Quảng cáo
2 câu trả lời 249
Luật sư hướng dẫn:
1. Tổng quan về Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là tổng thể các cơ quan, tổ chức nhà nước, đảng phái, đoàn thể xã hội, nói chung là các lực lượng tham gia, và mối quan hệ giữa các lực lượng đó, chỉ phối sự tồn tại và phát triển đời sống chính trị của một quốc gia, thể hiện bản chất của chế độ chính trị của quốc gia, con đường phát triển của xã hội.
Để làm rõ tính chất, quy mô tham gia đời sống chính trị của các cơ quan, tổ chức - gọi chung là các thiết chế, về lí luận và trong thực tiễn thường có sự phân biệt:
1) Những thiết chế mang tính chất hoàn toàn, thuần tuý chính trị như nhà nước, đảng;
2) Những tổ chức chính trị - xã hội tức là không hoàn toàn, thuần tuý chính trị, có tính chất là những đoàn thể tập hợp các tầng lớp, bộ phận dân cư theo giới, lứa tuổi, nghề nghiệp...
Nét đặc trưng tiêu biểu cho loại thiết chế thứ nhất là mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với đường lối, chính sách của quốc gia, sự tác động trực tiếp của các thiết chế đó lên đường lối, chính sách của quốc gia. Có thể nói, mục đích trực tiếp phản ánh, chi phối, lí do tồn tại của các thiết chế này là mục tiêu chính trị thể hiện ở sự để xuất, xây dựng đường lối, chính sách về đối nội, đối ngoại của quốc gia trên từng giai đoạn phát triển khác nhau và tổ chức, triển khai thực hiện đường lối, chính sách đó, là sự tác động về mặt tư tưởng, ý thức hệ lên các tầng lớp dân cư, giai cấp khác nhau đang tồn tại trong xã hội, bảo đảm thực hiện các lợi ích chính trị của tầng lớp cầm quyền và ở những mức độ nhất định khác nhau cả nhu cầu, lợi ích chung của toàn xã hội.
Loại thứ hai là các tổ chức ra đời, tồn tại trực tiếp từ nhu cầu tập hợp, những bộ phận dân cư nhất định nhằm theo đuổi những lợi ích trực tiếp mà trước hết là về kinh tế - xã hội và có khi không hoàn toàn gắn với chính trị như các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ...
Một bộ phận khác là những tổ chức có tính chất hội, đoàn thuần tuý nghề nghiệp hoặc theo đuổi những nhu cầu về sở thích, tuy vẫn mang màu sắc chính trị nhưng đó không phải là mục tiêu chủ yếu, Trong tổng thể các thiết chế đó, nhà nước đóng vai trò trụ cột, công cụ chủ yếu, các chính đảng giữ vai trò là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu của các bộ phận dân cư mà chính đảng là người phát ngôn, nói tiếng nói phản ánh lợi ích của bộ phận dân cư đó.
Cần phân biệt hệ thống chính trị trong xã hội tư sản và hệ thống chính trị trong các xã hội đang xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hệ thống chính trị trong các xã hội tư sản trước hết bao gồm hệ thống các cơ quan nhà nước, các chính đảng của giai cấp cầm quyền và các tổ chức, đoàn thể tập hợp các bộ phận dân cư thuộc giai cấp cầm quyền hoặc đi theo đường lối chính trị của giai cấp đó. Đây là những lực lượng xã hội với những cấp độ khác nhau trực tiếp tham gia vào việc thực hiện quyền lực nhà nước thuộc giai cấp cầm quyển.
Đồng thời, trong các xã hội còn tồn tại các lực lượng xã hội ở vị thế đối lập mà ở vị thế hàng đầu là các chính đẳng của giai cấp công nhân, của các tầng lớp lao động khác, của các lực lượng dân chủ đấu tranh vì các quyền dân sinh, dân chủ, chống độc quyền, giành các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống, nâng cao phúc lợi xã hội...
Cuộc đấu tranh của các lực lượng xã hội này có khi chỉ vì lợi ích trước mắt nhưng vẫn mang đậm sắc thái chính trị và ở những mức độ khác nhau tham gia vào đời sống chính trị, có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống chính trị của xã hội tư sản. Với tính chất đó, các thiết chế xã hội của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động trở thành một bộ phận của đời sống chính trị, hệ thống chính trị của xã hội tư sản, nhất là khi trực tiếp tham gia vào công việc nhà nước, tham gia chính quyền của giai cấp tư sản.
Trong các xã hội đang phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị bao gồm tất cả các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội, chính trị - xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức hội, đoàn bằng các phương thức khác nhau tập hợp các tầng lớp dân cư, đoàn kết họ và đoàn kết hợp tác với nhau để cùng theo đuổi một mục đích chung là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước.
Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là tính chất rộng rãi, bao gồm các tổ chức
của tất cả các tầng lớp dân cư kết thành khối đại đoàn kết toàn dân, trở thành cơ sở xã hội của chính quyển nhân dân và hệ thống chính trị. Đặc trưng khác cũng rất cơ bản là cả hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa được đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, đẳng công nhân được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng thích hợp vào từng nước. Nội dung hoạt động cơ bản của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội thực sự của dân, do dân, vì dân.
2. Khái niệm về hệ thống chính trị ?
Trong cuộc đấu tranh giành, giữ và sử dụng chính quyền, các lực lượng chính trị từng bước hình thành nên các tổ chức, tập hợp lực lượng một cách chặt chẽ, có ý chí chung và hành động thống nhất, có mục tiêu, đường lối, phương pháp cụ thể, phù hợp... nhằm đưa cuộc đấu tranh đến thắng lợi. Mới đầu, các tổ chức này còn lẻ tẻ, dần dần nó được tổ chức ngày càng đông đảo hơn. Mỗi tổ chức đại biểu cho một nhóm lợi ích nhất định, nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Các tổ chức này cùng với nhà nước hợp thành hệ thống chính trị của xã hội. Ở Liên Xô, trước những năm sáu mươi của thế kỉ XX, người ta thường dùng khái niệm “hệ thống chuyên chính của giai cấp thống trị” (chỉ bao gồm các cơ quan nhà nước họp thành một hệ thống do giai cấp thống trị dựng nên để thống trị xã hội), dần dần được thay bằng “hệ thống chuyên chính vô sản”. Từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX, khái niệm hệ thống chính trị chính thức được sử dụng trong các văn bản của Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xô Viết. Khái niệm này được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1977 - Hiến pháp cuối cùng của Nhà nước Liên Xô (Chương I, Phần I). Hiến pháp (luật cơ bản) của Liên bang Cộng hoà xã hội chù nghĩa Xô Viết, được thông qua tại kì họp bất thường lần thứ 7, Khoá 9, ngày 07/10/1977 của Xô Viết tối cao Liên Xô, Nxb. Sách báo chính trị, Moskva, 1977, tr. 1 - 62 (tiếng Nga).
Khái niệm “hệ thống chính trị” được xem xét từ nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau. Chẳng hạn, từ góc độ nghiên cứu nội dung và hình thức biểu hiện của các quan hệ chính trị trong xã hội,1 hệ thống chính trị được định nghĩa là phương thức thể hiện và phương tiện thực hiện các quan hệ chính trị. Từ góc độ nghiên cứu cơ cấu - chức năng của hệ thống chính trị thì hệ thống chính trị được quan niệm là tổng thể các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội trực tiếp nắm giữ hoặc tham gia thực thi quyền lực chính trị dưới sự lãnh đạo của một đảng cầm quyền hay liên minh các đảng cầm quyền. Quan hệ chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội liên quan tới việc giành, giữ và thực hiện quyền lực nhà nước…
Hệ thống chính trị là khái niệm đã xuất hiện trong sách báo chính trị pháp lý từ lâu. ở nước ta, vấn đề về hệ thống chính trị cũng đã được quan tâm nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Từ tháng 3 năm 1989, khái niệm này đã được sử dụng chính thức trong văn kiện của Đảng.
Hệ thống chính trị là một khái niệm có nội dung phong phú, được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở góc độ khái quát nhất, hệ thống chính trị được hiểu là một phạm trù thể hiện hình thức tổng quát nhất của chính trị và dân chủ, có nội dung chủ yếu là xác lập cơ chế thực hiện quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước. Xét ở góc độ cấu trúc, hệ thống chính trị là một hệ thống thiết chế chính trị có mối quan hệ mật thiết với nhau. Xét theo góc độ chính trị - pháp lý gắn với mục tiêu và giá trị, hệ thống chính trị được hiểu là “một cơ cấu bao gồm nhà nước, các đảng phái, các đoàn thế, các tố chức xã hội chính trị tôn tại và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật hiện hành, được chế định theo tư tưởng giai cấp cầm quyền, nhằm tác động vào các quá trình kinh tế - xã hội với mục đích duy trì và phát triển chế độ đó"
Chính trị là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, vì vậy các Vấn đề về hệ thống chính trị cũng cần được xem xét trong mối quan hệ chung giữa chính trị với kinh tế, văn hoá và xã hội. Theo đó, ứng với mỗi mô hình kinh tế - xã hội, tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có một mô hình tổ chức chính trị và dân chủ tương ứng. Ở nước ta, mô hình kinh tế - xã hội trước thời kì đổi mới được đặc trưng bằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp và tương ứng với nó là hệ thống chuyên chính vô sản. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng chủ xã hội chủ nghĩa với những nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể đòi hỏi phải có một hệ thống chính trị với những đặc trưng mới, phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế - xã hội trong tình hình mới.
Kết quả tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sự tác động đó có thể là tích cực nếu hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt động phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của mô hình kinh tế - xã hội. Ngược lại, nếu hệ thống chính trị được tổ chức không phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của kinh tế - xã hội thì nó sẽ có tác động tiêu cực tới quá trình phát triển của kinh tế - xã hội.
Xuất phát từ bản chất của chế độ chính trị và những điều kiện lịch sử cụ thể, hệ thống chính trị của mỗi nước cũng có những đặc thù riêng. Hệ thống chính trị của nước ta hình thành và phát triển trong quá trình đấu tranh cách mạng, chính thức ra đời từ Cách mạng tháng Tám và ngày càng hoàn thiện. Theo những quy định trong Chương I Hiến pháp năm 2013, hệ thống chính trị của nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Hội cựu chiến binh Việt Nam, trong đó Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân chính trị lãnh đạo và Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị.
3. Đặc điểm của hệ thống chính trị ?
Hệ thống chính trị có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại, phát trỉển của nhà nước tư sản. Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, chỉ có nhà nước là đại diện chính thức cho quyền lực chính trị của giai cấp chủ nô và giai cấp phong kiến, còn các đảng phái chính trị hoạt động hợp pháp khác chưa hình thành, do đó chưa có “hệ thống chính trị” ở hai giai đoạn này. Các đảng phái chính trị và các tổ chức xã hội khác được hình thành từ trong cách mạng tư sản, gắn liền với chế độ bầu cử tự do, dân chủ để thiết lập các cơ quan nhà nước cấp cao trong bối cảnh quyền lực nhà nước không còn nằm trong tay vua chúa, không còn được truyền cho con, cháu theo nguyên tắc thế tập, nó đã được chuyển giao cho cả một giai tầng xã hội bằng con đường bầu cử tự do, dân chủ. Hiến pháp nước Cộng hoà Pháp năm 1958 khẳng định: “Đảng phái và các đoàn thể chỉnh trị đỏng vai trò quan trọng trong bầu cử. Chủng được thành lập và hoạt động một cách tự do ” (Điều 4). ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, đảng cầm quyền với nhiều tên gọi khác nhau (như đảng cộng sản, đảng lao động, đảng nhân dân cách mạng,...) ra đời trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã tập hợp và lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành cuộc cách mạng nhằm xoá bỏ nhà nước cũ và thiết lập nhà nước mới. Kể từ khi nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời thì hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa cũng được hình thành, trong đó bao gồm nhà nước, đảng cầm quyền và các tổ chức chính trị-xã hội khác, nó tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Việc gắn sự hình thành, tồn tại và phát triển của hệ thống chính trị với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước là lẽ đương nhiên, bởi vì nhà nước luôn luôn là "trụ cột" của hệ thống chính trị, là "tấm gương" hội tụ và phản ánh toàn bộ đời sống chính trị của xã hội.
Hai là, các tổ chức thành viên hệ thống chính trị đều là những tố chức hợp pháp, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 quy định:
“Ở Liên bang Nga thừa nhận sự đa nguyên, đa đảng” (khoản 3 Điều 13); "Các tố chức xã hội bình đẳng trước pháp luật” (khoản 4 Điều 13); "Cấm thành lập và cấm sự hoạt động của các tổ chức xã hội có mục đích hay hành động hướng tới dùng bạo lực để thay đổi nền tảng chế độ hiến pháp và xâm phạm sự toàn vẹn của Liên bang Nga, đe dọa an ninh quốc gia, thành lập các tổ chức vũ trang, gây sự chia rẽ về xã hội, chủng tộc, sắc tộc và tôn giáo ” (khoản 5 Điều 13).
Hiến pháp Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1982 tuyên bố:
“Các chỉnh đảng và đoàn thể xã hội... đều phải lẩy Hiến pháp làm tiêu chuẩn xử sự căn bản trong hoạt động của mình ” (Lời nói đầu); “các đảng phái chỉnh trị và đoàn thể xã hội... đều phải tuần thủ Hiển pháp và pháp luật... Hành vi của mọi tổ chức hoặc cá nhân đều không vượt quá quy định của Hiến pháp và pháp luật” (Điều 5).
Khoản 3 Điều 4 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 cũng quy định:
“Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật ”.
Ba là, có sự phân định rõ ràng về nhiệm vụ cơ bản giữa các tổ chức thành viên vì mục tiêu chung là thực thỉ quyền lực của giai cẩp và các lực lượng thong trị trong xã hội. Trong hệ thống chính trị, đảng cầm quyền hoặc liên minh các đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước; nhà nước quản lí xã hội theo chủ trương, đường lối, chính sách của đảng cầm quyền hoặc liên minh các đảng cầm quyền và trên cơ sở pháp luật do mình ban hành; các tổ chức họp pháp khác tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội theo pháp luật.
Quân đội nhân dân Việt Nam là gì?
Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bao gồm lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên. Lực lượng thường trực của Quân đội nhân dân có Bộ đội chủ lực và Bộ đội địa phương.
Ngày 22 tháng 12 hằng năm là ngày truyền thống của Quân đội nhân dân, ngày hội quốc phòng toàn dân.
Khẩu hiệu của Quân đội nhân dân Việt Nam là:
“Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Vậy Quân đội nhân dân Việt Nam gồm lực lượng nào? hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua nội dung tiếp theo.
Quân đội nhân dân Việt Nam gồm lực lượng nào?
Quân đội nhân dân Việt Nam bao gồm: Bộ đội chủ lực, Bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, có lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên.
– Bộ đội chủ lực là thành phần nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm lực lượng cơ động của các quân đoàn, quân chủng, binh chủng, bộ đội chủ lực của quân khu và bộ đội chuyên môn kỹ thuật.
– Bộ đội địa phương là lực lượng cơ động tác chiến chủ yếu trên địa bàn địa phương, cùng với dân quân tự vệ làm nòng cốt của chiến tranh nhân dân tại địa phương, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh (thành phố) trực thuộc trung ương và Ban chỉ huy quân sự huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).
– Bộ đội Biên phòng Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân, thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, là lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới.
Các lực lượng trên được tổ chức thành các cơ quan, đơn vị, học viện, nhà trường theo một hệ thống thống nhất, chặt chẽ, nghiêm ngặt từ toàn quân đến cơ sở.
Chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam
Khi đã hiểu được Quân đội nhân dân Việt Nam gồm lực lượng nào? thì cần phải nắm được chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân.
Theo quy định tại Điều 25 của Luật quốc phòng thì Quân đội nhân dân có chức năng và nhiệm vụ sau:
– Quân đội nhân dân có chức năng, nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; thực hiện công tác vận động, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
Lao động sản xuất, kết hợp quốc phòng với kinh tế – xã hội, tham gia phòng thủ dân sự, cùng toàn dân xây dựng đất nước; thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
– Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu; một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.
– Tổ chức, nhiệm vụ, chế độ phục vụ và chế độ, chính sách của Quân đội nhân dân theo quy định của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng, Luật Nghĩa vụ quân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Thực hiện chức năng cơ bản là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ chức theo hướng tinh gọn, được trang bị các loại vũ khí, khí tài hiện đại cần thiết, thực hiện huấn luyện thường xuyên, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Thực hiện chức năng là một đội quân công tác, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn giữ vững mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Là một trong các lực lượng nòng cốt tham gia công tác vận động quần chúng, các đơn vị quân đội đã tích cực thực hiện công tác dân vận.
Cơ cấu tổ chức của Quân đội nhân dân Việt Nam
Như vậy Quân đội nhân dân Việt Nam gồm lực lượng nào? đã được giải thích ở nội dung trên. Hệ thống chính trị trong Quân đội Nhân dân Việt Nam có các cấp và tên gọi như sau:
– Tổng cục Chính trị ở cấp cao nhất.
– Cục Chính trị ở Bộ Tổng Tham mưu, ở cấp Quân khu, Quân chủng, Tổng cục, Quân đoàn, Binh chủng và tương đương.
– Phòng Chính trị ở cấp sư đoàn, cơ quan quân sự địa phương tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cơ quan Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đương.
– Ban Chính trị ở cấp trung đoàn, cơ quan quân sự địa phương huyện, thị xã và tương đương.
– Tổng cục Kỹ thuật là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng tổ chức, quản lý, nghiên cứu đảm bảo vũ khí và phương tiện, trang bị kỹ thuật chiến đấu cho các quân, binh chủng
– Tổng cục tình báo là cơ quan tình báo chuyên trách chiến lược của Đảng, Nhà nước Việt Nam; cơ quan tình báo chuyên trách quân sự của Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng.
– Tổng cục Hậu cần là cơ quan đầu ngành về hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam; có chức năng tham mưu, chỉ đạo, tổ chức bảo đảm vật chất, bảo đảm sinh hoạt, bảo đảm quân y, bảo đảm vận tải… cho quân đội.
– Tổng cục công nghiệp quốc phòng: Chịu trách nhiệm sản xuất vũ khí, trang bị quân dụng cho quân đội và dân quân tự vệ.
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
49462
-
44579
-
42677
-
40360
-
40072
-
36688
-
36173
-
34191