Anh (chị) có suỹ nghĩ gì về niềm đam mê công việc được đặt ra trong đoạn trích:
"Sáng độ một giờ rồi. Phương đông trắng mát màu hoa huệ, đã ngả qua màu hồng của tuổi dậy thì, để bây giờ nhếnh nhoáng màu vàng cháy. Mặt trời mới nhú lên được một chút, khỏi cái nóc nhà cao nhất, ở đầu phố đằng kia. Những tia nắng đầu tiên, óng ả như tơ, lướt qua một rặng mái nhà thấp lè tè, cáu bẩn, mấp mô, để đến xiên vào hai cái cửa sổ gác nhà trường, cái cao thứ hai ở đầu phố đằng này. Nắng chảy thành vũng trên sàn. Hai vùng sáng, trước còn nhỏ và mập mờ, cứ dần dần lan rộng thêm, rõ hình thêm. Sau cùng thì đã rõ ràng là hai cái hình chữ nhật lệch có rọc đen. Một chút phản quang hắt lên trần, lên những bức tường quét vôi vàng và kẻ chì nâu. Nó hắt cả lên cái đi văng Thứ đang ngồi, khiến y nheo nheo mắt nhìn lên. Mặt trời đã nhô lên hẳn.
Thứ ngồi tránh sang một bên, rồi lại cúi xuống, lần lượt giở mấy quyển sách giáo khoa để trên đùi. Y tìm những bài để dạy hôm nay. Y dạy học đã hai năm. Cái chương trình học của lớp nhất, lớp nhì y đã thuộc gần nhập tâm, chỉ thuộc thêm một chút nữa là y đã có thể làm như một giáo sư toán học cũ của y, nhớ đến cả giả lời những bài tính đố mà ông có thể đọc thuộc lòng được đầu bài, nên quanh năm dạy học không cần dùng đến một quyển sách nào. Trong việc soạn bài, không cần thận trọng quá như hồi mới đến trường, có lẽ do đấy một phần. Nhưng một phần lớn lại vì cớ khác.
Có thể nói rằng y đã chán nghề. Không phải vì nghề dạy học tư không thích hợp với y. Nhưng cái nghề bạc bẽo làm sao! Để bớt số giáo viên, một mình y dạy lớp nhất xong lại phải dạy lớp nhì kế theo ngay, nên mỗi ngày phải dạy đúng tám giờ. Tám giờ nói luôn luôn, cử động luôn luôn, chẳng lúc nào ngơi. Thì giờ học trò ở lớp rút đi, nên thầy phải dùng đến từng phút con con để có thể dạy hết bài. Tất cả các bài làm đều phải chấm ở nhà. Thành thử mỗi ngày y bận rộn đến mười giờ. Công việc mệt mỏi quá đi cày. Thế mà lương mỗi tháng, chỉ vẻn vẹn có hai chục đồng.
Người hiệu trưởng cũ là một người anh họ Thứ. Đích trước kia giữ một chân bán hàng buôn. Cả đời đi làm cho một sở tư, cố nhiên là chẳng thú vị gì. Đích bèn chung vốn với Oanh, một bạn gái đồng sự của y, mở ra cái trường học ngoại ô này. Nhưng trường dạy được hai khóa thì y đỗ kì thi vào công sở, được bổ đi làm ở một tỉnh xa. Y mướn Thứ thay y làm hiệu trưởng và dạy mấy lớp trên. Y bảo Thứ: "Trường bây giờ còn ít học trò, tôi sẽ bảo Oanh đưa cho Thứ mỗi tháng vài chục bạc. Khi nào nhiều học trò hơn, chúng mình sẽ nói chuyện lại với nhau. Bọn mình liệu với nhau dễ lắm". Tuy chẳng hiểu dễ thế nào, Thứ cũng gật đầu ngay. Y không muốn nói nhiều chuyện tiền nong. Ngay đến không phải chỗ thân tình mà còn cò kè với nhau về một vấn đề tiền, y đã thấy ngượng ngùng rồi, huống hồ Đích với y là chỗ người nhà, lại là bạn học với nhau từ thủa còn thơ. Vả lại lúc bấy giờ y không để ý đến số lương. Thất nghiệp gần hai năm rồi, y đang cần chỗ làm. Y đang muốn có thể dùng sức mình vào một việc gì. Bởi vậy, suốt một năm đầu, y là một ông thầy rất tận tâm. Y soạn bài, giảng bài, chấm bài rất kỹ càng, bao nhiêu tâm lực, bao nhiêu thì giờ đều dùng cả cho nhà trường, cho lũ học trò. Hết niên học, số học trò đỗ bằng tốt nghiệp, so với những năm trước, tăng vọt hẳn lên. Bắt đầu từ khóa học sau, danh số những học trò xin vào học gấp đôi. Oanh hài lòng lắm. Thứ cũng hài lòng lắm.
Nhưng sự hài lòng của Thứ không bền. Chẳng bao lâu, y nhận ra rằng số học trò tăng lên nhiều quá, chỉ khổ y. Y vất vả thêm. Mà số lương thì vẫn thế. Trong khi ấy, vợ y ở nhà quê lại đã sinh một đứa con. Bận rộn con thơ, cố nhiên là người đàn bà phải làm kém đi, tiêu lại tốn hơn, Thứ đã phải nghĩ nhiều đến tương lai. Sự lao lực và những nỗi lo khiến người y hóp hẳn đi. Nét mặt y, đôi mắt y, để nhiễm một vẻ gì mỏi mệt rồi. Y mỏi mệt cả đến tâm hồn, cả tính tình. Y không còn bồng bột, hăng hái như trước nữa. Những lúc thấy mình và vợ con mình khổ quá, y đã bắt đầu tự hỏi y: "Mình làm việc đến gần kiệt sức mà tình cảnh cũng không thể hơn thế này ư?". Một buổi sáng, trong lúc đánh răng, y bỗng tính ra rằng mỗi sáng, nguyên về hai lớp của y, người ta đã thu được tám mươi đồng. Y chỉ được một phần tư. Còn sáu mươi đồng nữa đâu? Tiền nhà, mười bảy đồng, tiền thằng ở, được sáu đồng thì nó còn làm đến trăm việc khác cho Oanh, chứ có riêng gì việc nhà trường đâu; tiền phấn viết bảng, độ vài đồng... Tất cả mọi thứ chi phí cho cả nhà trường, chỉ có thế thôi. Nguyên một số sáu mươi đồng kia, đã thừa được quá nửa rồi. Lại còn tiền thu ở bốn lớp kia. Thế thì Oanh không phải khó nhọc gì, không phải một trách nhiệm gì, cái trách nhiệm hiệu trưởng hoàn toàn Thứ phải đảm đương, mà được lợi về cái trường mỗi tháng trăm bạc. Sao lại vô lý thế?...
Một hồi còi khàn khàn vang lên. Tiếp theo là những tiếng bước chân bình bịch, những tiếng guốc khua rộn rã: phu nhà máy rượu bia chạy vào làm. Sáu rưỡi...
Thứ lại đứng cạnh y, nhìn vào trang sách y đang học. Đó là một quyển địa dư. Thứ rất dốt và rất ghét địa dư. Y nhìn xuống đường. Mấy đứa học trò nhà, toàn những em, những cháu Đích và Oanh, đùa nghịch với nhau, xô đẩy chạy ra đường, trông thấy y chúng lại chạy thụt vào. Tại sao như vậy? Hồi còn nhỏ, đi học, y rất sợ thầy. Bây giờ, y vẫn cố làm cho học trò y không sợ sệt y. Trong giờ học thì cố nhiên y cũng phải nghiêm trang. Nhưng ra khỏi lớp, y đối với chúng thân mật, dễ dãi, còn hơn một người anh đối với các em. Tại sao trước mặt y, chúng vẫn không thể đùa nghịch, tự nhiên như vậy?... "
Viết bài văn nghị luận xã hội
Quảng cáo
2 câu trả lời 16
Trong đoạn trích, tác giả đã khắc họa một cách sinh động hình ảnh của Thứ – một người thầy giáo, qua đó thể hiện niềm đam mê công việc của ông trong những ngày đầu và sự mệt mỏi, chán nản sau một thời gian dài gắn bó với nghề. Đoạn trích không chỉ phản ánh một góc nhìn về nghề dạy học mà còn mang đến những suy nghĩ sâu sắc về đam mê công việc, sự cống hiến, và nỗi khổ trong việc mưu sinh.
Trong những ngày đầu làm nghề, Thứ là một người thầy tận tâm, đầy nhiệt huyết. Câu chuyện mở đầu bằng hình ảnh Thứ chăm chú soạn bài, giảng bài, chấm bài, dù điều kiện công việc vất vả, lương thấp. Mặc dù công việc dạy học nặng nhọc, phải dạy nhiều lớp liên tiếp, Thứ vẫn không nề hà, vẫn dồn hết tâm sức vào công việc. Đây là hình ảnh điển hình của một người có đam mê với nghề, luôn mong muốn học trò đạt được kết quả tốt nhất. Sự tận tụy của Thứ không chỉ vì trách nhiệm mà còn xuất phát từ niềm đam mê nghề nghiệp, từ ước muốn được cống hiến cho thế hệ trẻ, cho sự nghiệp giáo dục.
Trong giai đoạn này, Thứ cảm thấy sự hạnh phúc từ công việc, bởi số học trò đỗ bằng tốt nghiệp tăng lên, và danh số học sinh xin vào học cũng tăng vọt. Thành quả này khiến Thứ cảm thấy tự hào về công sức của mình, đó chính là niềm vui của những người làm nghề dạy học, khi thấy được học trò thành công nhờ vào sự chỉ bảo của mình.
Tuy nhiên, niềm đam mê công việc của Thứ dần bị thử thách khi ông nhận ra sự lao lực và mệt mỏi trong công việc. Mặc dù số học trò đông hơn, nhưng Thứ phải làm việc nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu giảng dạy, và lương thì không thay đổi. Công việc trở nên quá tải, với những buổi dạy kéo dài, việc chấm bài chiếm hầu hết thời gian ngoài lớp học, khiến ông không có thời gian cho bản thân và gia đình. Thêm vào đó, việc phải lo cho vợ con, chăm sóc gia đình trong điều kiện kinh tế khó khăn khiến Thứ càng thêm mệt mỏi.
Đoạn trích khắc họa rõ sự chuyển biến trong suy nghĩ của Thứ. Ông bắt đầu tự hỏi về giá trị của công sức mình bỏ ra, khi mà mức lương không tương xứng với công sức lao động, khi mà nỗi vất vả không mang lại sự cải thiện cho cuộc sống. Thứ cảm thấy công việc trở nên nặng nề, và niềm đam mê nghề nghiệp dần bị thay thế bằng sự mệt mỏi, chán nản. Những giây phút hạnh phúc ban đầu nay trở nên xa vời, thay vào đó là cảm giác bất mãn và thất vọng với nghề.
Đoạn trích không chỉ là câu chuyện về một người thầy, mà còn là sự phản ánh những vấn đề mà người lao động nói chung phải đối mặt, đặc biệt là những người làm công việc đòi hỏi cống hiến và sức lực như nghề dạy học. Niềm đam mê công việc rất quan trọng, nhưng nó không thể tồn tại mãi khi người ta không nhận được sự công nhận xứng đáng về mặt vật chất và tinh thần. Khi công sức không được đền đáp đúng mức, khi sự cống hiến không mang lại sự thay đổi tích cực, thì đam mê cũng dễ dàng bị thay thế bởi sự mệt mỏi, căng thẳng.
Ngoài ra, câu chuyện cũng cho thấy tầm quan trọng của việc cân bằng giữa công việc và cuộc sống cá nhân. Sự lao động quá sức, thiếu sự chăm sóc cho bản thân và gia đình sẽ dẫn đến sự suy giảm về tinh thần, khiến con người trở nên kiệt quệ, không còn sức sống và nhiệt huyết. Đam mê công việc chỉ thực sự bền vững khi nó được duy trì trong một môi trường công bằng, có sự hỗ trợ và đền đáp xứng đáng.
Niềm đam mê công việc là yếu tố quan trọng giúp con người đạt được thành công, nhưng điều quan trọng không kém là sự công nhận và đền đáp xứng đáng cho những nỗ lực đó. Đoạn trích "Trầu cậu bé" của tác giả đã khắc họa rõ nét sự mệt mỏi và sự thay đổi trong tâm lý của người thầy, từ đó nhấn mạnh một thông điệp sâu sắc về nghề nghiệp, về công sức lao động và giá trị đền đáp trong cuộc sống.
### Nghị luận xã hội về niềm đam mê công việc qua đoạn trích
Đoạn trích kể về cuộc sống và công việc của một người thầy giáo, tên Thứ. Qua những miêu tả chi tiết về công việc hàng ngày và những cảm xúc của Thứ, chúng ta có thể thấy rõ niềm đam mê và tình yêu nghề nghiệp đã đem lại cho anh niềm vui và thách thức như thế nào.
#### Niềm đam mê công việc - Động lực thúc đẩy phát triển
Niềm đam mê công việc không chỉ là một phần của động lực cá nhân mà còn là yếu tố quan trọng trong sự phát triển của mỗi người. Khi một người có niềm đam mê với công việc, họ thường cống hiến hết mình, nỗ lực không ngừng và luôn tìm kiếm những cách thức mới để hoàn thiện bản thân và công việc của mình. Đoạn trích cho thấy Thứ đã bắt đầu công việc với tinh thần hăng hái, tận tâm, và sự cẩn thận tỉ mỉ. Điều này giúp anh đạt được những thành công ban đầu trong việc dạy học, tạo nên niềm vui và sự hài lòng.
#### Thách thức của đam mê công việc
Tuy nhiên, không phải lúc nào đam mê công việc cũng mang lại niềm vui và sự thỏa mãn. Đôi khi, nó còn đi kèm với những thách thức lớn. Thứ nhận ra rằng công việc giảng dạy của mình ngày càng trở nên nặng nề hơn với thời gian dài và áp lực lớn, trong khi mức lương không xứng đáng với công sức bỏ ra. Điều này dẫn đến sự mệt mỏi về cả thể xác và tinh thần, khiến niềm đam mê của anh dần dần phai nhạt.
#### Sự cống hiến và thực tế cuộc sống
Công việc không chỉ đòi hỏi sự cống hiến, mà còn cần sự cân nhắc giữa đam mê và thực tế cuộc sống. Thứ đã từng rất tận tụy với công việc, dành hết thời gian và tâm lực cho học trò và nhà trường. Nhưng khi nhận thấy rằng sự cống hiến của mình không mang lại kết quả tương xứng, và còn ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, anh đã phải đối diện với những suy nghĩ thực tế hơn về giá trị của công việc và sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống cá nhân.
#### Ý nghĩa của niềm đam mê công việc
Đam mê công việc có thể là nguồn cảm hứng và động lực mạnh mẽ, giúp mỗi người vượt qua khó khăn và thách thức. Tuy nhiên, đam mê cũng cần được điều chỉnh và cân bằng để tránh sự kiệt sức và mất đi niềm vui trong cuộc sống. Đoạn trích về Thứ là một minh chứng rõ ràng cho việc niềm đam mê công việc cần đi đôi với sự tỉnh táo và sự nhận thức đúng đắn về giá trị của bản thân và cuộc sống xung quanh.
### Kết luận
Niềm đam mê công việc là một yếu tố quan trọng giúp mỗi người phát triển và hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, để duy trì và phát huy đam mê, chúng ta cần cân nhắc giữa công việc và thực tế cuộc sống, tạo ra sự cân bằng để tránh sự kiệt sức và bảo vệ sức khỏe tinh thần. Điều này sẽ giúp chúng ta không chỉ đạt được thành công trong công việc mà còn có được cuộc sống hạnh phúc và viên mãn.
Nếu bạn có thêm câu hỏi hoặc muốn thảo luận thêm về chủ đề này, hãy cho mình biết nhé! 😊📚✨
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
52861
-
1 7416
-
7077
-
3541
-
2080
-
2008