Đoạn trích thứ nhất:
- Con chạy ra vườn xem chị Gái làm cỏ, lúc nào chè chín bu gọi về mà ăn... chóng ngoan rồi bu thương.
Nhưng nó không nhúc nhích, mà nó còn nhúc nhích làm sao được: một nắm cơm nhỏ ăn từ sáng đã bị cái dạ dày chăm chỉ của con nhà nghèo tiêu hết đánh phèo một cái rồi, còn chi. Nó ngồi phịch xuống đất, gục đầu vào ngưỡng cửa, ngáp...
- Sắp chín chưa, bu?
Quay ra vẫn thấy con nằm phục đấy, mắt lờ đờ như chết lả, chị Chuột chép miệng:
- Thôi đây! Chín chả chín thì đừng, bắc mẹ nó ra cho chúng mày ăn không có chúng mày làm tội cũng chết. Chốc lại nheo nhéo, chốc lại nheo nhéo...
Chị vừa lẩm bẩm, vừa dập lửa rồi bắc cái nồi ở trên bếp xuống, lấy một cái vỏ trai múc vào mấy cái bát sành sứt mẻ tứ tung, đặt ngay trên mặt đất. Thằng cu Bé vội vàng lê xích lại gần, hai mắt lóng lánh đổ dồn cả vào mấy bát “chè” màu nâu đục, khói bốc lên nghi ngút. Mồm nó nuốt nước bọt ừng ực, mũi nó nở hẳn ra như để hít lấy hương vị của khói chè ngon ngọt. Chị đĩ Chuột phải đưa tay cản nó lại, sợ nó sà vào mà bị bỏng. Chị bảo nó:
- Còn nóng lắm, chưa ăn được. Con ra vườn gọi chị về cho chị ăn với không có phải tội chết, nó làm quần quật từ sáng tới giờ mà chưa được tí gì vào bụng.
Không đợi dến hai tiếng, chị Gái hớn hở chạy về, lôi thôi lếch thếch trong mấy mảnh giẻ rách tả tơi, vừa đến bếp nó đã reo lên:
- Sướng quá! Lại được ăn chè kia chứ! Có ngọt không bu? Bu lấy đâu được mật mà lại nấu chè thế?
Chị Chuột mắng yêu con:
- Úi chà! Tíu tít như con mẹ dại ấy! Tha hồ ăn đến chán chê, chỉ sợ không sao nuốt được thôi, con ạ.
Rồi chị bảo thằng cu Bé:
- Bé lại đây, bu cho ăn.
Thằng cu ngồi xổm bên mẹ, hấc mặt lên, há hốc mồm ra như con chim non đợi mẹ mớm mồi. Một miếng vào mồm, nó đã vội nuốt thỏm đi, khen “ngon quá”. Nhưng chưa kịp ăn miếng nữa, nó đã oẹ một cái, mũi đỏ lên, nước mắt ứa ra giàn giụa.
- Sao thế?
Nó chỉ hụ hị nhìn mẹ mà không nói, cũng không chịu há mồm ăn nữa. Cái Gái nhìn mẹ, xêu một miếng chè nữa ăn thử lại:
- Nhạt quá, bu ạ.
Chị Chuột mắng con:
- Làm gì có nhiều mật mà ngọt. Có mà ăn cho no bụng là phúc rồi.
Thằng cu chừng đói quá không chịu được, lại há mồm ra. Mẹ nó đút cho nó một xêu nhỏ nữa. Nó nhắm mắt, duỗi cổ, cố nuốt cho trôi. Nhưng cũng như lần trước, nó lại oẹ ra, và khóc oà lên. Chị đĩ Chuột lấy tay áo lau nước mắt không cầm nổi đã trào ra hai má hõm xanh bùng như người ngã nước. Cái Gái lấy ngón tay di một cục “chè”. Rồi bỗng nói to lên:
- À! Con biết rồi! Không phải chè, cám mà! Cám nâu mà bu bảo chè!
(Nghèo - Tuyển tập Nam Cao, NXB Hội nhà văn, 1993)
Đoạn trích thứ hai:
Không có ăn thì nhịn! Ninh nhịn từ bữa chiều hôm qua. Đật khóc, Ninh đi moi được một củ dong về nướng. Đật một nửa. Ninh một nửa. Ninh bảo Đật ăn cho đỡ đói thôi, còn cố nhịn, đợi thầy về, ăn nữa. Nhưng Đật không nhịn được. Đật chạy sang nhà bác Vụ. Bác ấy phải lấy trộm nắm cơm tối của thằng cu Chúc nhà bác ấy, đưa cho Đật, Đật mới ăn được một miếng thì Chúc biết. Chúc chạy vào nhà tìm nắm cơm của nó. Thấy mất, nó biết là nắm cơm của nó đương ở trong tay Đật. Nó chạy theo, giằng lại. Đật mất ăn, mếu xệch mồm đi, chạy về. Ninh đứng ở hè bên này, trông rõ cả. Ninh tức lắm. Chẳng biết tức Chúc hay tức Đật. Chỉ biết Ninh nghẹn ngào cả cổ. Vừa thấy Đật, Ninh nhảy xổ lại, tát đen đét vào má Đật. Đật òa lên khóc. Ninh òa khóc theo.
Một lát sau, Ninh nghĩ thương em quá, Ninh lại đi tìm dong, nhưng hết. Ninh moi luôn một củ ráy. Ráy nước, ăn ngứa lắm. Nhưng đói còn biết gì là ngứa? Ninh đem về nướng. Ninh gọi Đật về, lau nước mắt cho nó, rồi chị em ăn ráy nước. Đật ăn tợn lắm, chẳng thấy kêu ca gì cả. Ninh rơi nước mắt. Ninh dặn em: "Từ giờ đừng ăn cơm nhà thằng Chúc nữa". Đật gật đầu. Thế mà hôm nay nó lại lần sang nhà bác Vụ. Có bực mình hay không?
(Trích Từ ngày mẹ chết, In trong Tuyển tập Nam Cao, NXB Văn Học, 2002)
Quảng cáo
2 câu trả lời 2715
Hai đoạn trích trên là những lát cắt chân thực về cuộc sống đói nghèo, đau đớn của các nhân vật trong truyện Nam Cao. Mỗi đoạn đều tái hiện những hoàn cảnh khốn cùng, nơi đói nghèo bủa vây cuộc sống của những đứa trẻ ngây thơ và sự yêu thương xen lẫn bất lực của những người thân trong gia đình.
Trong đoạn trích đầu tiên, hình ảnh gia đình nhỏ của chị Chuột hiện lên một cách sống động. Cả gia đình chị đang khao khát một bữa ăn tử tế, chỉ là nồi "chè" cám – một thứ mà chỉ người nghèo đói, kiệt quệ mới phải dùng đến. Tình cảnh đói khát đến nỗi bé Cu Bé không chịu nổi, phải nằm gục xuống chờ bữa ăn, còn Gái, chị Chuột cố gắng làm việc nhưng cũng chỉ để có được chút "chè" cám. Tuy nhiên, chị vẫn giữ được lòng yêu thương con cháu khi sẵn lòng chia sẻ dù thứ đó chẳng ngon lành gì. Cảnh gia đình ăn "chè" cám đầy nhạt nhẽo mà phải cố nuốt vào bụng đã gợi lên sự nghẹn ngào, cảm giác cay đắng về đói nghèo khiến người đọc phải xúc động. Trong đoạn này, cách ứng xử của các nhân vật tập trung vào sự an ủi, đồng cam cộng khổ. Mặc dù đói khổ, họ vẫn dành sự quan tâm cho nhau, chị Chuột yêu thương nhắc nhở bé Cu gọi chị về ăn cùng, mặc cho món ăn chỉ là thứ cám bã không thể nuốt trôi.
Ngược lại, trong đoạn trích thứ hai, Nam Cao miêu tả mối quan hệ giữa chị em Ninh và Đật trong bối cảnh nghèo khó khác. Cảm giác đau đớn trước cái đói lấn át khiến Ninh – dù còn nhỏ nhưng cũng phải gánh vác trách nhiệm chăm sóc em. Ninh cố gắng nhịn đói để dành phần cho em Đật, thậm chí mắng Đật khi thấy em chạy sang nhà hàng xóm ăn cắp nắm cơm. Sự giằng xé trong lòng Ninh biểu hiện qua hành động giận dữ, nhưng đó lại là vì quá thương em mà bất lực không biết phải làm gì. Cuộc sống nghèo đói và cảnh thiếu ăn đã buộc Ninh phải nghiêm khắc, thậm chí tức giận với em để răn đe, tránh cho em bị người khác khinh rẻ, xa lánh. Trong cái khổ đau của đói nghèo, Ninh đã thể hiện một tình yêu thương mạnh mẽ bằng cách cố gắng kiềm chế, dù cho hành động có phần nghiêm khắc.
Điểm tương đồng giữa hai đoạn trích là cả hai đều bộc lộ nỗi đau của con người khi đối mặt với nghèo đói, nhưng điều đáng quý là những người nghèo vẫn luôn dành tình cảm, sự quan tâm cho nhau. Tuy vậy, cách thể hiện của từng nhân vật có khác biệt. Chị Chuột thể hiện sự chăm chút dịu dàng hơn, còn Ninh lại thể hiện sự chăm lo qua trách nhiệm và nghiêm khắc. Tình yêu thương của Ninh có phần cứng cỏi vì chị muốn dạy cho Đật không được phép ỷ lại vào người khác, ngay cả trong cơn đói khát.
Giá trị hiện thực của hai đoạn trích nằm ở chỗ chúng phản ánh một cách chân thật đời sống người nghèo trong xã hội xưa. Nghèo đói không chỉ là sự thiếu thốn vật chất mà còn là cuộc đấu tranh nội tâm để duy trì tình yêu thương và nhân phẩm. Ở gia đình chị Chuột, dù đói khát nhưng vẫn giữ được chút ấm áp của tình mẫu tử, sự quan tâm dù chỉ là qua bát “chè” cám. Còn Ninh và Đật, tuy phải chịu cảnh chia nhau củ ráy nước ngứa ngáy nhưng vẫn nương tựa vào nhau. Đó là hình ảnh của những người cùng khổ biết đùm bọc và che chở lẫn nhau trong cái đói.
Hai đoạn trích như hai bức tranh hiện thực miêu tả chân thực hoàn cảnh xã hội nghèo đói, nhưng đồng thời cho thấy bản chất tình thương, sự gắn kết và lòng tự trọng.
Hai đoạn trích trên là những lát cắt chân thực về cuộc sống đói nghèo, đau đớn của các nhân vật trong truyện Nam Cao. Mỗi đoạn đều tái hiện những hoàn cảnh khốn cùng, nơi đói nghèo bủa vây cuộc sống của những đứa trẻ ngây thơ và sự yêu thương xen lẫn bất lực của những người thân trong gia đình.
Trong đoạn trích đầu tiên, hình ảnh gia đình nhỏ của chị Chuột hiện lên một cách sống động. Cả gia đình chị đang khao khát một bữa ăn tử tế, chỉ là nồi "chè" cám – một thứ mà chỉ người nghèo đói, kiệt quệ mới phải dùng đến. Tình cảnh đói khát đến nỗi bé Cu Bé không chịu nổi, phải nằm gục xuống chờ bữa ăn, còn Gái, chị Chuột cố gắng làm việc nhưng cũng chỉ để có được chút "chè" cám. Tuy nhiên, chị vẫn giữ được lòng yêu thương con cháu khi sẵn lòng chia sẻ dù thứ đó chẳng ngon lành gì. Cảnh gia đình ăn "chè" cám đầy nhạt nhẽo mà phải cố nuốt vào bụng đã gợi lên sự nghẹn ngào, cảm giác cay đắng về đói nghèo khiến người đọc phải xúc động. Trong đoạn này, cách ứng xử của các nhân vật tập trung vào sự an ủi, đồng cam cộng khổ. Mặc dù đói khổ, họ vẫn dành sự quan tâm cho nhau, chị Chuột yêu thương nhắc nhở bé Cu gọi chị về ăn cùng, mặc cho món ăn chỉ là thứ cám bã không thể nuốt trôi.
Ngược lại, trong đoạn trích thứ hai, Nam Cao miêu tả mối quan hệ giữa chị em Ninh và Đật trong bối cảnh nghèo khó khác. Cảm giác đau đớn trước cái đói lấn át khiến Ninh – dù còn nhỏ nhưng cũng phải gánh vác trách nhiệm chăm sóc em. Ninh cố gắng nhịn đói để dành phần cho em Đật, thậm chí mắng Đật khi thấy em chạy sang nhà hàng xóm ăn cắp nắm cơm. Sự giằng xé trong lòng Ninh biểu hiện qua hành động giận dữ, nhưng đó lại là vì quá thương em mà bất lực không biết phải làm gì. Cuộc sống nghèo đói và cảnh thiếu ăn đã buộc Ninh phải nghiêm khắc, thậm chí tức giận với em để răn đe, tránh cho em bị người khác khinh rẻ, xa lánh. Trong cái khổ đau của đói nghèo, Ninh đã thể hiện một tình yêu thương mạnh mẽ bằng cách cố gắng kiềm chế, dù cho hành động có phần nghiêm khắc.
Điểm tương đồng giữa hai đoạn trích là cả hai đều bộc lộ nỗi đau của con người khi đối mặt với nghèo đói, nhưng điều đáng quý là những người nghèo vẫn luôn dành tình cảm, sự quan tâm cho nhau. Tuy vậy, cách thể hiện của từng nhân vật có khác biệt. Chị Chuột thể hiện sự chăm chút dịu dàng hơn, còn Ninh lại thể hiện sự chăm lo qua trách nhiệm và nghiêm khắc. Tình yêu thương của Ninh có phần cứng cỏi vì chị muốn dạy cho Đật không được phép ỷ lại vào người khác, ngay cả trong cơn đói khát.
Giá trị hiện thực của hai đoạn trích nằm ở chỗ chúng phản ánh một cách chân thật đời sống người nghèo trong xã hội xưa. Nghèo đói không chỉ là sự thiếu thốn vật chất mà còn là cuộc đấu tranh nội tâm để duy trì tình yêu thương và nhân phẩm. Ở gia đình chị Chuột, dù đói khát nhưng vẫn giữ được chút ấm áp của tình mẫu tử, sự quan tâm dù chỉ là qua bát “chè” cám. Còn Ninh và Đật, tuy phải chịu cảnh chia nhau củ ráy nước ngứa ngáy nhưng vẫn nương tựa vào nhau. Đó là hình ảnh của những người cùng khổ biết đùm bọc và che chở lẫn nhau trong cái đói.
Hai đoạn trích như hai bức tranh hiện thực miêu tả chân thực hoàn cảnh xã hội nghèo đói, nhưng đồng thời cho thấy bản chất tình thương, sự gắn kết và lòng tự trọng.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
34288
-
30119
-
Hỏi từ APP VIETJACK28428
