“Truyện kể rằng Dớt nặn ra loài người, một sinh vật yếu đuối, không có khả năng gì để tồn tại và tự bảo vệ trước sóng gió, bão bùng và trước sự đe doạ của bao thú vật to, khoẻ, có sừng, có nọc độc, có nanh vuốt, biết bơi dưới nước, biết leo trèo. Thần Prômêtê thương loài người, luôn luôn tìm cách làm cho loài người đỡ khổ cực. Một lần, Thần giết con bò rất béo, lừa cho Dớt chọn được phần gồm toàn xương xẩu, gân và vó, còn phần nạc ngon nhất cho loài người. Dớt càng tức giận “Ðã thế, không bao giờ ta cho lửa loài người; chúng nó sẽ sống trong tối tăm, ngu dốt, khổ cực”. Thần Prômêtê biết ý đồ độc ác ấy, một hôm, lúc thiên đình vắng vẻ, chàng châm ngọn lửa, giấu kín trong ruột một loại cây sậy, rồi chạy như bay xuống trần thế, không ai hay biết gì hết. Thần trao ngọn lửa thiêng cho loài người. Ngay đêm hôm ấy, Dớt thấy dưới mặt đất, những đốm lửa nghìn nghịt như sao sa. Dớt uất ức hét ầm ầm “Thế là loài người có lửa, ta không thể tiêu diệt loài người được nữa; có lửa, con người sẽ sánh ngang thần thánh. Ôi! tai họa! Ôi! tai hoạ! Nhưng không, không! Ta sẽ làm cho loài người đau khổ, ta sẽ trừng trị Prômêtê”. Dớt tức khắc cho gọi thần thợ rèn chân thọt là Hêphaixtôt đến và ra lệnh nặn một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt vời, tóc như làn mây nhẹ, thân nàng óng ả như dòng suối lượn, tiếng nói thánh thót như chim ca, hai con mắt xanh biếc như biển cả- nàng Păngđo tuyệt thế giai nhân. Xưa nay, mặt đất chỉ rặt là đàn ông. Khi Păngđo xuất hiện, người đàn ông say đắm, không rời nàng một bước. Sức quyến rũ của Păngđo vô cùng kỳ diệu, nhưng nàng là một tai hoạ cho người đàn ông, nàng lừa dối, nên là nguồn gốc của mọi khổ đau mà người đàn ông phải chịu. Mặt khác, Dớt ra tay trừng trị Prômêtê. Dớt cho giải thần đến một đỉnh núi cao chót vót ở dãy Côcadơ hoang vu, xa tít mù tắp và ra lệnh cho thần thợ rèn Hêphaixtôt đóng đinh xiềng chàng vào núi đá. Prômêtê ngày bị mặt trời thiêu đốt, đêm rét buốt thấu đến xương tuỷ. Hàng ngày, một con đại bàng khổng lồ do Dớt sai đến, mổ bụng và ăn buồng gan của chàng. Song, thật kỳ diệu, buồng gan của vị thần bất tử đêm lại mọc ra, đầy đủ và tươi rói. Những cực hình kinh khủng ấy không thể khuất phục thần Prômêtê kiên cường. Prômêtê không run sợ. Chàng hiên ngang, không chịu nói một lời van xin. Bao nhiêu thế kỷ trôi qua, Prômêtê vẫn là Prômêtê bất khuất. Cuối cùng, Dớt chịu thua Prômêtê. Thần Hêraclet đến dãy núi Côcadơ, giương cung bắn chết Ðại bàng, trèo lên núi phá xiềng. Prômêtê được trả lại tự do”.
(Thần thoại Hi Lạp – theo Ðiển tích văn học – NXB Văn học 1996)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định ngôi kể của văn bản trên?
Câu 2. Theo văn bản,vị thần nào đã nặn ra loài người và miêu tả đặc điểm của loài người lúc ban đầu?
Câu 3. Xác định và phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn: “Thần Prômêtê biết ý đồ độc ác ấy, một hôm, lúc thiên đình vắng vẻ, chàng châm ngọn lửa, giấu kín trong ruột một loại cây sậy, rồi chạy như bay xuống trần thế, không ai hay biết gì hết”.
Câu 4. Chỉ ra 2 yếu tố hoang đường kì ảo xuất hiện trong văn bản? Vai trò của những yếu tố hoang đường kì ảo đó?
Câu 5. Em có suy nghĩ gì về nhân vật Prômêtê? (HS trả lời từ 3 đến 5 dòng)
Quảng cáo
6 câu trả lời 137
Câu 1. Xác định ngôi kể của văn bản trên
Văn bản được kể theo ngôi thứ ba.
→ Người kể chuyện giấu mình, kể lại câu chuyện về các vị thần (Dớt, Prômêtê, Hêphaixtôt…) và loài người một cách khách quan.
Câu 2. Theo văn bản, vị thần nào đã nặn ra loài người và đặc điểm của loài người lúc ban đầu?
Vị thần nặn ra loài người: Thần Dớt.
Đặc điểm của loài người lúc ban đầu:
→ Loài người yếu đuối, không có khả năng tự bảo vệ, không có sức mạnh như thú vật, dễ bị đe dọa bởi thiên nhiên và các loài vật hung dữ.
Câu 3. Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ trong câu văn
Câu văn:
“Thần Prômêtê biết ý đồ độc ác ấy, một hôm, lúc thiên đình vắng vẻ, chàng châm ngọn lửa, giấu kín trong ruột một loại cây sậy, rồi chạy như bay xuống trần thế, không ai hay biết gì hết.”
Biện pháp tu từ được sử dụng:
So sánh: “chạy như bay”
Tác dụng:
→ Làm nổi bật hành động nhanh chóng, quyết liệt, dũng cảm của Prômêtê khi mang lửa xuống cho loài người; đồng thời thể hiện sự khẩn trương, bí mật và tinh thần hy sinh vì con người của vị thần.
Câu 4. Chỉ ra 2 yếu tố hoang đường kì ảo và vai trò
Hai yếu tố hoang đường kì ảo:
Prômêtê là vị thần bất tử, bị đại bàng ăn gan mỗi ngày nhưng gan lại mọc ra.
Việc lấy lửa từ thiên đình và giấu trong ruột cây sậy đem xuống trần gian.
Vai trò của các yếu tố hoang đường kì ảo:
→ Làm cho câu chuyện trở nên kỳ vĩ, hấp dẫn, thể hiện trí tưởng tượng phong phú của người xưa; đồng thời tôn vinh tinh thần bất khuất, lòng yêu thương con người của Prômêtê và giải thích nguồn gốc lửa một cách giàu ý nghĩa.
Câu 5. Suy nghĩ của em về nhân vật Prômêtê (3–5 dòng)
Prômêtê là một vị thần giàu lòng nhân ái, yêu thương con người sâu sắc. Dù biết sẽ bị trừng phạt khủng khiếp, ông vẫn dũng cảm mang lửa xuống cho loài người. Những đau đớn và cực hình không thể khuất phục được ý chí kiên cường của Prômêtê. Nhân vật này tượng trưng cho tinh thần hy sinh, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân loại.
“Truyện kể rằng Dớt nặn ra loài người, một sinh vật yếu đuối, không có khả năng gì để tồn tại và tự bảo vệ trước sóng gió, bão bùng và trước sự đe doạ của bao thú vật to, khoẻ, có sừng, có nọc độc, có nanh vuốt, biết bơi dưới nước, biết leo trèo. Thần Prômêtê thương loài người, luôn luôn tìm cách làm cho loài người đỡ khổ cực. Một lần, Thần giết con bò rất béo, lừa cho Dớt chọn được phần gồm toàn xương xẩu, gân và vó, còn phần nạc ngon nhất cho loài người. Dớt càng tức giận “Ðã thế, không bao giờ ta cho lửa loài người; chúng nó sẽ sống trong tối tăm, ngu dốt, khổ cực”. Thần Prômêtê biết ý đồ độc ác ấy, một hôm, lúc thiên đình vắng vẻ, chàng châm ngọn lửa, giấu kín trong ruột một loại cây sậy, rồi chạy như bay xuống trần thế, không ai hay biết gì hết. Thần trao ngọn lửa thiêng cho loài người. Ngay đêm hôm ấy, Dớt thấy dưới mặt đất, những đốm lửa nghìn nghịt như sao sa. Dớt uất ức hét ầm ầm “Thế là loài người có lửa, ta không thể tiêu diệt loài người được nữa; có lửa, con người sẽ sánh ngang thần thánh. Ôi! tai họa! Ôi! tai hoạ! Nhưng không, không! Ta sẽ làm cho loài người đau khổ, ta sẽ trừng trị Prômêtê”. Dớt tức khắc cho gọi thần thợ rèn chân thọt là Hêphaixtôt đến và ra lệnh nặn một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt vời, tóc như làn mây nhẹ, thân nàng óng ả như dòng suối lượn, tiếng nói thánh thót như chim ca, hai con mắt xanh biếc như biển cả- nàng Păngđo tuyệt thế giai nhân. Xưa nay, mặt đất chỉ rặt là đàn ông. Khi Păngđo xuất hiện, người đàn ông say đắm, không rời nàng một bước. Sức quyến rũ của Păngđo vô cùng kỳ diệu, nhưng nàng là một tai hoạ cho người đàn ông, nàng lừa dối, nên là nguồn gốc của mọi khổ đau mà người đàn ông phải chịu. Mặt khác, Dớt ra tay trừng trị Prômêtê. Dớt cho giải thần đến một đỉnh núi cao chót vót ở dãy Côcadơ hoang vu, xa tít mù tắp và ra lệnh cho thần thợ rèn Hêphaixtôt đóng đinh xiềng chàng vào núi đá. Prômêtê ngày bị mặt trời thiêu đốt, đêm rét buốt thấu đến xương tuỷ. Hàng ngày, một con đại bàng khổng lồ do Dớt sai đến, mổ bụng và ăn buồng gan của chàng. Song, thật kỳ diệu, buồng gan của vị thần bất tử đêm lại mọc ra, đầy đủ và tươi rói. Những cực hình kinh khủng ấy không thể khuất phục thần Prômêtê kiên cường. Prômêtê không run sợ. Chàng hiên ngang, không chịu nói một lời van xin. Bao nhiêu thế kỷ trôi qua, Prômêtê vẫn là Prômêtê bất khuất. Cuối cùng, Dớt chịu thua Prômêtê. Thần Hêraclet đến dãy núi Côcadơ, giương cung bắn chết Ðại bàng, trèo lên núi phá xiềng. Prômêtê được trả lại tự do”.
Câu 1. Ngôi kể của văn bản:
Văn bản được kể theo ngôi thứ ba (người kể đứng ngoài kể chuyện về các nhân vật: Dớt, Prômêtê, Păngđo).
Câu 2. Vị thần nặn ra loài người và đặc điểm ban đầu của loài người:
Vị thần nặn ra loài người là Dớt.
Đặc điểm ban đầu của loài người: yếu đuối, không có khả năng tự tồn tại và bảo vệ, trước sóng gió, bão bùng và các loài thú mạnh mẽ, có sừng, có nọc độc, có nanh vuốt, biết bơi, biết leo trèo.
Câu 3. Phân tích biện pháp tu từ trong câu:
“Thần Prômêtê biết ý đồ độc ác ấy, một hôm, lúc thiên đình vắng vẻ, chàng châm ngọn lửa, giấu kín trong ruột một loại cây sậy, rồi chạy như bay xuống trần thế, không ai hay biết gì hết.”
Biện pháp tu từ: So sánh (“chạy như bay”), liệt kê hành động, hình ảnh ẩn dụ (“giấu kín trong ruột một loại cây sậy”).
Tác dụng: Nhấn mạnh sự nhanh nhẹn, mưu trí và lòng dũng cảm của Prômêtê; làm hành động của thần trở nên sinh động, kịch tính và dễ hình dung.
Câu 4. Hai yếu tố hoang đường, kì ảo:
Prômêtê bị xiềng vào núi, mỗi ngày đại bàng mổ gan nhưng gan lại mọc lại (bất tử).
Păngđo là người phụ nữ do Dớt nặn ra có sức quyến rũ tuyệt diệu, là nguồn tai họa cho đàn ông.
Vai trò: Tạo sự khác thường, hấp dẫn, nhấn mạnh sức mạnh thần thoại và tính chất phi thực tế, kịch tính của câu chuyện; thể hiện cuộc đấu tranh giữa thiện – ác.
Câu 5. Suy nghĩ về nhân vật Prômêtê:
Prômêtê là một vị thần dũng cảm, thông minh và đầy lòng nhân ái. Chàng luôn thương loài người, sẵn sàng chống lại Dớt để mang lửa cho con người, chịu đựng cực hình mà không khuất phục, thể hiện tinh thần bất khuất và cao thượng.
Câu 1.
Văn bản được kể theo ngôi thứ ba.
→ Người kể giấu mình, kể về các nhân vật như Dớt, Prômêtê…, giúp câu chuyện mang tính khách quan, bao quát.
Câu 2.
Vị thần nặn ra loài người: Thần Dớt.
Đặc điểm của loài người lúc ban đầu:
Loài người là sinh vật yếu đuối, không có khả năng tự tồn tại và tự bảo vệ trước thiên nhiên khắc nghiệt và các loài thú dữ mạnh mẽ.
Câu 3.
Biện pháp tu từ được sử dụng:
So sánh: “chạy như bay xuống trần thế”.
Tác dụng:
Biện pháp so sánh làm nổi bật hành động nhanh nhẹn, quyết liệt và bí mật của thần Prômêtê, thể hiện sự thông minh, dũng cảm và quyết tâm mang lửa về cho loài người, đồng thời tăng tính sinh động cho câu văn.
Câu 4.
Hai yếu tố hoang đường kì ảo:
Prômêtê lấy trộm lửa của thần linh và mang xuống cho loài người.
Buồng gan của Prômêtê bị đại bàng ăn mỗi ngày nhưng đêm lại mọc ra nguyên vẹn.
Vai trò:
Những yếu tố hoang đường kì ảo làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn, li kì; đồng thời tôn vinh sức mạnh, lòng dũng cảm và tinh thần bất khuất của nhân vật Prômêtê, thể hiện quan niệm và trí tưởng tượng phong phú của người Hi Lạp cổ đại.
Câu 5. (3–5 dòng)
Prômêtê là một vị thần giàu lòng nhân ái, luôn yêu thương và bảo vệ loài người. Dù phải chịu những cực hình vô cùng tàn khốc, chàng vẫn kiên cường, không khuất phục trước bạo lực của Dớt. Nhân vật Prômêtê khiến em khâm phục bởi tinh thần dũng cảm, sự hi sinh và ý chí bất khuất vì hạnh phúc của con người.
Câu 1. Ngôi kể của văn bản:
Văn bản được kể theo ngôi thứ ba (người kể đứng ngoài kể chuyện về các nhân vật: Dớt, Prômêtê, Păngđo).
Câu 2. Vị thần nặn ra loài người và đặc điểm ban đầu của loài người:
Vị thần nặn ra loài người là Dớt.
Đặc điểm ban đầu của loài người: yếu đuối, không có khả năng tự tồn tại và bảo vệ, trước sóng gió, bão bùng và các loài thú mạnh mẽ, có sừng, có nọc độc, có nanh vuốt, biết bơi, biết leo trèo.
Câu 3. Phân tích biện pháp tu từ trong câu:
“Thần Prômêtê biết ý đồ độc ác ấy, một hôm, lúc thiên đình vắng vẻ, chàng châm ngọn lửa, giấu kín trong ruột một loại cây sậy, rồi chạy như bay xuống trần thế, không ai hay biết gì hết.”
Biện pháp tu từ: So sánh (“chạy như bay”), liệt kê hành động, hình ảnh ẩn dụ (“giấu kín trong ruột một loại cây sậy”).
Tác dụng: Nhấn mạnh sự nhanh nhẹn, mưu trí và lòng dũng cảm của Prômêtê; làm hành động của thần trở nên sinh động, kịch tính và dễ hình dung.
Câu 4. Hai yếu tố hoang đường, kì ảo:
Prômêtê bị xiềng vào núi, mỗi ngày đại bàng mổ gan nhưng gan lại mọc lại (bất tử).
Păngđo là người phụ nữ do Dớt nặn ra có sức quyến rũ tuyệt diệu, là nguồn tai họa cho đàn ông.
Vai trò: Tạo sự khác thường, hấp dẫn, nhấn mạnh sức mạnh thần thoại và tính chất phi thực tế, kịch tính của câu chuyện; thể hiện cuộc đấu tranh giữa thiện – ác.
Câu 5. Suy nghĩ về nhân vật Prômêtê:
Prômêtê là một vị thần dũng cảm, thông minh và đầy lòng nhân ái. Chàng luôn thương loài người, sẵn sàng chống lại Dớt để mang lửa cho con người, chịu đựng cực hình mà không khuất phục, thể hiện tinh thần bất khuất và cao thượng.
Câu 1.
Văn bản được kể theo ngôi thứ ba.
→ Người kể giấu mình, kể về các nhân vật như Dớt, Prômêtê…, giúp câu chuyện mang tính khách quan, bao quát.
Câu 2.
Vị thần nặn ra loài người: Thần Dớt.
Đặc điểm của loài người lúc ban đầu:
Loài người là sinh vật yếu đuối, không có khả năng tự tồn tại và tự bảo vệ trước thiên nhiên khắc nghiệt và các loài thú dữ mạnh mẽ.
Câu 3.
Biện pháp tu từ được sử dụng:
So sánh: “chạy như bay xuống trần thế”.
Tác dụng:
Biện pháp so sánh làm nổi bật hành động nhanh nhẹn, quyết liệt và bí mật của thần Prômêtê, thể hiện sự thông minh, dũng cảm và quyết tâm mang lửa về cho loài người, đồng thời tăng tính sinh động cho câu văn.
Câu 4.
Hai yếu tố hoang đường kì ảo:
Prômêtê lấy trộm lửa của thần linh và mang xuống cho loài người.
Buồng gan của Prômêtê bị đại bàng ăn mỗi ngày nhưng đêm lại mọc ra nguyên vẹn.
Vai trò:
Những yếu tố hoang đường kì ảo làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn, li kì; đồng thời tôn vinh sức mạnh, lòng dũng cảm và tinh thần bất khuất của nhân vật Prômêtê, thể hiện quan niệm và trí tưởng tượng phong phú của người Hi Lạp cổ đại.
Câu 5. (3–5 dòng)
Prômêtê là một vị thần giàu lòng nhân ái, luôn yêu thương và bảo vệ loài người. Dù phải chịu những cực hình vô cùng tàn khốc, chàng vẫn kiên cường, không khuất phục trước bạo lực của Dớt. Nhân vật Prômêtê khiến em khâm phục bởi tinh thần dũng cảm, sự hi sinh và ý chí bất khuất vì hạnh phúc của con người.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
83629 -
Hỏi từ APP VIETJACK72776
-
56096
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
45517 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
40688 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
37889 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
36784 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
31862
