ĐỀ 02:
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
KHÔNG MỘT TIẾNG VANG
(trích)
Tóm tắt nội dung: Vở kịch tái hiện bối cảnh cuộc sống khốn cùng của người dân trước Cách mạng tháng Tám, dưới thời Pháp thuộc. Nhà ông lão mù trước kia vốn thuộc bậc trung lưu, đang sống trong yên ấm thì một trận hỏa hoạn xảy ra, khiến người vợ bị chết cháy, người chồng bị bỏng nặng, mù hai con mắt, gia đình rơi vào cảnh tán gia bại sản. Ông lão mù và vợ chồng người con trai phải mướn nhà của lão Thông Xạ để ở, kiếm ăn độ nhật qua ngày. Do thiếu tiền thuê nhà nên lão Thông Xạ năm lần bảy lượt đến đòi nợ và dọa sẽ đuổi cả nhà ra đường nếu không trả đủ tiền. Hôm ấy, lão Thông Xạ lại đến. Ông lão mù hẹn khi con dâu và con trai đi làm về sẽ gắng trả. Nhưng cô con dâu đi bán bánh trên tàu thì bị nhân viên soát vé đổ mất hàng, người con trai đi làm thì bị cai ăn chặn tiền lương. Nhà hết gạo, thuốc bệnh cho ông bố mù lòa cũng hết, ngày mai giỗ bà mẹ mà chưa biết lấy gì để cúng đơm. Lão Thông Xạ nhất quyết sẽ quay lại và không cho khất nợ thêm nữa. Cả gia đình rơi vào tình cảnh tuyệt vọng. Anh con trai phẫn uất làm càn, đi ăn trộm bị cảnh sát bắt. Ông lão mù tủi cực, nhân lúc cô con dâu đi ra ngoài, đã thắt cổ tự vẫn để không trở thành gánh nặng cho hai con. Cô con dâu trở về thấy cảnh tượng đó, ngã vật xuống đất, thái dương đập vào hòn đá mà ông bố dùng để chặn cửa, chết theo.
Đoạn trích dưới đây là một phần thuộc cảnh I, hồi thứ Hai của vở kịch.
***
HỒI THỨ HAI
Cảnh I.
Ông lão lòa, chị Cả Thuận, anh cả Thuận.
[…]
ÔNG LÃO: – Thế chốc nữa lão Thông Xạ nó quay xe lại thì biết nói thế nào với nó đây?… Thôi hai con nghe thầy, nên lánh mặt nó đi, cứ để thầy ở nhà một mình, thầy tìm cách khất khứa với nó, họa may nó thấy mù lòa, ốm yếu, nó có động lòng thương chăng…
CHỊ CẢ: – Lão ấy nó còn thương ai… Nếu nó có lòng thương người, nó đã chẳng xử với mình đến thế.
ÔNG LÃO: – Chả hơn cả ba bố con ngồi trơ ra đây mà tiền không có trả nó, để điên tiết lên nó thẳng tay quăng đồ đạc ra đường hoặc gọi đội xếp thưa bắt hai chúng mày về bóp thì có phải khổ cả không…
CHỊ CẢ: – Nào, thế cậu định ra sao đây?
ANH CẢ: – Định à?… Chỉ còn một sống một chết, muốn đằng nào thì muốn, chứ sống ngắc ngoải thì không nên sống. Bàn đến kế tránh mặt nó đi thì không xong rồi. Liệu có tránh được mãi không?… Dẫu nó không thưa để mình phải vào bóp mà chỉ vứt đồ ra đường, thì tôi cũng không còn bụng dạ nào làm ăn gì nữa… Ruột gan tôi có phải sắt đá đâu? Giời ơi, nghĩ đến vợ đang dắt bố già lang thang đầu đường xó chợ mà vẫn thản nhiên đi làm cho thằng khác ăn… có là con vật không thương yêu ai, dại như chó thì mới thế được. Mà đi làm về thì ăn vào đâu? Không được ăn mà vẫn đi làm à? Đây này: tôi bây giờ chán cả mọi sự rồi, đi làm tôi cũng không thiết nữa. Phải biết thời buổi này mới được. Tôi mà vô gia cư, tất không thoát tù tội. Vợ tôi mà vô gia cư, tất không thoát được lục sì (1). Ông mà vô gia cư, rồi người ta sẽ nhét ông vào bọn ăn mày ngoại ô… Sống ngắc ngoải thế này mà vẫn còn tưởng sống.
[…]
ÔNG LÃO: – Thôi, chẳng qua là mày uất ức nên nói quẫn thế, chứ bố con mình xưa nay ăn ở hiền hậu mà còn cứ vận hạn mãi thế này, nếu lại làm những việc trái đạo thì còn giời nào chứng cho nữa.
ANH CẢ: – (…) Ăn ở hiền hậu mà cứ vận hạn mãi… Đến thế mà còn tin được Giời, Phật nữa à? (thất vọng). (…) Giời Phật, có để làm gì, hở? Có phải chỉ để làm bù nhìn mặc cho loài người chúng nó ăn thịt nhau, thằng nào xỏ lá, bất nhân, lắm ngón xoay tiền thì được vợ đẹp, con khôn, lên xe xuống ngựa; còn người hiền lành thật thà thì bị lợi dụng, bị đè nén, bị hắt hủi, kiếm chẳng đủ áo mặc cơm ăn có phải không? Có Giời, có Phật mà đến thế à? Không có Giời, Phật nào cả. Hoặc có Giời, có Phật nhưng Giời, Phật không đủ quyền phép thiêng liêng, không công minh, không đáng cho ai kính thờ!… Bây giờ ấy à? Chỉ có đồng tiền là Giời, là Phật, chỉ có đồng tiền là đáng kính thờ vì nó sai khiến được mọi người, ai ai cũng phải kính thờ nó mới sống được. Lương tâm à? Còn thua đồng tiền! Luật pháp à? Chưa bằng đồng tiền! Giời Phật à? Còn kém đồng tiền!…
Ông lão đang bị bệnh, lại đói, nghe con nói thế bỗng lả người đi như muốn ngã, nước dãi ở miệng chảy ra ròng ròng. Cả Thuận đỡ bố, nhăn nhó.
ÔNG LÃO: (không nói được nữa, chỉ kêu): Ôi giời ơi! Để tôi chết đi cho rảnh! Cho tôi chết đi!…
CHỊ CẢ: (tất tả vào bếp, xách ra một chiếc chậu thau) – Cậu cứ ở nhà với thầy, tôi đi đằng này một lát.
ANH CẢ: – Định xách chậu đi đâu thế?
CHỊ CẢ: – Để lại cho bác phó. Hôm nọ sang chơi, bác ta có ý muốn mua lại, bây giờ tôi đem sang lấy vài hào về mua bát cháo với lọ dầu cho thầy. Thầy bảo cồn ruột chắc chỉ vì đói quá (tất tả ra đi).
ANH CẢ: – Này, gượm!… Người ta bảo đã mà lại. Lúc nãy tôi tạt chơi bên ấy rồi. Hiện bây giờ thằng bé con đang lên sởi, hai vợ chồng chạy thuốc đã méo mặt cả, mua bán gì? Chính tôi cũng còn nợ người ta năm hào mà chưa trả được, lúc nãy vào khất đấy…
CHỊ CẢ: (thất vọng đờ đẫn cả người, ra ngồi đắp chiếu cho bố).
ÔNG LÃO: (nằm trong chiếu, vẫn quằn quại kêu rên) – Ôi giời đất ơi, ôi giời đất ơi!
ANH CẢ: (ứa nước mắt, vùng đứng lên rảo bước ra đến cửa, dừng chân ngẫm nghĩ một lát, quay lại nhìn ông bố, rồi đẩy tung cửa ra đi).
CHỊ CẢ: (đang gục mặt, ngẩng lên nhìn rồi hốt hoảng, vùng dậy chạy theo) – Giời ơi!… Cậu lại định đi đâu…Cậu! Cậu…Giời ơi, thầy ơi thầy, rõ khổ chưa!…
ÔNG LÃO: (tung đống chiếu ra, lật đật ngồi lên gọi) – Ới cả!… Ới Thuận!!! (vùng lên chạy ba bước, rồi lả người đi) con mau chạy theo gọi nó lại cho thầy (ngã gục xuống đất).
CHỊ CẢ: (nửa muốn chạy đi gọi chồng, nửa muốn lại nâng bố lên, luống cuống, sau cùng thì quay lại đỡ bố) – Thầy ơi, thầy ngã có đau không? Rõ khổ!
ÔNG LÃO: (khặc khừ, lắc đầu, lả đi)
CHỊ CẢ: (tay run lẩy bẩy, hết sức dìu bố, dẫn lại chỗ chõng tre, để cho ông lão ngồi được yên rồi lả xuống cạnh đấy bất tỉnh nhân sự).
(Trích cảnh 1, hồi II, vở bi kịch nhân sinh Không một tiếng vang, Vũ Trọng Phụng,
in trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, Tr.358-364)
*Chú thích:
(1) lục sì: ý chỉ gái điếm, thiếu đứng đắn.
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 (0,5 điểm). Xác định các nhân vật và chỉ ra nhân vật chính trong đoạn trích trên.
Câu 2 (1,5 điểm). Tóm tắt ngắn gọn nội dung đoạn trích trong khoảng 8-10 câu.
Câu 3 (1,0 điểm). Chỉ ra và phân tích xung đột kịch giữa nhân vật Ông Lão và Cả Thuận trong đoạn trích.
Câu 4 (1,5 điểm). Nhận xét về thái độ của nhân vật Cả Thuận qua câu thoại sau:
“Lương tâm à? Còn thua đồng tiền! Luật pháp à? Chưa bằng đồng tiền! Giời Phật à? Còn kém đồng tiền”
Câu 5 (1,5 điểm). Phân tích hình tượng nhân vật Cả Thuận trong đoạn trích trên. (Trình bày trong khoảng ½ trang giấy thi)
PHẦN II. VIẾT (4,0 điểm)
Vào thời khắc ta chấp nhận có trách nhiệm với hành động mình làm, ta chính thức trưởng thành.
Hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh chị về sống có trách nhiệm.
giúp mình làm bài này với
Quảng cáo
1 câu trả lời 11129
### PHẦN I: ĐỌC HIỂU
#### Câu 1 (0,5 điểm)
Xác định các nhân vật và chỉ ra nhân vật chính trong đoạn trích trên.
- Các nhân vật trong đoạn trích: Ông lão lòa, Chị Cả Thuận, Anh Cả Thuận.
- Nhân vật chính: Ông lão lòa và Anh Cả Thuận.
#### Câu 2 (1,5 điểm)
Tóm tắt ngắn gọn nội dung đoạn trích trong khoảng 8-10 câu.
Đoạn trích diễn tả cuộc sống khốn khổ của gia đình ông lão mù gồm ông lão, chị Cả Thuận và anh Cả Thuận. Họ đang lo lắng vì không có tiền trả tiền thuê nhà cho lão Thông Xạ. Ông lão mù đề nghị hai con lánh mặt để ông cố khất nợ, nhưng chị Cả Thuận và anh Cả Thuận đều thấy điều đó không khả thi. Anh Cả Thuận bức xúc trước tình cảnh bất công, oán trách trời Phật và cho rằng đồng tiền là thứ quyền lực nhất. Ông lão mù yếu dần đi vì đói và bệnh tật. Chị Cả Thuận cố gắng bán chậu thau để kiếm tiền mua cháo cho cha nhưng không thành. Cuối cùng, anh Cả Thuận rời nhà trong tuyệt vọng, để lại chị Cả Thuận bất lực, và ông lão mù ngã gục vì kiệt sức.
#### Câu 3 (1,0 điểm)
Chỉ ra và phân tích xung đột kịch giữa nhân vật Ông Lão và Cả Thuận trong đoạn trích.
- Xung đột kịch giữa ông lão và anh Cả Thuận xuất phát từ sự bất lực và tuyệt vọng trước tình cảnh gia đình.
- Ông lão: Tin vào sự hiền hậu, khuyên con tránh làm việc trái đạo, vẫn nuôi hi vọng về sự thương cảm từ người khác.
- Anh Cả Thuận: Tuyệt vọng, không còn tin vào Giời Phật, cho rằng đồng tiền mới là thứ đáng kính trọng và có quyền lực thực sự.
- Xung đột này thể hiện sự đối lập giữa thế hệ cũ và thế hệ trẻ trong cách nhìn nhận về đạo đức và cuộc sống, đồng thời khắc họa sâu sắc hơn tình cảnh bế tắc của gia đình.
#### Câu 4 (1,5 điểm)
Nhận xét về thái độ của nhân vật Cả Thuận qua câu thoại sau:
“Lương tâm à? Còn thua đồng tiền! Luật pháp à? Chưa bằng đồng tiền! Giời Phật à? Còn kém đồng tiền”
- Thái độ của anh Cả Thuận là sự cay đắng và tuyệt vọng. Anh cảm thấy mọi giá trị đạo đức, lương tâm, luật pháp và cả niềm tin tôn giáo đều trở nên vô nghĩa khi đối diện với quyền lực của đồng tiền.
- Câu thoại thể hiện sự bất mãn sâu sắc với xã hội bất công, nơi đồng tiền chi phối tất cả. Đây là biểu hiện của một người bị dồn vào đường cùng, mất niềm tin vào mọi thứ ngoài vật chất.
#### Câu 5 (1,5 điểm)
Phân tích hình tượng nhân vật Cả Thuận trong đoạn trích trên. (Trình bày trong khoảng ½ trang giấy thi)
Anh Cả Thuận trong đoạn trích được xây dựng là một nhân vật đầy sự phẫn uất và tuyệt vọng. Anh là người con trai đang phải chịu đựng áp lực từ cảnh nghèo đói, không có tiền trả nợ thuê nhà, và cảm thấy bất lực trước tình cảnh khốn cùng của gia đình. Những lời thoại của anh thể hiện sự mệt mỏi, chán nản và đặc biệt là sự mất niềm tin vào đạo đức và tôn giáo. Anh cảm thấy rằng trong xã hội này, chỉ có đồng tiền mới có sức mạnh thực sự, còn lương tâm, luật pháp, Giời Phật đều trở nên vô nghĩa. Điều này phản ánh sự bất công, xã hội đen tối dưới thời Pháp thuộc. Cả Thuận là biểu tượng cho sự bế tắc của con người trước nghịch cảnh, và sự vùng vẫy trong tuyệt vọng khi không còn lối thoát nào khác.
### PHẦN II: VIẾT (4,0 điểm)
#### Bài văn nghị luận: Suy nghĩ về sống có trách nhiệm
**Vào thời khắc ta chấp nhận có trách nhiệm với hành động mình làm, ta chính thức trưởng thành.**
Trách nhiệm là một khía cạnh quan trọng trong cuộc sống, quyết định sự trưởng thành và đáng tin cậy của mỗi cá nhân. Khi một người ý thức và chấp nhận trách nhiệm với hành động của mình, họ không chỉ hoàn thiện bản thân mà còn đóng góp tích cực cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
**Sống có trách nhiệm** bắt đầu từ những việc nhỏ nhất trong cuộc sống hàng ngày. Trách nhiệm với bản thân là biết chăm sóc sức khỏe, học tập, và làm việc nghiêm túc. Điều này tạo nên nền tảng vững chắc để chúng ta phát triển các phẩm chất tốt đẹp khác như kỷ luật, kiên nhẫn và tự lập. Khi ta biết chịu trách nhiệm về bản thân, ta không chỉ đạt được sự tự tin mà còn tạo dựng được lòng tin từ người khác.
Trong gia đình, trách nhiệm thể hiện qua việc tôn trọng và hỗ trợ các thành viên, góp phần xây dựng một môi trường sống hài hòa và yêu thương. Những hành động nhỏ như giúp đỡ cha mẹ, chia sẻ công việc nhà, chăm sóc anh chị em đều là biểu hiện của tinh thần trách nhiệm. Khi mỗi người trong gia đình biết sống có trách nhiệm, gia đình sẽ trở thành nơi an lành, tràn đầy yêu thương và sự hỗ trợ.
Trong công việc và học tập, trách nhiệm giúp ta hoàn thành nhiệm vụ đúng hạn và đạt chất lượng cao. Điều này không chỉ tạo ra thành công cá nhân mà còn góp phần vào sự phát triển chung của tập thể. Một người sống có trách nhiệm sẽ luôn là người đồng nghiệp đáng tin cậy, học sinh gương mẫu và là một công dân tốt.
Sống có trách nhiệm còn là cách chúng ta đối diện với sai lầm và học hỏi từ chúng. Không ai hoàn hảo, và ai cũng có thể phạm sai lầm. Điều quan trọng là biết nhận lỗi, sửa sai và không đổ lỗi cho người khác. Khi chấp nhận trách nhiệm về những gì đã xảy ra, ta không chỉ trưởng thành hơn mà còn nhận được sự tôn trọng từ người xung quanh.
Hơn nữa, trách nhiệm còn bao gồm trách nhiệm xã hội, đóng góp vào cộng đồng và xã hội. Đây có thể là những hành động nhỏ như không xả rác bừa bãi, tham gia các hoạt động từ thiện, hoặc lớn hơn là dấn thân vào các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường. Mỗi hành động có trách nhiệm đều góp phần làm cho xã hội trở nên tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên, sống có trách nhiệm không phải là điều dễ dàng. Nó đòi hỏi sự kiên định, lòng dũng cảm và sự sẵn lòng đối mặt với khó khăn. Nhưng chính những thách thức này giúp chúng ta trưởng thành, trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình.
**Tóm lại**, sống có trách nhiệm là nền tảng của sự trưởng thành và thành công. Khi chúng ta chấp nhận trách nhiệm với hành động của mình, chúng ta không chỉ hoàn thiện bản thân mà còn tạo dựng được một cuộc sống ý nghĩa và đóng góp tích cực cho xã hội. Trách nhiệm là kim chỉ nam dẫn đường cho mỗi người, giúp chúng ta vượt qua khó khăn và đạt được những mục tiêu cao cả trong cuộc sống.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
5486
-
3887
-
2999
-
2772
-
1998
