Quảng cáo
4 câu trả lời 15773
Mạng xã hội là kênh giao tiếp tự do của mọi người:
Sự Tự Do Biểu Đạt: Mạng xã hội cung cấp một nền tảng cho mọi người biểu đạt ý kiến, suy nghĩ và cảm xúc của mình một cách tự do, mà không cần sự kiểm duyệt hay kiểm soát từ các cơ quan truyền thông chính thống.
Sự Phân Quyền Thông Tin: Mạng xã hội cho phép mọi người truy cập vào thông tin và tin tức từ nhiều nguồn khác nhau, không chỉ từ các cơ quan truyền thông truyền thống mà còn từ cộng đồng người dùng. Điều này tạo ra một sự đa dạng thông tin và giúp người dùng tự do lựa chọn và đánh giá thông tin một cách tự do.
Tương Tác Xã Hội: Mạng xã hội tạo ra cơ hội cho mọi người kết nối và tương tác với nhau trên phạm vi rộng lớn, không bị ràng buộc bởi vị trí địa lý hay thời gian. Điều này thúc đẩy sự giao tiếp tự do và trao đổi ý kiến giữa các cá nhân từ nhiều nền văn hóa và quốc gia khác nhau.
Mạng xã hội không phải là kênh giao tiếp tự do của mọi người:
Kiểm Duyệt và Kiểm Soát: Các nền tảng mạng xã hội thường áp đặt các quy tắc và hạn chế về nội dung được đăng tải, đôi khi dẫn đến việc kiểm soát ý kiến và thông tin. Các thuật toán cũng có thể ưu tiên hiển thị nội dung dựa trên sở thích của người dùng, tạo ra hiện tượng bóc lột thông tin và tăng cường sự đồng thuận.
Rủi Ro Bảo Mật: Thông tin cá nhân và dữ liệu trên mạng xã hội có thể bị lộ ra ngoài một cách dễ dàng, đặt ra nguy cơ về quyền riêng tư và an ninh thông tin của người dùng.
Nguy Cơ Lan Truyền Tin Sai: Mạng xã hội có thể trở thành nơi lan truyền thông tin sai lệch và tin đồn một cách nhanh chóng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quan điểm và quyết định của công chúng.
Kết luận:
Dù mạng xã hội mang lại nhiều cơ hội cho sự giao tiếp tự do và trao đổi ý kiến, nhưng cũng tồn tại nhiều rủi ro và hạn chế. Việc đánh giá mức độ tự do trên mạng xã hội phụ thuộc vào cách mà chúng ta quản lý và sử dụng nền tảng này, cũng như các biện pháp kiểm soát và quy định từ phía các tổ chức và chính phủ.
Mạng xã hội là kênh giao tiếp tự do của mọi người:
Sự Tự Do Biểu Đạt: Mạng xã hội cung cấp một nền tảng cho mọi người biểu đạt ý kiến, suy nghĩ và cảm xúc của mình một cách tự do, mà không cần sự kiểm duyệt hay kiểm soát từ các cơ quan truyền thông chính thống.
Sự Phân Quyền Thông Tin: Mạng xã hội cho phép mọi người truy cập vào thông tin và tin tức từ nhiều nguồn khác nhau, không chỉ từ các cơ quan truyền thông truyền thống mà còn từ cộng đồng người dùng. Điều này tạo ra một sự đa dạng thông tin và giúp người dùng tự do lựa chọn và đánh giá thông tin một cách tự do.
Tương Tác Xã Hội: Mạng xã hội tạo ra cơ hội cho mọi người kết nối và tương tác với nhau trên phạm vi rộng lớn, không bị ràng buộc bởi vị trí địa lý hay thời gian. Điều này thúc đẩy sự giao tiếp tự do và trao đổi ý kiến giữa các cá nhân từ nhiều nền văn hóa và quốc gia khác nhau.
Mạng xã hội không phải là kênh giao tiếp tự do của mọi người:
Kiểm Duyệt và Kiểm Soát: Các nền tảng mạng xã hội thường áp đặt các quy tắc và hạn chế về nội dung được đăng tải, đôi khi dẫn đến việc kiểm soát ý kiến và thông tin. Các thuật toán cũng có thể ưu tiên hiển thị nội dung dựa trên sở thích của người dùng, tạo ra hiện tượng bóc lột thông tin và tăng cường sự đồng thuận.
Rủi Ro Bảo Mật: Thông tin cá nhân và dữ liệu trên mạng xã hội có thể bị lộ ra ngoài một cách dễ dàng, đặt ra nguy cơ về quyền riêng tư và an ninh thông tin của người dùng.
Nguy Cơ Lan Truyền Tin Sai: Mạng xã hội có thể trở thành nơi lan truyền thông tin sai lệch và tin đồn một cách nhanh chóng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quan điểm và quyết định của công chúng.
Kết luận:
Dù mạng xã hội mang lại nhiều cơ hội cho sự giao tiếp tự do và trao đổi ý kiến, nhưng cũng tồn tại nhiều rủi ro và hạn chế. Việc đánh giá mức độ tự do trên mạng xã hội phụ thuộc vào cách mà chúng ta quản lý và sử dụng nền tảng này, cũng như các biện pháp kiểm soát và quy định từ phía các tổ chức và chính phủ.
- Ngày 17/6/2021, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định số 874/QĐ-BTTTT về việc ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội. Bộ Quy tắc này có 3 chương và 9 điều, nêu những vấn đề khái quát về mục đích, đối tượng, phạm vi, nội dung của bộ quy tắc ứng xử, trong đó nêu rõ Quy tắc ứng xử chung, Quy tắc ứng xử cho tổ chức, cá nhân, Quy tắc ứng xử cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước, Quy tắc ứng xử cho các cơ quan nhà nước, Quy tắc ứng xử cho các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội. Tuy có một số ý kiến nhận xét khá lệch lạc về Bộ Quy tắc này nhưng trên thực tế, đây sẽ là định hướng cần thiết để người sử dụng mạng xã hội có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình một cách văn minh, lành mạnh, tiến bộ.
Một số trong những nhận xét phiến diện đáng chú ý về Bộ Quy tắc này là có người lo ngại về vấn đề tự do. Họ cho rằng các quy tắc sẽ giới hạn hoặc thu hẹp quyền tự do nói chung của cá nhân, nhất là quyền tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin… Thực ra, quyền tự do ngôn luận đã được quy định ở Điều 25 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Điều 25 nêu rõ 2 vế: thứ nhất, công dân có quyền tự do; thứ hai, quyền tự do đó do pháp luật quy định và đương nhiên phù phù hợp với các luật khác. Đối với mạng xã hội, các cá nhân có quyền tự do sử dụng hay không sử dụng và việc sử dụng như thế nào phải phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan. Tức là, không phải vì là trang cá nhân của mình thì chủ sở hữu có quyền đăng bất kể nội dung gì.
Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam đã định nghĩa “tự do” như sau: “1. Phạm trù triết học chỉ khả năng biểu hiện ý chí, làm theo ý muốn con người, trên cơ sở nhận thức được quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. 2. Trạng thái một dân tộc, một xã hội và các thành viên không bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong các hoạt động xã hội - chính trị như dưới các chế độ thực dân, chuyên chế, độc tài: đấu tranh cho độc lập tự do của dân tộc, các quyền tự do dân chủ”.
Khi đề cập tự do, chúng ta sẽ nghĩ ngay đến “tự do cá nhân”, là một bộ phận trong phạm vi tự do chung mà xã hội đạt được ở mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể; mức tự do cá nhân phụ thuộc vào tính chất của chế độ xã hội - chính trị ở từng thời kỳ tiến hóa và phát triển cụ thể. Cách mạng tư sản coi tự do là quyền tự nhiên của con người; nhưng trên thực tế, quyền đó được thực hiện đâu còn nhiều điều đáng bàn. Những nhà lý luận xã hội chủ nghĩa cho rằng tự do cá nhân thực sự chỉ có thể có trong một chế độ xã hội đã thủ tiêu quan hệ đối kháng giữa người với người. Tuyên ngôn của đảng cộng sản do Marx và Engels khởi thảo cho rằng “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Trong xã hội ấy, mỗi cá nhân tự đề ra cho mình những mục đích phù hợp với lợi ích của tất cả các thành viên khác trong xã hội; mỗi cá nhân đã tùy theo năng lực và trình độ tri thức của mình mà có phần của mình trong phạm vi tự do chung mà toàn xã hội đạt được…
Điều này có nghĩa rằng, mỗi cá nhân có quyền tự do nhưng phải phù hợp với thực tiễn của cộng đồng và xã hội, tức là phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, tập quán, lối sống, tôn giáo, trình độ… Do đó, tự do là phạm trù mang tính lịch sử cụ thể, tức là ở mỗi không gian và thời gian khác nhau thì nhận thức và cách thực hiện các quyền tự do không giống nhau.
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
84494 -
Hỏi từ APP VIETJACK72851
-
56162
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
45723 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
40710 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
38029 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
36852 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
31883
