Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá nội dung chủ đề và những nét đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ để làm rõ những biểu hiện của từng đồng chí bài thơ quê hương anh nước mặn đồng chua làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ tự phương trời chẳng hạn quen nhau súng bên súng đầu sát bên đầu đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ đồng chí phân tích đời sống
Quảng cáo
2 câu trả lời 56
Bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất về đề tài người lính trong kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt, đoạn thơ đầu đã khắc họa một cách chân thực và cảm động về cội nguồn cũng như sự hình thành tình đồng đội thiêng liêng của những người lính cụ Hồ.
Về nội dung và chủ đề, đoạn thơ tập trung làm sáng rõ cội nguồn của tình đồng chí. Mở đầu bài thơ, tác giả lý giải tình cảm này xuất phát từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân:
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Sử dụng thành ngữ "nước mặn đồng chua" và hình ảnh giàu sức gợi "đất cày lên sỏi đá", Chính Hữu cho thấy các anh đều là những người con của những vùng quê nghèo khó, là những người nông dân mặc áo lính. Chính sự đồng cảm giữa những người cùng giai cấp đã trở thành viên gạch đầu tiên xây dựng nên mối quan hệ bền chặt.
Sự gắn kết ấy càng trở nên mạnh mẽ hơn khi họ cùng chung lý tưởng và mục tiêu chiến đấu:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu"
Hình ảnh hoán dụ "súng" tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu, "đầu" tượng trưng cho ý chí và tư tưởng. Việc đặt các hình ảnh này cạnh nhau cho thấy sự sát cánh, đồng lòng của những người chiến sĩ nơi chiến trường ác liệt. Họ không chỉ cùng chung gian khổ mà còn chung một mục tiêu bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc.
Đặc biệt, tình đồng chí còn được tôi luyện qua việc chia sẻ những thiếu thốn, khắc nghiệt của đời sống quân ngũ:
"Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ"
Cái "rét" của rừng đêm Việt Bắc trở nên ấm áp hơn nhờ sự sẻ chia một tấm chăn mỏng. Từ những người "xa lạ", qua thử thách của bom đạn và sự thiếu thốn, họ đã trở thành "tri kỷ" – những người hiểu rõ lòng nhau. Để rồi, kết thúc đoạn thơ là một dòng chữ đặc biệt: "Đồng chí!". Câu thơ chỉ có hai tiếng kèm dấu chấm than vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng định về một loại tình cảm mới mẻ, cao đẹp hơn cả tình bạn, tình anh em thông thường.
Về nghệ thuật, đoạn thơ thể hiện phong cách đặc sắc của Chính Hữu: ngôn ngữ giản dị, hàm súc và hình ảnh chân thực. Tác giả không dùng những từ ngữ hoa mỹ mà chọn lọc những chi tiết đời thường nhưng giàu sức biểu cảm. Cấu trúc câu thơ đối xứng (Anh - Tôi, Quê hương anh - Làng tôi) tạo nên sự nhịp nhàng, nhấn mạnh sự tương đồng giữa những người lính.
Tóm lại, qua đoạn thơ, ta thấy tình đồng chí của các anh không phải là một khái niệm trừu tượng mà được xây dựng trên nền tảng vững chắc của sự cùng khổ, cùng chung lý tưởng và cùng chia sẻ gian lao. Chính tình cảm ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch để những người lính nông dân vượt qua mọi bão táp của cuộc kháng chiến.
Về nội dung và chủ đề, đoạn thơ tập trung làm sáng rõ cội nguồn của tình đồng chí. Mở đầu bài thơ, tác giả lý giải tình cảm này xuất phát từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân:
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Sử dụng thành ngữ "nước mặn đồng chua" và hình ảnh giàu sức gợi "đất cày lên sỏi đá", Chính Hữu cho thấy các anh đều là những người con của những vùng quê nghèo khó, là những người nông dân mặc áo lính. Chính sự đồng cảm giữa những người cùng giai cấp đã trở thành viên gạch đầu tiên xây dựng nên mối quan hệ bền chặt.
Sự gắn kết ấy càng trở nên mạnh mẽ hơn khi họ cùng chung lý tưởng và mục tiêu chiến đấu:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu"
Hình ảnh hoán dụ "súng" tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu, "đầu" tượng trưng cho ý chí và tư tưởng. Việc đặt các hình ảnh này cạnh nhau cho thấy sự sát cánh, đồng lòng của những người chiến sĩ nơi chiến trường ác liệt. Họ không chỉ cùng chung gian khổ mà còn chung một mục tiêu bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc.
Đặc biệt, tình đồng chí còn được tôi luyện qua việc chia sẻ những thiếu thốn, khắc nghiệt của đời sống quân ngũ:
"Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ"
Cái "rét" của rừng đêm Việt Bắc trở nên ấm áp hơn nhờ sự sẻ chia một tấm chăn mỏng. Từ những người "xa lạ", qua thử thách của bom đạn và sự thiếu thốn, họ đã trở thành "tri kỷ" – những người hiểu rõ lòng nhau. Để rồi, kết thúc đoạn thơ là một dòng chữ đặc biệt: "Đồng chí!". Câu thơ chỉ có hai tiếng kèm dấu chấm than vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng định về một loại tình cảm mới mẻ, cao đẹp hơn cả tình bạn, tình anh em thông thường.
Về nghệ thuật, đoạn thơ thể hiện phong cách đặc sắc của Chính Hữu: ngôn ngữ giản dị, hàm súc và hình ảnh chân thực. Tác giả không dùng những từ ngữ hoa mỹ mà chọn lọc những chi tiết đời thường nhưng giàu sức biểu cảm. Cấu trúc câu thơ đối xứng (Anh - Tôi, Quê hương anh - Làng tôi) tạo nên sự nhịp nhàng, nhấn mạnh sự tương đồng giữa những người lính.
Tóm lại, qua đoạn thơ, ta thấy tình đồng chí của các anh không phải là một khái niệm trừu tượng mà được xây dựng trên nền tảng vững chắc của sự cùng khổ, cùng chung lý tưởng và cùng chia sẻ gian lao. Chính tình cảm ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch để những người lính nông dân vượt qua mọi bão táp của cuộc kháng chiến.
huyền trang
· 4 ngày trước
hi bn nha
huyền trang
· 4 ngày trước
cho mìn làm qw
보고 싶어요
· 4 ngày trước
ok
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
247353 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
76679 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
61000 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
60815 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
51939 -
46237
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
43324 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
40619 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
38924
Gửi báo cáo thành công!
