hãy trình bày giá trị lịch sử - văn hóa của chiến khu D ( thuyết trình )
Quảng cáo
5 câu trả lời 147
BÀI THUYẾT TRÌNH
Giá trị lịch sử – văn hóa của Chiến khu D**
Kính thưa thầy cô và các bạn,
Hôm nay em xin trình bày về giá trị lịch sử – văn hóa của Chiến khu D, một trong những căn cứ cách mạng lớn và quan trọng bậc nhất ở miền Đông Nam Bộ.
1. Giá trị lịch sử
Trước hết, Chiến khu D là nơi gắn liền với những năm tháng đấu tranh oanh liệt của quân và dân ta trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Từ vùng rừng núi hiểm trở của Đồng Nai, nơi đây đã trở thành căn cứ địa an toàn cho nhiều cơ quan đầu não của cách mạng như:
Bộ Tư lệnh Miền
Các đơn vị chủ lực của Quân giải phóng
Lực lượng vũ trang tỉnh, huyện
Nhiều chiến dịch lớn bắt đầu từ khu vực này, đóng góp quan trọng vào thắng lợi của dân tộc. Có thể nói, Chiến khu D là biểu tượng của ý chí chiến đấu kiên cường, tinh thần bất khuất của quân dân Nam Bộ trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ.
2. Giá trị văn hóa
Không chỉ có giá trị lịch sử, Chiến khu D còn mang ý nghĩa văn hóa đặc biệt. Mảnh đất này lưu giữ:
Nếp sống, phong tục của đồng bào các dân tộc trong vùng rừng núi Đông Nam Bộ.
Những di tích, dấu tích chiến tranh, phục dựng lại đời sống, hầm trú ẩn, trạm quân y, bếp Hoàng Cầm,… giúp thế hệ trẻ hiểu hơn về cuộc sống gian khổ mà anh hùng của cha ông.
Giá trị giáo dục truyền thống: Chiến khu D là “lớp học lớn” giúp chúng ta bồi dưỡng lòng yêu nước, biết trân trọng hòa bình, tự hào về lịch sử dân tộc.
Ngày nay, nơi đây được quy hoạch thành khu di tích lịch sử – văn hóa, vừa để bảo tồn, vừa để giáo dục thế hệ trẻ và thu hút khách tham quan, nghiên cứu.
3. Kết luận
Từ những giá trị trên, Chiến khu D không chỉ là địa danh của chiến tranh mà còn là biểu tượng của tinh thần dân tộc, là nơi nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm giữ gìn độc lập, bảo vệ Tổ quốc và gìn giữ những truyền thống tốt đẹp mà cha ông để lại.
Em xin chân thành cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe!
BÀI THUYẾT TRÌNH
Giá trị lịch sử – văn hóa của Chiến khu D**
Kính thưa thầy cô và các bạn,
Hôm nay em xin trình bày về giá trị lịch sử – văn hóa của Chiến khu D, một trong những căn cứ cách mạng lớn và quan trọng bậc nhất ở miền Đông Nam Bộ.
1. Giá trị lịch sử
Trước hết, Chiến khu D là nơi gắn liền với những năm tháng đấu tranh oanh liệt của quân và dân ta trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Từ vùng rừng núi hiểm trở của Đồng Nai, nơi đây đã trở thành căn cứ địa an toàn cho nhiều cơ quan đầu não của cách mạng như:
Bộ Tư lệnh Miền
Các đơn vị chủ lực của Quân giải phóng
Lực lượng vũ trang tỉnh, huyện
Nhiều chiến dịch lớn bắt đầu từ khu vực này, đóng góp quan trọng vào thắng lợi của dân tộc. Có thể nói, Chiến khu D là biểu tượng của ý chí chiến đấu kiên cường, tinh thần bất khuất của quân dân Nam Bộ trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ.
2. Giá trị văn hóa
Không chỉ có giá trị lịch sử, Chiến khu D còn mang ý nghĩa văn hóa đặc biệt. Mảnh đất này lưu giữ:
Nếp sống, phong tục của đồng bào các dân tộc trong vùng rừng núi Đông Nam Bộ.
Những di tích, dấu tích chiến tranh, phục dựng lại đời sống, hầm trú ẩn, trạm quân y, bếp Hoàng Cầm,… giúp thế hệ trẻ hiểu hơn về cuộc sống gian khổ mà anh hùng của cha ông.
Giá trị giáo dục truyền thống: Chiến khu D là “lớp học lớn” giúp chúng ta bồi dưỡng lòng yêu nước, biết trân trọng hòa bình, tự hào về lịch sử dân tộc.
Ngày nay, nơi đây được quy hoạch thành khu di tích lịch sử – văn hóa, vừa để bảo tồn, vừa để giáo dục thế hệ trẻ và thu hút khách tham quan, nghiên cứu.
3. Kết luận
Từ những giá trị trên, Chiến khu D không chỉ là địa danh của chiến tranh mà còn là biểu tượng của tinh thần dân tộc, là nơi nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm giữ gìn độc lập, bảo vệ Tổ quốc và gìn giữ những truyền thống tốt đẹp mà cha ông để lại.
Em xin chân thành cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe!
Chiến khu Đ, một vùng đất oai hùng thuộc miền Đông Nam Bộ (chủ yếu thuộc địa phận tỉnh Bình Dương và Đồng Nai ngày nay), là một trong những căn cứ địa cách mạng lớn và quan trọng nhất của Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Nơi đây mang trong mình những giá trị lịch sử và văn hóa vô cùng to lớn.
I. Giá trị Lịch sử
Giá trị lịch sử của Chiến khu Đ thể hiện rõ nét qua vai trò chiến lược của nó trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc:
Căn cứ địa cách mạng vững chắc:Trong kháng chiến chống Pháp, Chiến khu Đ là nơi đứng chân, là "Việt Bắc của Nam Bộ", nơi đặt các cơ quan Đảng, chính quyền và đoàn thể của Khu ủy miền Đông.
Trong kháng chiến chống Mỹ, khu vực này được mở rộng, trở thành căn cứ địa quan trọng của Trung ương Cục miền Nam, là bàn đạp chiến lược cho các cuộc tấn công vào Sài Gòn và các tỉnh lân cận.
Chứng nhân của những sự kiện hào hùng:Nơi đây đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt, ghi dấu sự kiên cường, mưu trí của quân và dân ta. Dù bị địch mệnh danh là "Vùng đất chết" với nhiều chiến dịch càn quét lớn, quân và dân Chiến khu Đ vẫn bám trụ, sản xuất và chiến đấu.
Chiến khu Đ còn là nơi sản sinh ra nhiều tài liệu, văn kiện quan trọng, góp phần vào đường lối lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Biểu tượng của tinh thần "Miền Đông gian lao mà anh dũng":Giá trị lịch sử lớn nhất là tinh thần bất khuất, sự hy sinh anh dũng của hàng vạn cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đã sống, chiến đấu và ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Đây là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam.
II. Giá trị Văn hóa
Giá trị văn hóa của Chiến khu Đ không chỉ nằm ở những hiện vật, di tích mà còn ở những giá trị tinh thần, truyền thống được hun đúc qua thời gian:
Giáo dục truyền thống cách mạng:Chiến khu Đ là một "địa chỉ đỏ" để giáo dục lòng yêu nước, truyền thống đấu tranh cách mạng cho các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam.
Các hoạt động tham quan, "về nguồn" tại khu di tích giúp du khách và học sinh hiểu sâu sắc hơn về lịch sử, từ đó bồi dưỡng tinh thần yêu nước và ý thức bảo vệ Tổ quốc.
Di sản văn hóa vật thể và phi vật thể:Khu di tích lịch sử Chiến khu Đ đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia (năm 2004) và sau đó là Di tích quốc gia đặc biệt.
Nơi đây lưu giữ nhiều hiện vật, hầm hào, công sự, và các mô hình tái hiện cuộc sống, sinh hoạt, làm việc của quân và dân trong chiến khu, mang lại cái nhìn chân thực về một thời kỳ lịch sử hào hùng.
Bảo tồn và phát huy giá trị:Việc bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích không chỉ là trách nhiệm mà còn góp phần phát triển du lịch, tạo điểm nhấn văn hóa, kinh tế cho địa phương (Bình Dương, Đồng Nai).
Kết luận
Chiến khu Đ không chỉ là một địa danh lịch sử mà còn là một biểu tượng văn hóa của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Giá trị lịch sử - văn hóa to lớn của Chiến khu Đ mãi mãi là niềm tự hào và là bài học quý giá cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Chiến khu Đ là một căn cứ quân sự ở miền Đông Nam Bộ của Mặt trận Việt Minh và Quân đội nhân dân Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương, và của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến khu được thành lập vào tháng 2 năm 1946, bao gồm 5 xã: Tân Hòa, Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Tân, Lạc An (nay thuộc huyện Tân Uyên, Bình Dương). Cuộc kháng chiến phát triển, Chiến khu Đ ngày càng mở rộng lên vùng rừng núi hiểm trở từ biên giới Việt Nam-Campuchia đến gần sát các thành phố Sài Gòn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một. Là căn cứ của cơ quan chỉ đạo kháng chiến miền Nam.[1] Chiến khu Đ một thời được mệnh danh là "vùng đất chết".
Hoàn cảnh hình thành
Chiến khu Đ được xây dựng vào cuối tháng 2 năm 1946. Khi thực dân Pháp chiếm đóng được quận lỵ Tân Uyên, thành lập chi khu. Tổng hành dinh Khu 7 và lực lượng vũ trang Biên Hòa, Thủ Dầu Một rút sâu vào rừng. Công tác xây dựng căn cứ được đặt ra một cách cấp thiết tại Hội nghị bất thường của Khu bộ khu 7 ở Lạc An. Được hội nghị chấp thuận, việc xây dựng căn cứ được triển khai có hệ thống, các cơ quan, đơn vị, công xưởng v.v. phân chia đóng từng khu vực.[2]
Ý nghĩa tên gọi
Đường vào chiến khu D từ ngả Bình Phước
Nhiều khu vực Nam Bộ của Việt Minh trong chiến tranh Đông Dương mang mật danh A, B, C, D:
A là căn cứ giao thông liên lạc đóng ở Giáp Lạc,
B là căn cứ hậu cần đóng ở Thường Lang,
C là khu bộ đội thường trực đóng ở Ông Đội,
D là khu Tổng hành dinh khu 7 đóng ở hố Ngãi Hoang.
Từ đó, chiến khu Đ trở thành căn cứ địa của chiến khu 7 – một tổ chức hành chính – quân sự của các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa và thành phố Sài Gòn, do Trung tướng Nguyễn Bình được chỉ định làm Khu trưởng và Trần Xuân Độ làm Chính ủy. Ban đầu, Đ là mật danh chỉ tổng hành dinh của khu 7 nằm trong hệ thống các vị trí căn cứ của khu. Dần về sau, mật danh Đ được dùng để chỉ luôn cả vùng chiến khu rộng lớn ngày càng phát triển ở miền Đông Nam Bộ.
Tuy nhiên, cũng có nhiều người cho rằng chữ Đ ở đây mang ý nghĩa là "đỏ", hàm ý là vùng chiến khu cách mạng kiên cường, tập trung những cơ quan đầu não kháng chiến quan trọng, một "địa chỉ Đỏ" của cả nước. Hoặc chữ Đ là viết tắt địa danh Đất Cuốc, nơi thi tướng Huỳnh Văn Nghệ khởi cứ đầu tiên. Hoặc chữ Đ là viết tắt chiến khu Đồng Nai, chiến khu miền Đông, chiến khu Đầu tiên...[2]
Địa lý
Rừng Mã Đà, nơi đặt mật cứ Chiến khu Đ
Trong chiến tranh Đông Dương, phạm vi chủ yếu của chiến khu Đ nằm trên vùng đất: Tây giáp đường 16 đoạn từ thị trấn Tân Uyên lên Cổng xanh; Bắc giáp Sông Bé đoạn từ cầu Phước Hòa lên Chánh Hưng, Đông vẫn giáp Sông Bé đoạn từ Chánh Hưng đến ngã ba Hiếu Liêm và Nam giáp sông Đồng Nai đoạn từ ngã ba Hiếu Liêm về thị trấn Tân Uyên.
Sang chiến tranh Việt Nam, do đặc điểm về quy mô của cuộc chiến tranh, trung tâm căn cứ chuyển dần lên phía Đông Bắc. Đến đầu năm 1975, căn cứ được xây dựng hoàn chỉnh, phạm vi phát triển đến mức cao nhất. Toàn bộ căn cứ địa nằm ở phía Bắc sông Đồng Nai, phía Tây giáp địa giới hai tỉnh Bình Long và Phước Long cũ, phía Bắc giáp biên giới Việt Nam-Campuchia và phía Đông giáp địa giới 3 tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Đắk Lắk hiện nay kéo về rừng Cát Tiên phía thượng nguồn sông Đồng Nai bên hữu ngạn.
Nằm trong vùng rừng núi phía Bắc miền Đông Nam Bộ, địa thế hiểm trở, chiến khu Đ là một khu vực lý tưởng cho việc xây dựng căn cứ, nơi cất giấu lực lượng, cất giữ kho tàng và phát triển mọi mặt của một căn cứ địa kháng chiến. Lưng dựa vào dãy Trường Sơn và vùng rừng núi miền Nam Đông Dương, dính với một phần đoạn cuối Đường mòn Hồ Chí Minh, phía trước lấn sát vùng đồng bằng đông dân cư và các khu đô thị lớn, chiến khu Đ còn là một vị trí án ngữ chiến lược, nối nhiều chiến trường với nhau, là một trong những địa điểm liên lạc, tiếp nối, vận chuyển quan trọng từ hậu phương miền Bắc vào tiền tuyến miền Nam. Hơn nữa, với ưu thế tiếp cận các đường giao thông chiến lược, các đô thị lớn và thành phố Sài Gòn, chiến khu Đ có ưu thế là một bàn đạp quân sự tiến công vào mục tiêu quân sự, chính trị, kinh tế của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa ở Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ.[2]
Nằm án ngữ trên hành lang cửa ngõ phía Bắc Sài Gòn, nối thông lên vùng rừng núi Tây Nguyên, chiến khu Đ giữ một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Trong 2 cuộc kháng chiến, chiến khu Đ là căn cứ địa quan trọng của tỉnh Biên Hòa, Thủ Dầu Một, của Quân khu 7 và toàn Nam Bộ.[3]
Nhận định
Chiến khu Đ được coi là trung tâm kháng chiến, là nơi ra đời và phát triển của các lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ như tiểu đoàn 800, trung đoàn 762, sư đoàn 9, sư đoàn 5.
Theo nhà nước Việt Nam, về phương diện chính trị, tinh thần, Chiến khu Đ tồn tại như một biểu tượng của cuộc kháng chiến, tiêu biểu cho ý chí, sức mạnh tinh thần của dân Việt, là nguồn hy vọng, là niềm tin của toàn thể cán bộ, chiến sĩ và người dân trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.[2] Lê Duẩn, nguyên Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá vị trí chiến lược của Chiến khu Đ: "Miền rừng núi Đông Nam bộ và Khu VI đối với Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long có vị trí tương tự như khu căn cứ Việt Bắc đối với Hà Nội và đồng bằng Bắc bộ trước đây trong kháng chiến chống Pháp."[4]
Trong văn học-nghệ thuật
Biểu tượng Chiến khu Đ
Chén bát của quân du kích ở chiến khu D
Tượng phục dựng khoai lang trên bếp Hoàng Cầm ở Chiến khu D
Tượng phục dựng bắp chuối trên bếp Hoàng Cầm ở Chiến khu D
Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ đã sáng tác nhiều bài thơ về chiến khu Đ, sau đây là một số tác phẩm tiêu biểu của ông:[3]
Sau Nam Kỳ khởi nghĩa
Trước cách mạng mùa thu
Có một nhóm đồng chí
Ra thành lập chiến khu
Ngồi quanh một ấm chè
Thảo luận suốt trưa hè
Tên chiến khu bất khuất
Đồng Nai hay Đất Cuốc
Rốt cuộc Chiến khu Đ
Đã bao mùa lá vàng rơi từ ấy
Chiến khu Đ vẫn đỏ máu quân thù.
Đoạn thơ trên đề cập đến thời điểm ra đời của Chiến khu Đ; đồng thời cắt nghĩa xuất xứ tên gọi "Đ" của chiến khu.
Vào hạ tuần tháng 10 năm 1945, quân đội Pháp bắt đầu tấn công quyết liệt, trong điều kiện tương quan lực lượng quá chênh lệch, các lực lượng kháng chiến để lại một bộ phận nhỏ hoạt động ở vùng ngoại ô, còn lại rút ra vùng ngoài củng cố xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Hàng ngàn công nhân, trí thức, học sinh rời thành đi kháng chiến. Chiến khu Đ trở thành nơi tập hợp lực lượng trong vùng. Sự kiện lịch sử này được nhắc tới trong bài thơ "Ngày hội" của Huỳnh Văn Nghệ:
Biên Hòa đã mất
Chiến khu Đ cờ vẫn đỏ ngọn cao
Du kích Tân Uyên ngày đào đắp chiến hào
Đêm tập một hai vang trường Đất Cuốc...
Anh Nguyễn Bình cũng đã về đây
Xem địa thế sông dài rừng thẳm
Tình quân dân đầm ấm
Anh xuống ngựa buộc cương...
Lạc An bỗng tưng bừng ngày hội
Kéo về đây đến bốn, năm chi đội
Kim Trương, Tô Ký, Vũ Đức, Tấn Chùa
Chiến khu Đ của tiểu đội ngày xưa
Bỗng lớn lên như Phù Đổng.
Với ưu thế về quân đội, trang bị, vũ khí, hỏa lực, Pháp liên tục đánh chiếm các vùng của Việt Nam. Tân Uyên và nhiều vùng phụ cận rơi vào tay quân Pháp:
Rồi từ đó Tân Uyên thành chiến địa
Máu quân thù tiếp tục chảy không thôi
Dòng sông xanh đã nhuộm màu máu tía
Thuyền bến xưa phiêu bạt bốn phương trời.
(bài Mất Tân Uyên)
Sau khi hòa bình lập lại, Việt Nam thống nhất, Huỳnh Văn Nghệ trở về chiến khu Đ và sáng tác những vần thơ nhớ một thời kháng chiến bất khuất, hoặc xót xa với cảnh rừng bị quân đội Pháp, quân đội Hoa Kỳ tàn phá đến hoang trụi.
Đất rừng còn nhức nhối
Hố bom khoét thân mình
Cây dầu còn rỉ máu
Vết đạn vẫn chưa lành...
Dân mình còn gian khổ
Hòa bình chưa ăn mừng
Lo thiếu gạo thiếu gỗ
Nhưng phải bảo vệ rừng
Ngày mai rừng tươi lại
Cho người đỡ nắng mưa
Thêm lúa thơm gỗ quý
Suối trong veo bốn mùa.
(bài Cây thông già và anh thợ rừng)
Chú thích
^ Chiến khu Đ Lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2017 tại Wayback Machine trên Từ điển bách khoa Việt Nam
^ a b c d "Chiến Khu Đ - Trang tin tỉnh Bình Dương". Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2010.
^ a b "Báo SGGP Online". Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2010.
^ "Chiến khu Đ - Mảnh đất anh hùng". Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2010.
BÀI THUYẾT TRÌNH
GIÁ TRỊ LỊCH SỬ – VĂN HÓA CỦA CHIẾN KHU D
Kính thưa thầy cô và các bạn,
Hôm nay em xin trình bày ngắn gọn về giá trị lịch sử – văn hóa của Chiến khu D, một trong những căn cứ cách mạng quan trọng nhất ở miền Nam.
1. Khái quát
Chiến khu D nằm trên địa bàn các tỉnh Đồng Nai – Bình Dương – Bình Phước – Tây Ninh, có địa hình rừng núi thuận lợi, trở thành nơi đặt cơ quan đầu não của cách mạng trong hai cuộc kháng chiến.
2. Giá trị lịch sử
Trung tâm lãnh đạo cách mạng miền Nam: Nơi đứng chân của Xứ ủy Nam Bộ, Bộ Tư lệnh Quân giải phóng, nơi đề ra nhiều quyết sách quan trọng.
Căn cứ kháng chiến vững chắc: Lực lượng vũ trang được huấn luyện, chuẩn bị và xuất phát từ đây cho nhiều chiến dịch lớn.
Biểu tượng tinh thần chiến đấu: Dù bị càn quét nhiều lần, chiến khu vẫn tồn tại, thể hiện tinh thần kiên cường, bất khuất của quân và dân ta.
3. Giá trị văn hóa
Không gian văn hóa chiến khu: Ghi dấu đời sống gian khổ nhưng đoàn kết, nghĩa tình của cán bộ – chiến sĩ.
Hệ thống di tích phong phú: Nhiều hầm, căn cứ, địa danh được bảo tồn như chứng tích sống của lịch sử.
Giá trị giáo dục: Là địa chỉ đỏ giúp thế hệ trẻ hiểu thêm về truyền thống yêu nước và sự hy sinh của cha ông.
4. Kết luận
Chiến khu D vừa là biểu tượng lịch sử hào hùng, vừa là di sản văn hóa quý báu cần được gìn giữ và tiếp tục phát huy để giáo dục thế hệ mai sau.
Em xin chân thành cảm ơn!
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
76511 -
46177
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
27980 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
26084 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
22745 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
21130 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
18392 -
16501
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
15139
