộc kháng chiến lần thứ hai chống quân xâm lược Nguyên (1285)
1. Âm mưu xâm lược Cham-pa và Đại Việt của nhà Nguyên
- Mục đích: xâm lược Cham-pa và Đại Việt để làm cầu nối thôn tính các nước ở phía Nam Trung Quốc.
- Hành động: năm 1283 nhà Nguyên cho quân đánh Cham-pa để làm bàn đạp tấn công vào Đại Việt nhưng không thành công.
2. Nhà Trần chuẩn bị kháng chiến
- Vua Trần triệu tập hội nghị các vương hầu, quan lại ở bến Bình Than bàn kế hoạch đánh giặc, cử Trần Quốc Tuấn chỉ huy cuộc kháng chiến.
- Năm 1285, vua Trần mở Hội nghị Diên Hồng ở Thăng Long để bàn cách đánh giặc.
- Tổ chức tập trận, duyệt binh ở Đông Bộ Đầu, trấn giữ nơi hiểm yếu, quân sĩ thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát" (giết giặc Mông Cổ).
3. Diễn biến và kết quả cuộc kháng chiến
a. Diễn biến
- Tháng 1/1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy vào xâm lược nước ta.
- Trước thế giặc mạnh, quân Trần rút lui về Thăng Long, sau đó rút về Thiên Trường (Nam Định) để bảo toàn lực lượng và thực hiện kế hoạch “vườn không nhà trống”.
- Toa Đô từ Chăm-pa đánh ra Nghệ An, Thanh Hóa, kết hợp cùng quân Thoát Hoan đánh xuống phía Nam tạo thế "gọng kìm" tiêu diệt quân ta, nhưng thất bại. Quân Nguyên rút quân về Thăng Long, lâm vào tình thế bị động, thiếu lương thực.
- Lợi dụng thời cơ, tháng 5/1285 nhà Trần tổ chức phản công đánh bại quân giặc ở nhiều nơi như Tây kết, Hàm Tử, Chương Dương và tiến vào giải phóng Thăng Long.
b. Kết quả
- Quân dân nhà Trần đã đánh tan quân Nguyên, đất nước sạch bóng quân xâm lược.
III. Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân xâm lược Nguyên (1287 - 1288)
1. Nhà Nguyên xâm lược Đại Việt
a. Hoàn cảnh
- Sau hai lần thất bại, nhà Nguyên đình chỉ việc xâm lược Nhật Bản, quyết tâm xâm lược Đại Việt lần thứ ba.
- Nhà Trần khẩn trương chuẩn bị kháng chiến.
b. Diễn biến
- Tháng 12/1287, quân Nguyên ồ ạt tấn công Đại Việt, cánh quân do Thoát Hoan chỉ huy tiến đánh Lạng Sơn, Bắc Giang, cho quân chiếm đóng Vạn Kiếp.
- Ô Mã Nhi chỉ huy thuỷ quân tiến vào nước ta, ngược lên sông Bạch Đằng, kéo đến Vạn Kiếp phối hợp cùng Thoát Hoan.
2. Chiến thắng Vân Đồn tiêu diệt đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ
- Trần Khánh Dư cho quân mai phục ở Vân Đồn đợi đoàn thuyền lương của địch.
- Khi đoàn thuyền lương đi qua bị quân ta từ nhiều phía đánh ra dữ dội khiến phần lớn thuyền lương bị đắm, số còn lại bị quân ta chiếm.
3. Chiến thắng Bạch Đằng
- Cuối tháng 1/1288, Thoát Hoan tiến vào chiếm đóng Thăng Long nhưng rơi vào tình thế bị động, binh lính hoang mang. Thoát Hoan quyết định rút quân lên Vạn Kiếp và từ đây rút quân về nước theo hai đường thủy, bộ.
- Quân dân nhà Trần bố trí, mai phục trên sông bạch Đằng.
- Tháng 4/1288: đoàn thuyền lương của Ô Mã Nhi rút về theo sông Bạch Đằng, ta nhử địch vào sâu trận địa khi nước dâng cao.
- Lúc nước rút thuyền địch xô vào cọc và bị quân ta đánh từ 2 bên bờ. Nhiều tên giặc bị chết, Ô Mã Nhi bị bắt sống.
- Cánh quân bộ do Thoát Hoan chỉ huy vội vàng rút lui về nước trong tình trạng thất bại.
Lược đồ diễn biến cuôc kháng chiến lần thứ ba chống quân xâm lược Nguyên
IV. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược
1. Nguyên nhân thắng lợi
- Cuộc kháng chiến huy động được tất cả các tầng lớp nhân dân tham gia, khối đại đoàn kết dân tộc vững mạnh.
- Nhà Trần đã chuẩn bị chu đáo về mọi mặt.
- Tinh thần hy sinh của toàn dân ta đặc biệt là quân đội nhà Trần.
- Đường lối chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo nhờ sự lãnh đạo tài tình của các tướng lĩnh nhà Trần, đặt biệt là Trần Quốc Tuấn.
2. Ý nghĩa, bài học lịch sử
- Đập tan tham vọng và ý chí xâm lược Đại Việt của đế chế Nguyên, bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ.
- Góp phần xây đắp truyền thống quân sự Việt Nam.
- Để lại bài học vô cùng quý giá: chăm lo sức dân, tạo sự đoàn kết toàn dân, dựa vào dân đánh giặc.
- Ngăn chặn những cuộc xâm lược của quân Nguyên đối với các nước khác.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 09:44 19/01/2022
Những khó khăn của Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám bao gồm: nạn đói, nạn dốt, khó khăn về tài chính, chính quyền còn non trẻ và giặc ngoại xâm, nội phản.
2. Biện pháp giải quyết của Đảng và Chính phủ:
- Ổn định đất nước, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng:
+ Về chính trị: tiến hành bầu cử Quốc hội, ban hành Hiến Pháp, thành lập Quân đội quốc gia Việt Nam.
+ Về kinh tế: thực hiện chủ trương trước mắt là “nhường cơm sẻ áo”; “hũ gạo cứu đói”, chủ trương lâu dài là tăng gia sản xuất.
+ Về tài chính: kêu gọi khuyên góp, ủng hộ: “Tuần lễ vàng”, “Quỹ độc lập”, phát hành tiền Việt Nam.
+ Văn hóa, giáo dục: ngày 8/9/1945, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ, đổi mới giáo dục theo tinh thần dân tộc, dân chủ.
- Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản:
+ Hòa hoãn với Tưởng để chống Pháp ở miền Nam (trước 6/3/1946)
+ Hòa hoãn với Pháp nhằm đẩy quân đội Trung Hoa Dân quốc ra khỏi miền Bắc (6/3/1946 đến trước 19/12/1946)
3. Kết quả:
- Chính quyền cách mạng bước đầu được củng cố, tạo dựng các cơ sở pháp lý quan trọng của một thể chế chính trị mới.
- Nạn đói đã được đẩy lùi, tài chính bước đầu được gây dựng lại.
- Giải quyết nạn mù chữ và xây dựng một nền giáo dục mới.
- Đuổi được quân Trung Hoa Dân quốc ra khỏi nước ta, tập trung chuẩn bị lực lượng kháng chiến chống Pháp.
4. Ý nghĩa:
- Tạo dựng niềm tin cho nhân dân về một chế độ xã hội mới mà ở đó tinh thần dân chủ và quyền công dân được xem trọng.
- Hạn chế đến mức thấp nhất các hoạt động chống phá, âm mưu lật đổ chính quyền của kẻ thù. Tránh cùng lúc phải đối diện với nhiều kẻ thù, có điều kiện tranh thủ hòa bình để tập hợp lực lượng, củng cố vững chắc nền tảng cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Câu trả lời của bạn: 09:40 19/01/2022
Trận Chi Lăng – Xương Giang (tháng 10-1427)
* Kế hoạch của địch:
(1) Đầu tháng 10 - 1427, 15 vạn viện binh được chia thành hai đạo từ Trung Quốc kéo sang.
+ Một đạo do Liễu Thăng chỉ huy từ Quảng Tây kéo vào Lạng Sơn.
+ Đạo thứ hai do Mộc Thạnh chỉ huy từ Vân Nam kéo vào theo hướng Hà Giang.
* Chủ trương của ta: Tập trung lực lượng tiêu diệt đạo quân của Liễu Thăng trước.
* Kết quả:
- Liễu Thăng và Lương Minh bị tử trận, hàng vạn tên địch bị giết.
- Cánh quân Mộc Tạnh chỉ huy vội rút chạy về nước.
- Vương Thông xin hòa, mở hội thề Đông Quan rút quân về nước.
=> Khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.