Quảng cáo
1 câu trả lời 247
BÀI VĂN NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍCH NHÂN VẬT KHÁCH
Trương Hán Siêu là một người có tính tình cương trực, học vấn uyên tâm, được các vua Trần tin cậy và tin dùng. Ông là một trong những danh sĩ nổi tiếng nhất đời Trần, nhưng số lượng tác phẩm để lại không nhiều. Nổi bật nhất là Bạch Đằng giang phú, với hình tượng nhân vật “khách” để lại nhiều dư âm, ấn tượng trong lòng bạn đọc.
Nhân vật “ khách ” có thú du ngoạn bốn phương, tâm hồn tự do, phóng khoáng :Giương buồm giong gió chơi vơiLướt bể chơi trăng mải miết …Các địa điểm được liệt kê liên tục : Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, … đây đều là những địa điểm của Trung Quốc, thắng cảnh xinh xắn mà ai cũng mong ước, mơ ước được một lần đặt chân đến. Nhân vật “ khách ” mượn những địa điểm này để nói lên niềm đam mê, sở trường thích nghi du ngoạn bốn phương của mình. Cách ông dùng từ trái chiều : sớm – tối đã bộc lộ rõ sở trường thích nghi ngao du thiên hạ của bản thân. Qua sở trường thích nghi đó còn bộc lộ khát vọng tìm đến những vùng đất mới để tò mò và tìm hiểu và khám phá văn hóa truyền thống, lịch sử dân tộc. Mặc dù nhân vật khách đã được đi nhiều nơi nhưng mà tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết. Đằng sau đó, ta còn thấy nguyện vọng, mong ước thật sự của nhân vật “ khách ” khi đi du ngoạn nước nhà là muốn học theo Tử Trường ngao du mọi nơi để tìm hiểu và khám phá về lịch sử dân tộc dân tộc bản địa .
Dưới con mắt của nhân vật “khách” bức tranh Bạch Đằng hiện lên vô cùng sống động. Cảnh sông nước Bạch Đằng bao la, bát ngát, hùng vĩ với bầu trời xanh ngắt: Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu. Nhưng bên cạnh đó còn là bức tranh ảm đạm, thê lương, hiu hắt với dấu vết của chiến tích xưa còn để lại: Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/ Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Hai bên bờ hun hút chỉ có bờ lau nối tiếp bến lách. Hai từ láy cộng nghĩa, bổ trợ cho nhau để làm rõ sự hoang vu, vắng vẻ của không gian. Nhìn sông mà khiến nhân vật khách liên tưởng đáy sông đầy vũ khí bỏ lại sau những trận chiến, nhìn gò mà liên tưởng tới nấm mồ của bao nhiêu người đã bỏ mạng ở nơi đây. Câu thơ gợi nhắc ta nhớ đến bài Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi:
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúcQua trầm tích chiến ngạn tằng tằngCả hai tác phẩm đều nhấn mạnh vấn đề vào cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên vĩ đại của dân tộc bản địa ta với khung cảnh hiu quạnh, hoang vắng. Qua đó còn bộc lộ niềm cảm thương với những người đã mất ở nơi đây .Đứng trước khoảng trống đó, nhân vật “ khách ” choáng ngợp, niềm hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu khi được ngắm nhìn khung cảnh vạn vật thiên nhiên hùng vĩ của quốc gia. Nhân vật “ khách ” đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh đẹp nhất để miêu tả lại khung cảnh mình đang chìm đắm ngắm nhìn để rồi cảm thấy ngỡ ngàng nhận ra đằng sau vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng ấy, sông Bạch Đằng con ghi dấu những chiến tích đã qua. Đoạn thơ ghi lại sự quy đổi cảm hứng can đảm và mạnh mẽ của nhân vật khách : Từ một người háo hức, mê hồn, có tâm hồn phóng khoáng, tự do chuyển sang trầm tư, buồn thương, hụt hẫng : Bờ lau san sát, bến lách vắng vẻ / Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Đằng sau những trạng thái cảm hứng ấy, người đọc tưởng tượng được toàn vẹn chân dung của nhân vật “ khách ” – hay chính là tác giả – một con người có tâm hồn phóng khoáng, ham thích khám phá lịch sử vẻ vang dân tộc bản địa và tình yêu quê nhà quốc gia .Hình tượng nhân vật “ khách ” một lần nữa được tái hiện qua phần cuối tác phẩm, với những lời ngợi ca hô ứng với lời ca tụng của những bô lão. Nhân vật khách đã cụ thể hóa chân lí của những bô lão nêu ở trên : Những người bất nghĩa diệt vong / Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh. Hai vị anh hùng được nhắc chính là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông sẽ lưu danh muôn thuở, tiếng thơm lưu truyền mãi muôn đời. Không chỉ vậy ông còn ca tụng dòng sông Bạch Đằng ghi dấu những chiến công anh hùng suốt chiều dài lịch sử dân tộc quốc gia. Mượn ý trong câu thơ Đỗ Phủ “ Tịnh tẩy giáp binh trường bất dục ” ( rửa sạch vũ khí mãi mãi không dùng đến ), biểu lộ mong ước có đời sống tự do độc lập. Đây cũng chính là mục tiêu của những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Đặc biệt ông tôn vinh yếu tố con người, nhất là sự nhân đức : Giặc tan muôn thuở thanh thản / Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao. Chiến thắng ta giành được không chỉ ở lực lượng hùng mạnh mà yếu tố quyết định hành động tạo ra sự thắng lợi là nhân đức của con người. Câu thơ đã cho thấy giá trị nhân văn thâm thúy của tác phẩm .
Bằng lớp ngôn từ hào sảng, giọng điệu biến đổi linh hoạt, nhân vật khách hiện lên là một người có lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, không chỉ vậy ông còn là người có niềm đam mê tìm tòi, mở rộng hiểu biết của bản thân. Ngoài ra, những vần thơ cuối cùng của bài còn cho thấy tầm nhìn xa trộng rộng, tấm lòng nhân văn sâu sắc của nhân vật trữ tình.
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
33838
-
Hỏi từ APP VIETJACK24813