Tác giả tác phẩm Thơ hai-cư của Ba-sô Ngữ văn lớp 10 đầy đủ bố cục, nội dung bài thơ, sơ lược về tác giả, dàn ý phân tích, sơ đồ tư duy, bài văn phân tích mẫu.
Bài giảng Thơ hai-cư của Ba-sô - Cô Trương Khánh Linh (Giáo viên VietJack)
A/ Nội dung và tóm tắt bài thơ Thơ hai-cư của Ba-sô
1.
Đất khách mười mùa sương
về thăm quê ngoảnh lại
Ê-đô là cố hương.
2.
Chim đỗ quyên hót
ở Kinh đô
mà nhớ Kinh đô.
3.
Lệ trào nóng hổi
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu.
4.
Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc?
gió mùa thu tái tê.
5.
Mưa đông giăng đầy trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc áo tơi.
6.
Từ bốn phương trời xa
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi-oa.
7.
Vắng lặng u trầm
thấm sâu vào đá
tiếng ve ngâm.
8.
Nằm bệnh giữa cuộc lãng du
mộng hồn còn phiêu bạt
những cánh đồng hoang vu.
ĐOÀN LÊ GIANG dịch
Quảng cáo
3 câu trả lời 1182
B/ Tìm hiểu về bài thơ Thơ hai-cư của Ba-sô
1. Tác giả
- Ba-sô (1644 – 1694) tên thật là Masuo Bashô (Tùng Vĩ Ba Tiêu) là một nhà thơ nổi tiếng của văn học Nhật Bản.
- Quê ở tỉnh Iga (nay là tỉnh Miê).
- Gia đình thuộc tầng lớp võ sĩ cấp thấp.
- Khoảng năm 28 tuổi chuyển đến Ê-đô (Tô-ki-ô) sống và sáng tác thơ Hai-cư với bút danh Ba-sô (Ba Tiêu).
- 10 năm cuối đời, ông đi khắp đất nước viết du ký và làm thơ Hai Cư.
- Ông mất ở Ô-sa-ka khi mới 50 tuổi.
- Tác phẩm chính: Du kí Phơi thân đồng nội(1659); Đoản văn trong đây (1688); Cánh đồng hoang(1689); Áo tơi cho khí (1691); Lối lên miền Ô-ku (1689).
- Phong cách nghệ thuật:
+ Cảm thức cô tịch, cô đơn nhưng là "niềm cô đơn huy hoàng"; là cảm thức của sự tĩnh mịch tuyệt đối.
+ Cảm thức về sự hội ngộ giữa cái đẹp và tính giản dị, tâm hồn và thiên nhiên, tính chất phác, mộc mạc và cái sâu thẳm, tuyệt diệu.
2. Tác phẩm
a. Đặc điểm thơ Hai-cư:
*Thể thơ:
- Hai-cư là một thể thơ truyền thống độc đáo của Nhật Bản (thi quốc), được hình thành từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ XVII có những thành tựu nổi bật.
- Hình thức: thơ Hai-cư thuộc loại ngắn nhất thế giới (cả bài chỉ 17 âm tiết, ngắt thành 3 đoạn 5 – 7 – 5). Nguyên bản tiếng Nhật chỉ có một câu thơ.
+ Dòng 1: giới thiệu.
+ Dòng 2: Tiếp tục ý trên và chuẩn bị cho dòng 3.
+ Dòng 3: Ý thơ kết lại nhưng không rõ ràng, mở ra những suy ngẫm, cảm xúc cho người đọc ngân nga, lan tỏa.
*Nội dung:
- Phản ánh tâm hồn người Nhật – tâm hồn ưa thích hòa nhập với thiên nhiên, vì vậy nội dung thường hướng đên một phong cảnh, một vài sự vật cụ thể, một tứ thơ, một cảm xúc, một suy tư… của người viết.
- Tứ thơ: khơi gợi xúc cảm, suy tư trong một khoảnh khắc hiện tại (quy tắc sử dụng “quý ngữ”)
Ví dụ:
Mùa Thu: Mùa Sương – Chiều Thu – Gió Thu.
Mùa Hè: Chim Đỗ Quyên, Tiếng Ve
Mùa Xuân: Hoa anh đào.
⇒ Đó là thời điểm hiện tại, cảnh trước mắt, sự gắn bó sâu sắc của con người với thiên nhiên.
* Nghệ thuật:
- Thủ pháp tượng trưng:
+ Thể hiện một khoảnh khắc của cảnh vật và đỉnh điểm của cảm xúc, hàm súc nghệ thuật khơi gợi chứ không phải là hàm xúc của châm ngôn, triết lý và thiên nhiên. Tìm cái đẹp trong những hình ảnh giản dị bình thường của thiên nhiên.
+ Thấm đẫm tinh thần Thiền tông (Phật giáo) và tinh thần văn hóa phương Đông.
- Ngôn ngữ: thiên về gợi, đa nghĩa.
b. Phân loại: 3 nhóm:
- Chùm thơ về tình cảm con người (bài 1-5).
- Chùm thơ về thiên nhiên (bài 6-7).
- Bài thơ của lòng khát khao sự sống (bài 8).
c. Giá trị nội dung: Thơ Ba-sô đã thức dậy nỗi nhớ da diết trong lòng những người xa quê hướng về xứ sở.
d. Giá trị nghệ thuật:
- Câu thơ ngắn, hàm súc.
- Hình ảnh thiên nhiên, tạo vật đầy gợi cảm trong liên tưởng.
C/ Đọc hiểu bài thơ Thơ hai-cư của Ba-sô
1. Bài 1
Đất khách mười mùa sương.
Về thăm quê ngoảnh lại
Ê-đô là cố hương
- Quý ngữ: Mùa sương – mùa thu.
- Nội dung: Đất khách, đất lạ hóa thành quê hương khi đã có thời gian sống, gắn bó và xa cách.
- Bằng trải nghiệm cũng như cảm nhận trong cuộc đời ở khoảng thời gian mười năm xa quê, nhà thơ khắc họa trước mắt chúng ta hai vùng đất khác nhau, hai khoảng không gian, thời gian xa vời; đất khách và quê hương, xưa và nay.
+ Trước cái vô hạn của không gian thời gian ta bắt gặp cái hữu hạn trong cuộc sống con người khi tuổi mỗi ngày một qua đi, sự gắn bó với quê hương mỗi ngày một ngắn lại, từ đó nhà thơ cảm thấy yêu cuộc sống này hơn và ngộ ra một điều: đâu cũng là quê hương.
+ Ê-đô là cố hương: trước cái hữu hình rộng lớn, nhà thơ biến thành cái vô hình nhỏ bé trong lòng tự mình biết để cảm nhận và di
D/ Sơ đồ tư duy bài thơ Thơ hai-cư của Ba-sô
Quảng cáo