Viết bài văn phân tích , đánh giá nhân vật Dần trong đoạn trích trên ( tác phẩm một đám cưới , nhà văn Nam Cao)
Xế chiều hôm ấy, bà mẹ chồng và chồng Dần đến. Cả hai cùng mặc quần áo cánh. Bà mẹ khoác một cái áo nâu dài đã bạc ở trên vai. Chú rể xách một chẽ cau, chừng một chục quả. Vào đến nhà, y lúng túng không biết đặt đâu. Bà mẹ trông thấy bảo Dần:
- Cho bu mượn cái đĩa đi, con!
Mặt Dần đã đỏ bừng. Hai đứa em nó, trông thấy, cười rúc rích. Nó lợi dụng câu sai của mẹ chồng, để chạy tót ra chái đứng. Một lúc lâu nó cũng không vào. Thầy nó phải đỡ lấy chẽ cau ở tay bà mẹ chồng, đặt lên giường thờ mẹ nó. Rồi thầy nó nói thật to:
- Đi nấu nước đi con!
Không thấy con gái thưa, ông phải bảo thằng con trai lớn:
- Chạy ra bảo chị đun ấm nước.
Rồi ông thân hành đi lấy chìa vôi ra để têm trầu. Bà mẹ chồng có lời ngay:
Thôi thì bây giờ mọi sự ông đã thương cho cháu cả rồi, hôm nay tiện được ngày, tôi cũng biện cơi trầu đến kêu với ông để ông cho cháu được lễ các cụ… rồi xin phép ông để chúng tôi đưa cháu về nhà làm ăn.
Đáp lại bao nhiêu lời bóng bẩy, xa xôi ấy, ông bố vợ chỉ trả lời gọn thon lỏn một câu:
- Vâng! Mời bà cứ ngồi chơi thư thả xơi nước, xơi trầu đã.
Rồi ông lại cất cao giọng, bảo con:
- Hễ được nước thì bắc lên đây, con nhé!
Rồi ông ngồi lử thử. Bởi vì ông buồn lắm. Chỉ lát nữa là người ta rước Dần đi. Đêm hôm nay, chỉ còn mình ông với hai đứa trẻ con. Nhà sẽ vắng ngắt vắng ngơ, chẳng khác gì ngày vợ ông mới chết đi. Rồi chỉ mươi bữa, nửa tháng là ông phải bỏ nốt hai đứa con trai để ngược... Chao ôi! Buồn biết mấy?... Ông đờ đẫn cả người. Ông nghĩ bụng rằng: giá Dần không phải về nhà người ta, thì có lẽ chẳng đời nào ông phải lên rừng; ông cứ ở nhà với ba con, bố con đùm bọc lấy nhau, bây giờ bỏ lại hai đứa bé mà đi, ông thương chúng nó quá... Ông buồn quá. Ông đáp lại những câu rất dài dòng của bà thông gia bằng những câu ngắn ngủn [...]
Đến tối, đám cưới mới ra đi. Vẻn vẹn có sáu người, cả nhà gái nhà trai [...]
Dần không chịu mặc cái áo dài của bà mẹ chồng đưa, thành thử lại chính bà khoác cái áo ấy trên vai... Nó sụt sịt khóc, đi bên cạnh mẹ chồng. Chú rể dắt đứa em lớn của Dần. Còn thằng bé thì ông bố cõng. Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ...
Quảng cáo
1 câu trả lời 1201
Nam Cao được xem là một cây bút hiện thực sắc bén, tác phẩm của ông như tấm gương phản chiếu rõ nét cuộc sống và tâm hồn của những người nông dân bị bủa vây bởi đói nghèo. Trong số đó, nhân vật Dần trong truyện ngắn Một đám cưới đã bị cái đói, cái khổ tước đoạt gần như mọi niềm vui và hy vọng của cuộc đời.
Tác phẩm ra đời năm 1944, vào thời điểm nạn đói lịch sử đang cận kề, len lỏi vào từng ngõ ngách của đời sống con người. Những tháng ngày vốn đã khó khăn nay lại càng thêm khắc nghiệt, đẩy những số phận nghèo khổ vào cảnh khốn đốn, lay lắt bên bờ vực của sự sống.
Dần, cô bé mới 14-15 tuổi, nhưng đã sớm phải nếm trải mọi cay đắng của cuộc đời. Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo túng, tuổi thơ của Dần là chuỗi ngày dài bị đày đọa bởi cái đói. Vì muốn con có miếng ăn, mẹ cô đành gửi Dần đi làm thuê ở nhà giàu, nơi mà cô chỉ nhận lại những trận đòn roi và bữa cơm đắng nghẹn. Khi trở về nhà, Dần gầy guộc như que củi. Thương con nhưng bất lực, mẹ cô thậm chí phải đóng vai người nghiệt ngã, mắng nhiếc, xua đuổi để Dần được người ta bố thí vài đồng bạc lẻ. Cái nghèo đã bóp nghẹt tuổi thơ của Dần, khiến cô phải gánh chịu sự nhẫn nhục để sống sót. Đỉnh điểm của bi kịch là khi mẹ mất, gia đình không đủ tiền mai táng, bố Dần đành cắn răng gả con gái đi để trang trải nợ nần.
Cảnh đám cưới của Dần là minh chứng rõ rệt cho nỗi nghèo đeo bám. Không rộn ràng tiếng pháo, không tràn ngập sắc đỏ hay những lời chúc phúc, đám cưới của cô diễn ra trong lặng lẽ và u buồn. Nhà trai mãi đến xế chiều mới đến rước dâu – thời điểm mà người ta thường đã xong xuôi mọi nghi lễ. Sự chậm trễ không phải do thiếu thành ý, mà bởi họ cũng là những con người cùng cảnh nghèo, phải chật vật kiếm từng bữa ăn. Đám cưới đơn sơ chỉ có vài người thân, không pháo, không cỗ bàn, không sắc hỉ.
Dần không hề yêu thương hay mong đợi cuộc hôn nhân này. Cô tủi thân và kháng cự bằng cách không chịu mặc chiếc áo dài mẹ chồng đưa, dù đó là món đồ đẹp nhất dành cho cô trong ngày cưới. Hành động này như một biểu hiện phản kháng nhỏ nhoi trước số phận. Nhưng Dần không thể thay đổi điều gì. Cái nghèo đã buộc cô phải cam chịu. Gia đình cô đã nhận tiền sính lễ, và Dần – một người con gái nghèo khổ – trở thành một món hàng bị gả bán.
Trên đường về nhà chồng, Dần khóc. Tiếng khóc ấy không chỉ là nỗi buồn phải xa bố và các em, mà còn là sự tủi thân, hờn trách số phận. Cô tiếc nuối cuộc sống cũ, dù nghèo khó nhưng vẫn có tình thân. Cô lo lắng cho tương lai mù mịt phía trước, sợ rằng cuộc sống mới chẳng khác gì kiếp ở đợ trước đây. Khung cảnh đám cưới càng làm tăng thêm sự bi thương: cả đoàn người đi lầm lũi trong bóng tối và sương lạnh, chẳng khác nào một gia đình xẩm dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ qua đêm.
Bằng ngòi bút hiện thực xen lẫn cảm xúc trữ tình, Nam Cao đã khắc họa nhân vật Dần với tất cả nỗi thương cảm và xót xa. Số phận của cô là đại diện cho hàng nghìn phụ nữ trong xã hội xưa, những người bị bóp nghẹt bởi đói nghèo và những hủ tục lạc hậu. Nam Cao, với giọng văn chua chát và lạnh lùng khi miêu tả đám cưới, đồng thời ngấm ngầm bày tỏ sự thương cảm sâu sắc đối với nhân vật của mình.
Dần không chỉ là một cá nhân trong tác phẩm, mà còn là biểu tượng cho những kiếp người nghèo khổ, bị cuộc sống tước đoạt tất cả, kể cả quyền được yêu, được sống một cách trọn vẹn. Qua đó, Nam Cao đã gửi gắm thông điệp đầy nhân văn về sự bất công của xã hội, đồng thời khơi gợi lòng trắc ẩn và sự đồng cảm từ người đọc.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK72684
-
55999
-
Hỏi từ APP VIETJACK40661
-
Hỏi từ APP VIETJACK37616
