Quảng cáo
1 câu trả lời 410
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng phong trào Đổi mới (1986) đến nay, trong đời sống xã hội cũng như trong các sinh hoạt học thuật, người ta rất hay nói đến cụm từ đổi mới tư duy. Thế nào là đổi mới tư duy? Tại sao phải đổi mới tư duy? Tư duy cũ cần đổi mới là tư duy gì? Và tư duy mới mà ta phải hướng đến có tên gọi ra sao, có những ưu điểm lớn nào? Đó là những câu hỏi hệ trọng cần phải được giải đáp nhằm làm rõ bản chất, sự thiết yếu cùng những đòi hỏi của cái gọi là đổi mới tư duy đó. Với sự nhạy cảm cao của một nhà khoa học và nhà hoạt động chính trị - xã hội, Phan Đình Diệu đã viết bài Tư duy hệ thống, - nguồn sức sống mới của đổi mới tư duy dường như để làm sáng tỏ các vấn đề này. Bài viết thực chất là bản rút gọn (do chính tác giả thực hiện) của tiểu luận Tư duy hệ thống và đổi mới tư duy, in trong cuốn Một góc nhìn của trí thức.
Nhìn tổng thể, đây là bài viết có tầm bao quát rộng, súc tích, giàu thông tin, giàu tính gợi mở và tràn đầy cảm hứng xây dựng, vun đắp cho một tương lai sáng sủa của khoa học và xã hội. Như nhan đề cho thấy, bài viết có chủ đề khẳng định ưu thế của tư duy hệ thống trong việc tạo ra động lực mới cho công cuộc đổi mới tư duy hiện nay.
Phần đầu của bài viết mang tính chất đặt vấn đề, gián tiếp nêu lên tính bức thiết của đổi mới tư duy và hướng lựa chọn nhằm vào tư duy hệ thống. Không thể không đối mới tư duy một khi thời đại giục giã, mà sự giục giã đó của thời đại lại xuất phát từ những bước tiến khổng lồ của loài người trong các thế kỉ qua, đặc biệt là thế kỷ XX, trên mọi lĩnh vực, từ khoa học tới kinh tế, xã hội. Dĩ nhiên, không phải ai khác ngoài chính con người đã tạo nên những thành tựu to lớn mà ta đã thấy. Nhưng đến lượt chúng, những thành tựu kia lại đặt con người trước nhiều thách thức mới, đòi hỏi con người phải tìm ra phương cách duy trì thế chủ động trong việc thúc đẩy cuộc sống không ngừng đi lên. Tư duy, trước hết là tư duy! Tư duy đúng sẽ hướng dẫn hành động đúng. Điều kiện sống mới, những kiến thức mới về vũ trụ, thiên nhiên và con người yêu cầu ta phải có một tư duy mới. Từ tất cả những điều trên, tư duy hệ thống hình thành và phát triển, như một sự đáp ứng có tính tất yếu. Sự hình thành và phát triển của nó vừa là sản phẩm hay là kết quả của một trình độ nhận thức, trình độ sống, lại vừa là đòi hỏi phía trước của trình độ sống, trình độ nhận thức ấy. Như vậy, theo nhận thức của tác giả, việc đổi mới tư duy và việc xây dựng tư duy hệ thống là hai mặt của một vấn đề bức thiết hiện nay.
Trong phần 2 của bài viết, tác giả tập trung làm rõ "nội dung" của tư duy hệ thống, thông qua việc minh định mấy khái niệm then chốt: cái toàn thể, thành phần riêng lẻ (hay đơn vị cấu thành), tương tác hữu cơ, thuộc tính hợp trội. Theo tác giả, đặc điểm nổi bật nhất của tư duy hệ thống là "nhìn nhận vũ trụ như một toàn thể thống nhất không thể tách rời, trong đó tất cả các đơn vị cấu thành và các hiện tượng cơ bản sinh ra từ chúng đều tác động qua lại với nhau, chúng không thể được hiểu như những đơn vị độc lập mà là những phần liên thuộc hữu cơ với nhau của cái toàn thể". Để cho người đọc lĩnh hội đúng về khái niệm toàn thể, tác giả đã đối lập nó với khái niệm tổng gộp. Tổng gộp chỉ là kết quả của con số cộng đơn giản, nhỏ hơn toàn thể, hiểu theo nghĩa là không có những thuộc tính hợp trội như toàn thể. Tác giả viết: "Cho nên người ta nói: hai cái một riêng lẻ đứng cạnh nhau chưa phải là cái hai, cái toàn thể bao giờ cũng lớn hơn tổng gộp của các thành phần". Theo tinh thần của lời giải thích đó, có thể hiểu sự tồn tại của tổng gộp mang tính chất cụ thể, hoặc cụ thể tương đối, còn sự tồn tại của toàn thể thì luôn trừu tượng. Chính vì toàn thể có hình thức "tồn tại" như thế nên muốn nắm bắt nó, ta phải "sử dụng" tư duy hệ thống.
Để giúp độc giả thấy rõ sự cần thiết phải có của kiểu tư duy hệ thống trong việc nắm bắt những phẩm chất hợp trội của toàn thể, tác giả đưa ra hai ví dụ:
"độc lập, thống nhất,... là những thuộc tính hợp trội của một đất nước trong toàn thể, chứ không thể là của một bộ phận nào trong đất nước đó";
"dân chủ, bình đẳng,... là thuộc tính của một xã hội, chứ không phải là thuộc tính của từng con người riêng lẻ trong xã hội đó".
Tiếp ý tác giả, ta có thể nêu những ví dụ khác, gần gũi hơn với "môi trường" văn chương, chẳng hạn: muốn tìm hiểu giọng điệu của một bài thơ trữ tình, ta không thể chỉ dựa riêng vào một yếu tố cấu thành nào đó, mà phải thấy giọng điệu là cái toát ra từ toàn thể tác phẩm; nghiên cứu cái nhìn nghệ thuật của một nhà văn, việc cần làm là phải chỉ ra được tính hệ thống của các thao tác xử lý ngôn từ mà nhà văn đã sử dụng cùng những động cơ ngầm ẩn chi phối nó, v.v.
Nhằm phân tích sâu hơn lý do cần đưa tư duy hệ thống lên vị trí chủ đạo trong khoa học và trong đời sống hiện nay, ở phần 3 của bài viết, Phan Đình Diệu đã chỉ ra một cách thuyết phục những giới hạn của tư duy cơ giới. Tác giả đã khái quát lên những nét tiêu biểu sau của tư duy cơ giới: quan niệm tự nhiên như một bộ máy mà ta có thể nhận thức được bằng phương pháp khoa học, bằng phép suy luận di
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
94529 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
56939 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
44282 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
43578 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
39449 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
36275 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
34332 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
31801 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
28950 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
26348
