
Nguyễn Hữu Minh Mẫn
Đồng đoàn
190
38
Câu trả lời của bạn: 18:33 12/04/2021
Để áp dụng các PP, KTDH cần có đủ về cơ sở vật chất lớp học, giáo viên được tập huấn kỹ càng, định lượng giờ dạy việc của gv phải phù hợp để gv có đủ thời gian chuẩn bị
PPDH theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hoá HS về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực GQVĐ gắn với những tình huống của cuộc sống, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực ti
Câu trả lời của bạn: 18:26 12/04/2021
Đáp án A
Cả 4 phát biểu trên đều đúng (SGK Sinh 12 nâng cao trang 240).
Báo
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 18:21 12/04/2021
Trong khuôn khổ một bài viết, khó có thể mô tả hết tầm quan trọng chiến lược của Cảng Hải Phòng trong gần 150 năm tồn tại, kể từ khi được xây dựng vào năm 1874. Nhưng có thể khẳng định, nơi đây là một trong những chiếc nôi của phong trào cách mạng, luôn “đi trước về sau” trong các cuộc kháng chiến vệ quốc của lịch sử hiện đại, trở thành niềm tự hào chung của cả dân tộc Việt Nam.

Sau Hiệp định Geneve được ký kết năm 1954, các địa phương khác của miền Bắc đã được giải phóng, thì Hải Phòng vẫn nằm trong vòng kiểm soát của địch, với vai trò là nơi tập kết 300 ngày của Pháp và tay sai, trước khi chúng rút về phía Nam vĩ tuyến 17. Đơn giản, vì Hải Phòng có cảng, vị thế chiến lược không còn lựa chọn nào tốt hơn tại thời điểm đó, và ngày Hải Phòng giải phóng 13-5-1955 cũng chính là ngày giải phóng của toàn miền Bắc.
Vào đầu những năm 1960, sau khi thay chân Pháp, đế quốc Mỹ đã thất bại trong việc áp dụng “Chiến tranh đặc biệt”, chúng chuyển sang chiến lược mới, một mặt trực tiếp đưa quân tham chiến ở miền Nam, một mặt mở các đợt tấn công phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc.
Tháng 2-1967, những quả thủy lôi đầu tiên được Mỹ thả xuống Hải Phòng, mở đầu cho chiến dịch phong tỏa các cảng sông miền Bắc, nhằm mục tiêu đánh chìm nhiều loại tàu chiến, tàu vận tải của ta, ngăn chặn việc chi viện cho chiến trường miền Nam và sự giúp đỡ của các nước XHCN đối với Việt Nam.
Theo một tài liệu ghi nhận, trong hai năm 1967-1968, quân Mỹ phong tỏa khu vực Hải Phòng gần 1.500 quả bom từ trường và thủy lôi các loại, đây là đợt bao vây phong tỏa và phá hoại lần thứ nhất.
Cuộc chiến tranh phong tỏa lần thứ hai bắt đầu từ 9-5-1972, Mỹ thả suốt tuyến ven biển phía Bắc 5.431 quả bom từ trường và thủy lôi, riêng khu vực Hải Phòng là 1.735 quả. Người Mỹ tuyên bố sẽ làm tê liệt Hải Phòng, với ý đồ biến thành phố cảng thành hòn đảo cô lập với nội địa, từ đó ngăn chặn con đường hữu nghị quốc tế giữa Việt Nam với thế giới mà Hải Phòng là cửa ngõ.
Chưa dừng lại ở đó, vào tháng 12-1972, Mỹ mở đợt tấn công với quy mô chưa từng có bằng không quân vào Hải Phòng, Hà Nội và một số địa phương của miền Bắc, với tuyên bố ngông nghênh: “Đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”.
Về cuộc bao vây phong tỏa và chiến tranh phá hoại của Mỹ vào Hải Phòng, tài liệu lịch sử mô tả: “Không quân Mỹ ném bom phá sập cầu Rào, cầu Niệm và thả dày đặc bom từ trường DST-36 xuống dưới lòng sông, bịt các cửa sông, bến phà xung quanh thương cảng.
Không những thế, đế quốc Mỹ còn liên tục cho máy bay giám sát các tàu chở hàng của Liên Xô và các nước XHCN anh em trên đường từ biển vào cảng Hải Phòng. Chúng đã bắn tên lửa, rốc két vào hai tàu chở hàng của Liên Xô đang đậu ở Cảng, bất chấp sự phản đối của dư luận”.

Nhưng quân và dân Hải Phòng, với tinh thần “Trung dũng – Quyết thắng” luôn ngẩng cao đầu, cùng cả miền bắc đập tan ý chí quân thù, làm lên một “Điện Biên Phủ trên không” lịch sử. Cảng Hải Phòng vẫn đứng vững, những con tàu vẫn ngày đêm vượt vòng vây lửa, để từ đây những chuyến hàng tiếp tục tạo thành dòng chảy, tới khắp các chiến trường, cho tới ngày đất nước trọn niềm vui thống nhất.
9 năm chống phong tỏa, các kỹ sư, công nhân đường biển đã phá hủy gần 1.430 thủy lôi và bom từ trường, giải tỏa trên 80km luồng vận tải không còn bom mìn, rà quét trên 24 km2 bến bãi, đầu mối giao thông đưa vào khai thác an toàn.
Với tinh thần sáng tạo, dũng cảm Cảng Hải Phòng luôn được giải tỏa kịp thời, ban ngày địch phong tỏa thì chiều tối các lực lượng ta đi giải tỏa, luồng vận tải này bị phong tỏa chưa phá được thì chúng ta có luồng dự bị thay thế, huyết mạch hàng hóa qua cảng biển Hải Phòng luôn hừng hực chảy như thế
Trong cuộc chiến 12 ngày đêm chống không quân Mỹ cuối tháng 12-1972, Hệ thống phòng không từ Cảng Hải Phòng đã hòa vào lưới lửa thành phố, lôi cổ những chiếc máy bay tân tiến nhất của không lực Hoa Kỳ hỏa táng dưới mặt đất. Riêng tự vệ Cảng tham gia 343 trận chiến đấu, bắn rơi 3 máy bay Mỹ. Công binh Cảng tháo gỡ 308 thủy lôi, bom mìn, chế tạo thành công máy phá bom từ trường, mở luồng cho tàu thuyền ra vào Cảng.
Đó cũng là thời kỳ cán bộ, công nhân cảng phát huy tinh thần “Đoàn kết – Kiên cường – Sáng tạo”, anh dũng bám trụ vừa sản xuất vừa chiến đấu. Các phong trào thi đua đã thổi vào nhiệt huyết của cán bộ, công nhân Cảng Hải Phòng khí thế vô song, kiên cường bám máy, bám tàu, bám biển. Từ đó, hơn 40 triệu tấn hàng hóa nhập khẩu, viện trợ từ nước ngoài được tiếp nhận an toàn, đã viết lên bản hùng ca về tinh thần của đội ngũ công nhân cảng.
Cán bộ công nhân Cảng sản xuất tốt, chiến đấu giỏi, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện cho tiền tuyến lớn. Những chiến công của lòng dũng cảm, trí can trường, sự hy sinh của cán bộ công nhân Cảng Hải Phòng xứng đáng với những danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” và nhiều danh hiệu cao quý khác của Đảng, Nhà nước trao tặng.
Câu trả lời của bạn: 18:20 12/04/2021
Nho giáo (儒教), còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng (Nhơn đạo) là một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội hài hòa, trong đó con người biết ứng xử theo lẽ phải và đạo đức[1], đất nước thái bình, thịnh vượng[2][3].
Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước Đông Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ hay Nho sinh.
Mục lục
Câu trả lời của bạn: 18:16 12/04/2021
Truyền thống dựng nước và giữ nước trong buổi bình minh lịch sử - nước Văn Lang - Âu Lạc (3000 - 179 TCN)
Trở về thời đại các vua Hùng dựng nước, ngày nay còn tìm thấy các di chỉ văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn... (có niên đại xa nhất cách đây 4000-3500 năm), rất nhiều công cụ bằng đồng, cùng những vũ khí thô sơ để tự vệ: lưỡi cày, lưỡi búa, mũi tên, lưỡi dao, giáo, rìu, dao găm và những mảnh giáp che thân bằng đồng...
Sự phát triển của đồ đồng đã chấm dứt thời kỳ tồn tại hàng vạn năm của công xã nguyên thủy trước đó, thời kỳ mà con người sống hoàn toàn còn phụ thuộc vào tự nhiên để đi vào thời kỳ mới: thời kỳ con người bắt đầu có ý thức với cuộc sống, với cộng đồng, với sản xuất. Việc con người biết trồng trọt, chăn nuôi, biết dùng súc vật để kéo cày, biết làm lúa nước, làm thủy lợi, cùng với việc xuất hiện một số ngành nghề mới (thủ công, trồng dâu nuôi tằm, luyện đồng, rèn sắt...) đã tạo ra tiền đề ổn định cộng đồng, nhờ đó cũng kéo theo cả sự phát triển của văn hóa...
Có thể nói sức mạnh của nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc, với cơ sở cộng đồng đoàn kết, quốc gia thống nhất của nền văn minh bản địa, đã tạo cho cộng đồng người Việt có sức mạnh để chiến thắng giặc ngoại xâm và chinh phục thiên nhiên trong suốt quá trình lịch sử.
Lược bỏ màu sắc thần thoại, Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh là thiên anh hùng ca về cuộc chiến đấu của cư dân Việt với lũ lụt, giành lấy những mảnh đất màu mỡ ven sông để sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Người Việt biết trồng lúa nước vào loại sớm nhất thế giới, đến thời Hùng Vương thì nghề này đã đạt đến trình độ khá cao. Nghề trồng lúa, trồng dâu chăn tằm, chăn nuôi gia súc ngày càng phát triển thì thủ công nghiệp cũng phát triển theo (nghề gốm, nghề dệt, nghề mộc, nghề luyện kim đồng thau, khai mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ chì, nấu quặng...). Giao thông vận tải phát triển, giao lưu kinh tế văn hóa trong cư dân Việt Nam cũng đạt trình độ phát triển khá. Đồ đồng Đông Sơn rất phong phú, nhiều hình vẻ, bao gồm công cụ, vũ khí, đồ đựng, đồ trang sức. Đồ đồng Đông Sơn thấy cả ở miền xuôi và miền núi. Từ Việt Nam, trống đồng được truyền lên phía Bắc, tới đất Điền (Vân Nam), đất Thục (Tứ Xuyên), và đưa xuống phía Nam, tới Malaixia, tới đất nước đảo Dừa (Inđônêxia). Một số lượng cực kỳ lớn và phong phú các loại vũ khí bằng đồng thau được tìm thấy trong các di chỉ văn hóa. Tất cả những điều đó đã nói lên rằng trong thời kỳ này, chẳng những sản xuất phát triển, mà chiến tranh cũng đã xẩy ra thường xuyên. Vì vậy việc dựng nước và giữ nước nhất thiết phải gắn bó với nhau. Trên cơ sở một nền kinh tế văn hóa phát triển, các vua Hùng và cư dân Việt đã nhiều lần chiến thắng các cuộc chiến tranh chống bọn xâm lược, mà truyền thuyết gọi là giặc "Man", giặc "Mũi đỏ", giặc "Ân".
Cậu bé làng Gióng ba năm nằm trên chõng chẳng nói, chẳng cười, nhưng vừa nghe tiếng mõ rao cầu hiền tài đi đánh giặc ngoại xâm thì đã vụt lớn như thổi, ăn hết bẩy nong cơm, với mấy vại cà, rồi lên đường ra trận. Theo Ông Gióng ra trận còn có người dân cày đang cầm vồ đập đất, người câu cá, người đi săn, đoàn trẻ chăn trâu..., nghĩa là ông Gióng cùng toàn dân ra trận.
Câu truyện Thánh Gióng biểu hiện tinh thần chiến đấu bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân cư Việt thời cổ, người anh hùng làng Gióng là hình ảnh của dân tộc Việt Nam thời thơ ấu, sớm trưởng thành trong gian lao, trước nạn lớn của dân tộc. Đất nước ta, nhân dân ta, như cậu bé làng Gióng, mới ra đời thì hai vai đã nặng trĩu hai nhiệm vụ dựng nước và đánh giặc để giữ nước. Cộng đồng người Việt ngay từ đầu đã cố kết lại trong tư thế vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Đó là hai mặt cơ bản nhất trong nội dung của đời sống xã hội cư dân Việt kể từ ngày lập quốc.
Nước Văn Lang bước vào thế kỷ III trước công nguyên là thời kỳ những đời cuối cùng của thời đại Hùng Vương. Đây là lúc sản xuất và văn hóa đang trên đà phát triển. Đồ đồng thau phát triển cực thịnh tạo điều kiện quá độ sang thời kỳ đồ sắt. Nông nghiệp, thủ công nghiệp đều phát triển hơn trước. Diện tích đất đai được khai phá mở rộng ở miền núi và trung du, đồng bằng, dân số đông thêm. Trung tâm văn hóa và kinh tế có xu thế dời từ vùng trung du xuống miền đồng bằng. Đó cũng là lúc mà phương Bắc đang có những biến đổi lớn. Thời Chiến quốc kết thúc, nhà Tần thống nhất Trung Quốc (221 trước công nguyên). Tần Thủy Hoàng lên ngôi hoàng đế với tư tưởng "bình thiên hạ" và chủ nghĩa bành trướng bắt đầu được đẩy mạnh. Nhà Tần liên tục phát quân xâm lược phương Nam.
Đối với đất Việt phương Nam thời đó, chống ngoại xâm và xây dựng đất nước là một nhu cầu cấp bách. Trên cơ sở nền kinh tế đã phát triển hơn và trước nguy cơ xâm lược từ phương Bắc, xuất hiện nhu cầu hợp nhất những bộ tộc gần nhau về địa vực, huyết thống, trình độ phát triển kinh tế và văn hóa. Đó là cơ sở dẫn tới sự hợp nhất giữa hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt và sự ra đời nước Âu Lạc vững mạnh hơn.
An Dương Vương dựng nước Âu Lạc, dời đô xuống miền Cổ Loa. Việc dời đô từ vùng trung du xuống đồng bằng là một biểu hiện của nhu cầu phát triển đất nước lớn mạnh. Với việc sử dụng công cụ sản xuất bằng kim loại, miền đồng bằng đã được khai thác nhiều hơn. Với việc lập đô ở Cổ Loa, miền đồng bằng của đất nước, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và văn hóa, cư dân Âu Lạc tỏ rõ ý chí mạnh mẽ, tự tin vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Hai thành phần cư dân Lạc Việt và Âu Việt hợp nhất, miền xuôi và miền núi nối liền. Sự thống nhất đó làm cho nước Âu Lạc mạnh lên. Đó là một quốc gia kế tục và phát triển trên một trình độ cao hơn nước Văn Lang, trên cơ sở nền kinh tế và văn hóa phát triển thêm một bước. Nền văn hóa Đông Sơn càng tỏ rõ sức sống mãnh liệt, độc đáo, lan tỏa ảnh hưởng của nó đến nhiều vùng ở Đông Nam á. Thủ công nghiệp có những tiến bộ hơn, trước hết là nghề luyện kim. Trên cơ sở kỹ thuật đồ đồng thau phát triển, người Âu Lạc đã nắm được kỹ thuật rèn sắt. Một bước tiến mới của Âu Lạc trong kỹ thuật quốc phòng, người Âu Lạc đã chế tạo được loại nỏ bắn nhiều phát một lần, với mũi tên bằng đồng có ba cạnh sắc. Thành Cổ Loa được xây dựng. Đây là công trình huy động hàng vạn nhân công xây dựng thành chiến luỹ chống xâm lược. Với thành Cổ Loa và nỏ máy, cư dân Âu Lạc thể hiện rõ tài năng sáng tạo của mình. Nhà Tần và sau đó Triệu Đà hàng chục năm liền đưa quân đánh phá Âu Lạc, song An Dương Vương cùng cư dân Âu Lạc đã nhiều lần kháng chiến thắng lợi. Sự thất bại của đội quân xâm lược nhà Tần và những đợt xâm lược đầu tiên của Triệu Đà chứng tỏ tinh thần đoàn kết, ý thức tự chủ của cư dân Âu Lạc đã phát triển trên cơ sở nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ. Nhưng cũng chính thời kỳ này lịch sử đã để lại cho hậu thế một tấn bi kịch: mất nước để rồi con cháu Lạc Hồng phải chịu sống dưới ách nô lệ trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc.
Kẻ địch xâm lược hùng mạnh không thể thắng ta về mặt quân sự, nhưng chúng không từ bỏ ý đồ thôn tính nước ta. Thất bại về quân sự, chúng chuyển sang chiến lược giả vờ cầu hòa, dùng gián điệp phá ta từ bên trong. Triệu Đà cử con là Trọng Thủy sang hàng phục An Dương Vương, lấy công chúa Mỵ Châu, ở rể tại thành Cổ Loa, để dò xét tình hình Âu Lạc, học phép chế nỏ của người Âu Lạc rồi trốn về nước báo cho Triệu Đà. Do chủ quan, mất cảnh giác, Thục An Dương Vương và Mỵ Châu nhẹ dạ cả tin, mắc mưu kẻ địch. Kết hợp dùng quân sự và dùng gián điệp, Triệu Đà đã thôn tính được Âu Lạc vào năm 179 trước công nguyên. An Dương Vương thua trận phải tự tử. Nước ta bị mất độc lập tự do.
Cuộc đấu tranh giành quyền tự chủ, tiến tới xây dựng quốc gia phong kiến độc lập (từ cuối thế kỷ II trước công nguyên đến đầu thế kỷ X)
Triệu Đà sáp nhật đất Âu lạc vào Nam Việt, chia Âu Lạc thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111 trước công nguyên, nhà Hán chiếm được Nam Việt, đổi vùng đất Âu lạc thành Giao Châu có 7 quận với chức quan đầu châu là thứ sử, đầu quận là thái thú. Đế chế Hán áp đặt ách thống trị và bóc lột tàn bạo, nặng nề lên dân Âu Lạc. Đặc biệt nguy hiểm là chủ trương Hán hóa dân Việt và biến đất Việt thành đất Hán. Song các cư dân Việt không chịu khuất phục. Từ đây cho đến đầu thế kỷ X, mặc dầu tương quan lực lượng rất chênh lệch, nhân dân ta vẫn không ngừng đấu tranh giành quyền tự chủ của dân tộc.
Trước hết, nhân dân ta phải đấu tranh với kẻ thống trị để giữ vững bản sắc văn hóa, để giữ gìn tiếng nói, phong tục tập quán của mình, đồng thời tranh thủ tiếp thụ những yếu tố tiến bộ, hợp lý của văn hóa Hán nhằm hoàn thiện và nâng cao nền văn hóa, văn minh của người Việt, củng cố tinh thần tự lực tự cường, tăng thêm ý chí đấu tranh giành độc lập tự chủ. Đây là giá trị to lớn nhất của sự nghiệp chuẩn bị cho công cuộc dựng nước sau khi giành được quyền tự chủ. Chẳng những thế, nhân dân lao động không ngừng cố gắng, bền bỉ phát triển sản xuất. Lực lượng sản xuất của dân ta ngày càng phát triển trong điều kiện thống trị của phong kiến phương Bắc. Trong nông nghiệp do phát hiện ra sắt, nghề rèn sắt thành công cụ sản xuất phát triển; kỹ thuật nông nghiệp tiến bộ, đã sử dụng trâu bò cày kéo. Các hệ thống đê điều ngăn lũ lụt, các sông đào, mương ngòi được tu sửa... Các cây trồng và vật nuôi ngày một phong phú. Trong thủ công nghiệp, các nghề khai mỏ vàng, đúc đồng, rèn sắt, trồng dâu nuôi tằm cũng phát triển. Hệ thống giao thông thủy bộ phát triển. Các tầng lớp, giai cấp xuất hiện trong đó có tầng lớp giai cấp phong kiến quý tộc Việt Nam dần dần tiêu biểu cho lực lượng phát triển xã hội, tập hợp lực lượng nhân dân Việt Nam đấu tranh cho nền độc lập tự chủ, thoát khỏi sự thống trị của phương Bắc.
Trên cơ sở đó, nhân dân ta liên tiếp đứng lên đấu tranh, xác lập dần nền tự chủ. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa oanh liệt của Hai Bà Trưng có tính chất quần chúng rộng rãi, giành được thắng lợi trong cả nước với 65 huyện thành. Hai Bà Trưng và nhân dân ta giữ vững quyền tự chủ trong 3 năm. Tiếp đó là những cuộc khởi nghĩa lớn như: của Lương Long (178-181); của Triệu Thị Trinh (248); của Lý Bí với sự thành lập nước Vạn Xuân (544); của Triệu Quang Phục (546-550); của Mai Thúc Loan (722); của Phùng Hưng (766-791); của Dương Thanh (819-820)... Nhân dân ta đã trưởng thành trong cuộc đấu tranh để bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc và không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa Hán nhằm phát triển sức mạnh của cộng đồng. Chính các cuộc nổi dậy ấy chuẩn bị tiền đề vật chất và tinh thần cho công cuộc giành lại quyền tự chủ hoàn toàn vào đầu thế kỷ X. Năm 906, Khúc Thừa Dụ, nhân chính quyền nhà Đường suy yếu, đã đứng lên cùng nhân dân giành được quyền tự chủ. Năm 938, chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền đã đánh bại ý chí xâm lược của nhà Nam Hán, kết thúc hoàn toàn thời kỳ mất nước, kéo dài trên một ngàn năm. Một thời kỳ độc lập, xây dựng đất nước vững mạnh bắt đầu.
Sở dĩ một quốc gia bị nước ngoài thống trị và âm mưu đồng hóa trên một ngàn năm đã vùng lên và giành lại được quyền tự chủ đó chính là nhờ có ý chí độc lập tự do của cư dân người Việt sớm được khẳng định trên cơ sở những thành tựu vật chất và tinh thần ngày càng phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước trước đó. ý chí đó ngày càng được bồi đắp vững chắc và phát triển trong quá trình bị nô dịch. Truyền thống dựng nước và giữ nước thấm sâu trong nhân dân như mạch nước ngầm trong lòng đất, nó bắt nguồn từ mỗi con người, từ mỗi làng xóm, lặng lẽ đổ vào biển cả tạo thành truyền thống của cả cộng đồng người Việt. Truyền thống đó lại được nuôi dưỡng bởi nền văn hóa, văn minh của người Việt định hình và phát triển trong thời kỳ Văn Lang - Âu lạc. Trong sự cọ sát với nền văn hóa Hán, nền văn hóa Đông Sơn chẳng những không bị mai một mà lại được bổ sung, làm phong phú bởi biết tiếp thu cái hay, cái tiến bộ, cái hợp lý của nền văn hóa bên ngoài nhằm tăng sức mạnh, hun đúc sức sống mãnh liệt của cộng đồng người Việt. Đây cũng là điều kiện hết sức quan trọng để đất nước vươn lên giữ vững nền tự chủ, dựng nước thịnh trị trong thời kỳ văn hóa - văn minh Đại Việt về sau này.
Công cuộc dựng nước và giữ nước trong thời kỳ phong kiến tập quyền thịnh trị của dân tộc (từ thế kỷ X đến thế kỷ XV)
Sau chiến thắng Bạch Đằng (938), Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ của phương Bắc, tự xưng vương, lập nên nước độc lập ngang hàng với phương Bắc. Cổ Loa (kinh đô của nước Âu Lạc thời An Dương Vương) được chọn lại làm kinh đô. Điều đó càng chứng tỏ ý chí lưu giữ truyền thống dựng nước và giữ nước lâu đời của tổ tiên ta.
Nhưng sự nghiệp củng cố nền độc lập và thúc đẩy chế độ phong kiến phát triển từ sau Ngô Quyền vẫn ở trong tình trạng bị ngoại xâm đe dọa. Trong thư gửi Đinh Toàn (con nối ngôi Đinh Tiên Hoàng), vua Tống đã nói rõ việc "lấy lại Giao Châu bị mất" vì cuối đời Đường "nhiều khó khăn chưa kịp khu xử". Đất nước ta lại bị đe dọa. Đã vậy Đinh Toàn lại còn nhỏ. Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga đã biết đặt quyền lợi quốc gia, quyền lợi cộng đồng lên trên quyền lợi dòng họ, trao ngôi vua cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, vì mục đích giữ vững và bảo toàn chủ quyền quốc gia.
Đầu năm 981, quân Tống do Hầu Nhân Bảo hùng hổ kéo vào nước ta. Theo gương Ngô Quyền lúc trước, quân dân ta đã đóng cọc trên sông Bạch Đằng và mai phục đường bộ. Cuối mùa xuân 981, quân xâm lược Tống bị đại bại. Lại một lần nữa truyền thống giữ nước được phát huy.
Sau nhà Đinh, nhà Tiền Lê đánh giặc giữ nước, phát huy truyền thống của cha ông, rồi đến nhà Lý. Năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô từ vùng núi non hiểm trở (Ninh Bình) địa thế chật hẹp ở Hoa Lư về Đại La (Hà Nội) và đổi tên là thành Thăng Long. Điều này chứng tỏ thế mới của một quốc gia độc lập mà Lý Công Uẩn đã nêu trong Chiếu dời đô: "Đóng nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu mai sau".
Nhà Lý bắt tay vào xây dựng đất nước với quy mô lớn. Năm 1042, Lý Thái Tông cho ban hành bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta: Bộ Hình thư. Năm 1054, nhà Lý đặt tên nước là Đại Việt. Năm 1070 lập Quốc Tử Giám, năm 1075 mở khoa thi đầu tiên chọn nhân tài. Từ đây là thời kỳ củng cố nền độc lập, vừa chống giặc ngoại xâm, vừa xây dựng đất nước thành một nhà nước phong kiến tập quyền ngày càng vững mạnh, thời kỳ phát triển của dân tộc Việt Nam cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự... Thời kỳ văn hóa văn minh Đại Việt bắt đầu.
Sự kết hợp chặt chẽ giữa dựng nước và giữ nước được thể hiện trong nhiều chủ trương của nhà Lý. Chính sách "ngụ binh ư nông" (gửi quân lính ở nhà nông) nhằm vừa đảm bảo yêu cầu quốc phòng, vừa duy trì lực lượng lao động cần thiết cho sản xuất nông nghiệp, xây dựng đất nước. Chế độ đăng ký quân dịch và ngụ binh ư nông cho phép nhà Lý khắc phục được điều kiện dân số ít, mà vẫn có lực lượng quân sự hùng hậu có thể huy động nhanh chóng khi có giặc ngoại xâm. Dựng nước kết hợp với giữ nước đã thấm sâu trong ý thức cảnh giác đề phòng của nhà Lý. Biết rõ nhà Tống chưa chịu từ bỏ tham vọng xâm lược nước ta, nhà Lý thường xuyên theo dõi chặt chẽ âm mưu của chúng và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Tống với một tinh thần chủ động, trong đó chính sách đại đoàn kết dân tộc đã được vận dụng một cách đúng đắn và có hiệu quả. Biết nhà Tống chuẩn bị lương thảo, khí giới, quân lính để xâm lược Việt Nam, Lý Thường Kiệt chủ trương "ngồi đợi giặc không bằng đem quân ra trước để ngăn chặn mũi nhọn của giặc"(1) và đưa 110 vạn quân thủy bộ bất ngờ tấn công thành Ung Châu, chặn mũi nhọn của giặc.
Sau khi hạ được thành, quân ta rút hết về nước và dốc sức vào chuẩn bị đối phó với cuộc xâm lược mới của nhà Tống mà Lý Thường Kiệt biết là không thể nào tránh được. Sau hai lần tiến công hùng hổ sang nước ta, đạo quân Quách Quỳ đã bị thất bại. Chiến thắng trên sông Như Nguyệt đã trở thành nét son trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta. Từ đó và mãi 200 năm sau, "Thiên triều" không dám đụng đến bờ cõi nước ta. Và năm 1164, không thể khác được, nhà Tống phải công nhận cả trên danh nghĩa lẫn thực tế mối quan hệ bang giao với nước ta và thừa nhận nước ta là nước độc lập (An Nam Quốc), trước đây chúng chỉ gọi là quận Giao Chỉ. Nhà Lý đã có chính sách đoàn kết dân tộc đúng đắn, tranh thủ các tù trưởng thuộc các sắc tộc phía bắc và đông bắc, có chính sách củng cố phên giậu nước ta, làm thất bại âm mưu liên kết của nhà Tống với vương quốc Chămpa trước khi bước vào cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077). Tư tưởng chính trị, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng của nhân dân ta, của dân tộc ta thể hiện rõ trong bài thơ “Nam quốc sơn hà”, được coi là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư".
Tạm dịch:
"Sông núi nước Nam, Nam đế ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc đến xâm phạm
Kết cục rành rành: chuốc bại nhơ!
Trong bài thơ này, nhận thức về nền độc lập, chủ quyền và lãnh thổ của dân tộc ta được khẳng định và tuyên bố công khai. Đó là sự khẳng định về ý thức dân tộc, ý chí của dân tộc Việt Nam quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc mà bao thế hệ đã hy sinh xương máu và đấu tranh bền bỉ mới tạo lập được.
Vào những năm cuối đời Lý, nền kinh tế của nước nhà sa sút, đời sống nhân dân xuống thấp. Nhà Trần thay thế nhà Lý. Trong đời Trần, do những cải cách của Trần Thủ Độ, sức sản xuất được khôi phục nhanh chóng và tiếp tục phát triển. Việc kết hợp dựng nước và giữ nước lại có những thành công lớn. Những cuộc khẩn hoang và công trình thủy lợi mới được mở mang, góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển hơn. Công thương nghiệp cũng có những bước tiến mới, nhiều làng nghề, phường thủ công, chợ và phố xá buôn bán tấp nập. Các đường giao thông thủy bộ, thương cảng được sửa sang, mở rộng thêm. Những tiến bộ mới trong phát triển kinh tế của đất nước đã nâng cao thêm đời sống của nhân dân, góp phần củng cố quốc phòng. ý thức bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn nền độc lập dân tộc ngày một củng cố thêm trên cơ sở chính sách đại đoàn kết toàn dân cùng dựng nước và giữ nước. Đúng như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tổng kết: "Vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước góp sức", và "khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu r
Câu trả lời của bạn: 18:13 12/04/2021
1/ Nguyên nhân bùng nổ phong trào cách mạng 1930 – 1931 :
- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933) đã tác động mạnh mẽ đến Việt Nam, làm cho nền kinh tế Việt Nam tiêu điều, sơ xác, đời sống của nhân dân lao động hết sức cơ cực. Từ sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái thực dân Pháp thi hành chính sách ”khủng bố trắng” hòng dập tắt phong trào cách mạng. Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế cùng với chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp càng nung nấu lòng căm thù, nâng cao tinh thần cách mạng của nhân dân ta.
- Mâu thuẩn xã hội gay gắt (dân tộc Việt Nam > < thực dân Pháp, nông dân > < địa chủ phong kiến). Đó là nguyên nhân sâu sa và trực tiếp đưa đến cao trào cách mạng (1930 - 1931)
- Ảnh hưởng của phong trào Cách mạng quốc tế đối với Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời kịp thời lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta đứng lên đấu tranh chống đế quốc Pháp và phong kiến tay sai, giành độc lập tự do.
* Mở rộng : Trong các nguyên nhân trên, nguyên nhân Đảng ra đời và lãnh đạo là nguyên nhân cơ bản và quyết định nhất là chủ yếu và quyết định nhất. Bởi vì, nếu không có sự lãnh đạo của Đảng thì mâu thuẩn lúc đó nhiều nhất cùng chỉ dẫn đến những cuộc đấu tranh nhỉ, lẻ tẻ, tự phát, không thể trở thành một cao trào tự giác (1930 - 1931).
2/ Di
Câu trả lời của bạn: 18:11 12/04/2021
Yêu nước gắn liền với thương dân bởi vì:
• Nhân dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, có vai trò quan trọng trong sự tồn tại của đất nước bởi vì “Mến người có nhân là dân; chở thuyền lật thuyền cũng là dân”.
• Nhân dân là lực lượng lao động chính nuôi sống xã hội.
• Nhân dân là động lực chính của các cuộc cách mạng và đấu tranh.
• Dân có giàu thì thế nước mới mạnh được.
⇒ Sự đoàn kết toàn dân tạo ra sức mạnh để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Trả lời câu hỏi Lịch Sử 10 Bài 28 trang 140: Hãy điểm lại các cuộc kháng chiến và khởi nghĩa giành độc lập trong lịch sử nước ta trước thế kỉ XIX
Lòng yêu nước chân chính
Ở nước ta, lòng yêu nước đã được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Có thể nói, nước ta là một trong những quốc gia, trong hàng ngàn năm lịch sử có nhiều cuộc chiến chống giặc ngoại xâm nhất thế giới và nhân dân ta chưa bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Vì thế lòng yêu nước của nhân dân ta đã được tôi luyện, thử thách, gắn kết vững bền với vận mệnh quốc gia dân tộc.
Bác Hồ nói:“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Từ khi có Đảng và sau Cách mạng tháng 8/1945, lòng yêu nước của nhân dân ta gắn liền với yêu Đảng, yêu chế độ. Qua hơn nửa thế kỷ đấu tranh dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cùng với đội ngũ đảng viên, đa số là những người có đức, có tài đã hy sinh cống hiến hết mình vì nước, vì dân nên tình yêu đảng, yêu chế độ, yêu nước quyện chặt làm một và trở thành động lực cống hiến của mọi người dân, tạo thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc.
Tuy nhiên, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong Đảng và bộ máy nhà nước xuất hiện ngày càng nhiều cán bộ, đảng viên suy thoái, tha hoá, làm cho nhiều hoat động của các cơ quan công quyền bị chi phối bởi “tư duy nhiệm kỳ” gắn với sự phát triển “lợi ích nhóm”. Đây là một trong những nguyên nhân chính, làm sai lệch, xói mòn bản chất của Đảng và Nhà nước - một nguyên nhân trực tiếp làm trở ngại, hạn chế hiệu quả thực hiện các nghị quyết của Đảng, làm cho niềm tin của nhân dân ta bị chao đảo, tâm trạng xã hội di
Câu hỏi:
UNIT 9: CITIES OF THE WORLD
I. Choose the word whose underlined part is pronounced differently from the others.
1. a. prize b. excite c. design d. capital
2. a. cold b. photo c. continent d. poster
3. a. city b. capital c. nice d. excite
4. a. designed b. received c. cycled d. rewarded
5. a. tomorrow b. tower c. crowd d. around
II. Circle the odd one out.
6. A.Mexico B. Asia C. South Africa D. Australia
7. A.Amsterdam B. Stockholm C. Sweden D. Rio de Janeiro
8 A.sunny B. delicious C. cloudy D. awful
9. A.Times Square B. Big Ben C. Merlion D. Dickens
10.A.German B. American C. Italy D. English
III. Choose the word that is opposite in meaning to the underlined word. ( Chọn từ trái nghĩa với từ bị gạch chân)
11.Rio de Janeiro is an exciting city.
a. interesting b. dangerous c. boring d. expensive
12.The beaches in Sydney are clean and beautiful.
a. clear b. dirty c. famous d. fresh
13.It’s dangerous to walk around the city at night.
a. safe b. exciting c. cold d. popular
14.The dish is delicious with cheese.
a. tasty b. pleasant c. fatty d. awful
15.York is a historic city in North Yorkshire.
a. exciting b. modern c. famous d. quiet
16.The streets were very noisy throughout the night.
a. crowded b. busy c. quiet d. empty
17.That modern building is so ugly!
a. big b. impressive c. unattractive d. beautiful
18.We didn’t go camping last weekend. The weather was awful.
a. unpleasant b. nice c. bad d. terrible
IV. Write the comparative or superlative of the adjectives in brackets.
19.It’s today ____________ than it was yesterday. (warm)
20.Rio de Janeiro is one of ____________ cities in the world. (beautiful)
21.The second question was ____________ than the first one. (difficult)
22.Australia is ____________ continent on Earth. (old)
23.China is ____________ country in the world. (populated)
24.My exam results were ____________ than I expected. (bad)
25.Ms. Nicholson is ____________ teacher I’ve ever known. (good)
26.The city is ____________ than it used to be. (crowded)
27.Tokyo is still the world’s ____________ city with 37 million inhabitants. (large)
28.Cool Blue Villa is one of ____________ houses ever built. (modern)
Câu trả lời của bạn: 18:08 12/04/2021
1. D
2. C
3. C
4. D
5. A
6. B
7.D
8. B
9. D
10. D
11.C
12. B
13. A
14. D
15. B
16. C
17. D
18. B
19. warmer
20. the most beautiful
21. more difficult
22. the oldest
23. the most populated
24. worse
25. the best
26. more crowded
27. the largest
28. the most modern
ĐƠN VỊ 9: CÁC THÀNH PHỐ TRÊN THẾ GIỚI I. Chọn từ có phần gạch chân được phát âm khác với những từ khác. 1. a. giải thưởng b. kích thích c. thiết kế d. thủ đô 2. a. lạnh lùng b. ảnh c. lục địa d. áp phích 3. a. thành phố b. vốn c. tốt đẹp d. kích thích 4. a. được thiết kế b. nhận được c. theo chu kỳ d. được thưởng 5. a. ngày mai b. tháp c. đám đông d. xung quanh II. Khoanh tròn số lẻ ra ngoài. 6. A.Mexico B. Châu Á C. Nam Phi D. Châu Úc 7. A.Amsterdam B. Stockholm C. Thụy Điển D. Rio de Janeiro 8 A.sunny B. ngon C. vẩn đục D. khủng khiếp 9. A.Times Square B. Big Ben C. Merlion D. Dickens 10. Đức B. Mỹ C. Ý D. Anh III. Chọn từ trái nghĩa với từ gạch chân. (Chọn từ trái nghĩa với từ chân) 11.Rio de Janeiro là một thành phố thú vị. a. thú vị b. nguy hiểm c. nhàm chán d. đắt 12. Các bãi biển ở Sydney rất sạch và đẹp. a. rõ ràng b. bẩn thỉu c. nổi tiếng d. tươi 13. Đi dạo quanh thành phố vào ban đêm rất nguy hiểm. a. an toàn b. thú vị c. lạnh lùng d. phổ biến 14. Món ăn với pho mát rất ngon. a. ngon b. d
Câu trả lời của bạn: 18:07 12/04/2021
Tên tôi là Duyên và tôi đến từ Daegu, Hàn Quốc. Mùa thu yêu thích của tôi là mùa thu vì những chiếc lá rực rỡ sắc màu trông rất đẹp và tiếng ong nhẹ nhàng thật thư thái. Một trong những điều yêu thích của tôi vào mùa thu là về thăm nhà ông bà của tôi. họ có rất nhiều thứ vợ ruộng một con bù nhìn đáng sợ trong bờ vực. Gia đình tôi và tôi đến đó vào mùa thu hàng năm và ở lại khoảng một tuần để thu hoạch ngô và lúa. Ông bà tôi luôn nấu những ly sữa ngon lành cho chúng tôi Đó chính là lý do tại sao cứ mỗi lần rơi vào hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay lại có một chút xuề xòa?
Câu trả lời của bạn: 18:05 12/04/2021
Đề 1: Theo hiểu biết của anh / chị, thì hình thức học theo tín chỉ có còn tồn tại trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay không?
-Nếu bạn nói không, hãy viết một đoạn văn 200 từ để hỗ trợ ý tưởng của bạn
-Nếu nói đúng, hãy viết một đoạn văn 200 chữ về nguyên nhân, tác dụng chính và gợi ý giải pháp cho vấn đề trên.
Câu trả lời của bạn: 17:37 12/04/2021
Có ý kiến cho rằng việc "cho phép học sinh sử dụng điện thoại thông minh trong giờ học dưới sự kiểm soát của giáo viên" mang lại cả lợi thế và bất lợi. Ý kiến của bạn về vấn đề này là gì? đưa ra các bằng chứng và giải thích có liên quan của bạn để biện minh cho ý kiến của bạn
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 21:41 11/04/2021
Trong một lần đi chợ cùng mẹ ngày cuối tuần, em đã được mẹ mua cho một chú thỏ trắng rất đáng yêu. Vì em rất thích thỏ nên khi mẹ mua tặng cho em, em đã rất vui sướng. Chú thỏ của em có màu trắng như tuyết, bộ lông dày và rất mềm mại, mỗi khi chơi đùa cùng chú thỏ, vuốt ve bộ lông của chú em đều cảm thấy rất thoải mái. Chú thỏ có hai chiếc tai rất dài ở trên đầu, chiếc mũi nhỏ xinh, chiếc miệng nhỏ nhưng có hai chiếc răng dài trông rất đáng yêu.
Đôi mắt của chú thỏ rất tròn và to, lúc nào cũng long lanh sáng. Chú thỏ có bốn chân nhỏ xinh có thể chạy nhanh thoăn thoắt. Chú thỏ của em rất hiền lành và ngoan ngoãn, khi được em ôm thì chúng nằm rất ngoan, thỉnh thoảng còn dùng chiếc lưỡi nhỏ liếm liếm vào tay em làm em rất nhột. Thỏ cũng có rất nhiều màu khác nhau như màu xám, nâu xám, nhưng em thích nhất là những chú thỏ màu trắng vì em thấy màu trắng làm cho chú thỏ đáng yêu và d
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 21:36 11/04/2021

Một cuốn sách ghép bằng tre (bản chép lại của Binh pháp Tôn Tử) của Trung Quốc trong bộ sưu tập của Học viện California

Sách đồng của vương triều
Câu trả lời của bạn: 21:17 11/04/2021
Đổi đơn vị sau:
a. 0,2A= 200 mA
b. 500 kV= 500000 V
c. 25 mA= 0,025 A
d. 56 mV= 0,056🤡 V
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 15:07 03/04/2021
Đầu tiên, các em phải lập một kế hoạch nếu thật sự muốn đạt được điều mình mong đợi! Hãy vẽ ra cho mình một tiến trình và thời gian cụ thể để mình có động lực phấn đấu.
Hãy làm tiến trình như một thời gian biểu hằng ngày của các em. Dán lên những nơi d
Câu trả lời của bạn: 18:07 02/04/2021
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 18:02 02/04/2021
Tom & Jerry is an American animated series was shown on television and theater genres from short films to feature film. Produced by William Hanna and Joseph Barbera for MGM studios, film is endless confrontation between cats Tom and Jerry smart mouse brings endless laughs for the audience. Hanna and Barbera wrote the script and directed the episode 114 Tom & Jerry at MGM studios in the period from the 1940s until 1957 (the year of its animation studio closed). The original version of Tom & Jerry won the Oscar for animated short film category 7 times. Tom & Jerry has a large audience worldwide with all components from the children to youths, adults, and is recognized as one of the cinema legend lives on in public and historic power American English. In 2000, TIME magazine announced Tom & Jerry is one of the best TV shows of all time.
Starting in 1960, to continue the success of the first 114 episodes, MGM has the right to produce the film company run by Rembrandt in the Nordic Gene Deith. Then came 1963 film was assigned to a Hollywood studio that SOB-Tower 12 of Chuck Jones. The series ended in 1967 bringing the total number to 161. The latter set to cater to the cartoon channel, two manufacturers Hanna-Barbera initially continued Tom & Jerry producer in the 70s until the early 90. and next year it's two Tom & Jerry-length film debut as Tom and Jerry: the movie in 1993 and Tom & Jerry: the Mansion Cat in 2000. the episode is the latest Tom & Jerry episode The Karate Guard has premiered in Los Angeles on 27.12.2005. Currently, Time Warner copyright holder Tom & Jerry producer.
Dịch
Tom & Jerry là một sê -ri phim hoạt hình của Mỹ được chiếu trên truyền hình và các thể loại chiếu rạp từ phim ngắn đến phim truyện. Được sản xuất bởi William Hanna và Joseph Barbera hãng phim MGM, phim là cuộc đối đầu bất tận giữa mèo Tom và chú chuột thông minh Jerry mang đến những tràng cười không ngớt cho khán giả. Hanna và Barbera đã viết kịch bản và đạo di
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 17:56 02/04/2021
* Giới thiệu vài nét về tác giả, hoàn cảnh sáng tác hai bài thơ, trích dẫn nhận định.
* Giải thích:
- Tâm hồn nghệ sĩ: Là tâm hồn của con người có tình yêu tha thiết, sống giao hòa với thiên nhiên, có những rung cảm tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
- Cốt cách chiến sĩ: Là lòng yêu nước, phong thái ung dung lạc quan của người chiến sĩ.
* Chứng minh:
1. Vẻ đẹp tâm hồn nghệ sĩ
- Đó là rung cảm về âm thanh của tiếng suối từ xa vọng lại đồng thời cũng là sự say mê của tác giả trước vẻ đẹp của đêm trăng
+ Trong bài “Cảnh khuya”: Đêm trăng giữa rừng Việt Bắc, ánh trăng tỏa xuống vòm cây cổ thụ, bóng cây in xuống mặt đất như muôn ngàn bông hoa lung linh huyền ảo, điệp từ “lồng” tạo cho bức tranh như có thần bậc, giao hòa quấn quýt.
+ Trong bài “Rằm tháng giêng”: Vầng trăng đêm rằm sáng vằng vặc, soi tỏ khắp không gian. Điệp từ “xuân” được lặp lại ba lần tạo nên một vũ trụ tràn đầy sức xuân.
-> Đằng sau bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp là tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, sự rung cảm tinh tế của thi sĩ Hồ Chí Minh.
2. Cốt cách chiến sĩ
- Cốt cách chiến sĩ thể hiện ở lòng yêu nước:
+ Nỗi niềm băn khoăn trăn trở cho vận mệnh của đất nước, thức tới canh khuya lo việc nước.
- Cốt cách chiến sĩ thể hiện ở tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác:
+ Cả hai bài thơ đều được làm trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ nhưng trong cả hai bài ta đều bắt gặp hình ảnh của Bác với phong thái thật ung dung, lạc quan.
+ Phong thái này thể hiện ở những rung cảm tinh tế trước thiên nhiên đất nước. Mặc dù ngày đêm lo nghĩ việc nước, nhiều đêm không ngủ nhưng tâm hồn Người vẫn hướng lòng mình về vẻ đẹp đêm trăng.
+ Đêm trăng rằm tháng Giêng đầy sức sống, trong trẻo, tươi sáng, rộng lớn. Đằng sau bức tranh ấy là tinh thần lạc quan, phong thái bình tĩnh ung dung tự tại của người chiến sĩ cách mạng.
+ Niềm lạc quan cách mạng còn được thể hiện ở hình ảnh con thuyền lướt phơi phới trên dòng sông, chở đầy ánh trăng -> Vẻ đẹp của tạo vật còn là một ẩn dụ cho tình hình kháng chiến đầy triển vọng lúc bấy giờ. Đồng thời thể hiện hình ảnh của người chiến sĩ luận bàn việc quân trong giây phút trở thành thi sĩ – một tao nhân mặc khách giữa thiên nhiên.
* Đánh giá: Hai biểu hiện trong vẻ đẹp tâm hồn của Bác có sự hòa hợp thống nhất một cách tự nhiên, không tách rời. Đây là vẻ đẹp trong thơ người cũng là vẻ đẹp nhất quán trong con người Bác: Tâm hồn nghệ sĩ và cốt cách người chiến sĩ.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 17:55 02/04/2021
** Bạn tham khảo dàn ý và bài viết dưới đây nhé **
* Dàn ý
A. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu nhận định
- Dẫn dắt vấn đề
B. Thân bài
1. Giải thích
- Tâm hồn nghệ sĩ: là tâm hồn của con người có tình yêu tha thiết, sống giao hòa với thiên nhiên, có những rung cảm tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
- Cốt cách chiến sĩ
2. Bàn luận
a. Cốt cách của người chiến sĩ
- Luôn có lòng yêu nước nồng nàn, hi sinh tuổi thanh xuân của bản thân vì lý tưởng, độc lập, tự do của quê hương, đất nước.
- sự ung dung, lạc quan, luôn tin vào một tương lai tốt đẹp của bác.
b. Tâm hồn nghệ sĩ
- Sự say mê, đắm chìm trong cảnh thiên nhiên, đất nước.
- Sự rung cảm trước cảnh đẹp thiên nhiên, khắc hoạ thiên nhiên qua ngòi bút, câu từ mộc mạc, giản dị, quen thuộc.
C. Kết bài
- Đánh giá chung
- Suy nghĩ của bản thân
** Bài viết tham khảo
Những người yêu thơ của tác giả Hồ Chí Minh có thể d
Câu trả lời của bạn: 17:51 02/04/2021
Câu ca dao xưa của các bậc tiền nhân để lại luôn luôn là những lời khuyên hay là những bày tỏ cảm xúc của người đi trước. Câu ca dao:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Như đã trở thành bài hát ngân nga khắp nơi như một lời nhắn gửi những người dân nước Việt hãy giữ vững truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Đó chính là sự thương yêu đùm bọc và giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống.
Ta đã biết được rằng chính trái bầu và bí hai giống cây khác nhau nhưng được người nông dân xưa và nay cũng đã biết và trồng chung trên một rẻo đất ở bờ ao, góc vườn. Hai loại cây này thông thường leo chung một giàn tre. Có lẽ chính vì được leo chung mọt dàn như vậy cho nên bầu và bí trở nên gần gũi, thân thiết. BBầu và bí như đã cùng chung một điều kiện sống, cùng chung một số phận nên bầu và bí thường quấn quýt với nhau. Bầu cũng chớ có nên chê bí xấu hơn bầu, bí cũng chớ chê bầu vì hoa bí thì vàng còn hoa bầu thì trắng. Ngoài ra thì quả bí thì tròn, quả bầu thì dài để rồi ganh ghét mà lại như xa lánh nhau.
Vì sao vậy? Câu hỏi này là một câu hỏi thường trực với tất cả chúng ta. Ta như biết đực rằng, chính bầu và bí được xem là hai giống riêng biệt. Tuy chúng khác nhau nhưng cùng chung một họ. Cây bầu và bí leo chung một giàn để cùng ra hoa kết trái và nghĩa bóng sau đó tức là cùng chung cảnh ngộ, và đồng thời cũng chung số phận. Đặc biệt là khi mà mưa thuận gió hòa, bầu bí không ai có thể tránh khỏi mà cùng hưởng chung. Có những lúc mà gặp khi nắng hạn bầu bí cùng chung sức chịu đựng. Và nếu như mà chẳng may gặp cơn gió bão to lớn ập đến thì thân bí giập, quả bí rụng đi. Khi bí bị gặp khó khăn như vậy mà chẳng lẽ bầu một mình tươi tốt như xưa được chứ?
Câu ca dao như một bài hát gần gũi, đem chuyện nói về bầu, bí nhưng chắc chắn là nói chuyện của chính con người, hay xa hơn, khái quát hơn đó chính là câu chuyện cuộc đời. Ông cha quả nhiêu đã có tầm nhìn xa trông rộng và cũng đã khuyên con cháu một lời khuyên chân thành. Ta như nhận thấy được lời khuyên này dường như thật kín đáo mà tha thiết, tế nhị qua hai câu ca dao đặc sắc này.
Chúng ta cũng nên biết được rằng, chúng ta khi sống ở trên đời, không ai giống ai. Và mỗi một con người có một nguồn gốc, hoàn cảnh cũng như có những điều kiện sống riêng. Tuy vậy, chúng ta cũng cần phải khẳng định người ta vẫn có những chỗ giống nhau. Ta như thấy được anh em ruột thịt có chung cha mẹ. Cũng có thể là bạn bè cùng lứa cùng chung trường, chung lớp, cùng học chung thầy cô, chung sách vở. Thế rồi có cả những người hàng xóm láng giềng chung đường đi lối lại. Thực sự dù có khác nhau về điều kiện làm ăn, cho dù khác nhau về cả lứa tuổi, ngành nghề,…nhưng có lẽ rằng tất cả đều chung một quê hương, đất nước.
Trong cuộc đời ta như thấy được sẽ có những cảnh ngộ chung, những nét tương đồng giữa người với người đã làm nên mối quan hệ ràng buộc. Đó có thể là những sự gắn bó, là cơ sở gần gũi, cảm thông. Chính vì những cái chung ấy mà mỗi người phải biết thương yêu nhau hơn và họ như cũng đã biết đùm bọc, biết nhường nhịn, chia sẻ để công việc chung được tốt được tốt đẹp. Bên cạnh đó ta như thấy được cả cảnh ngộ chung được cải thiện, hạnh phúc chung được bảo tồn. Qủa thực trong cuộc sống không ai có thể sống riêng lẻ, tách biệt vì tình thương yêu. Sống tách biệt làm sao được sự chia sẻ ngọt bùi sẽ làm cho con người gắn bó với nhau hơn, cuộc sống của mỗi người sẽ tốt đẹp hơn rất nhiều.
Trong lịch sử của đất nước đau thương mang tên Việt Nam thì luôn có người sang, kẻ hèn; người giàu, kẻ nghèo hay có cả những người hạnh phúc, kẻ bất hạnh… nhưng dường như chúng ta đều thấy được tất cả đều chung nỗi khổ mất nước, nỗi nhục nô lệ, chung một mong ước độc lập, tự do. Có lẽ chính vì vậy, tất cả mọi người đã đoàn kết lại thành một khối thống nhất tạo lên được sức mạnh tổng hợp để chống quân cướp nước. Đó chắc chắn cũng chính là nhu cầu tình cảm tự nhiên và cũng là điều kiện sống còn trước sự ức hiếp, đe dọa của kẻ thù cướp nước.
Dân tộc Việt Nam ta từ bao đời nay cũng đã chủ yếu sống bằng nghề nông. Trong sản xuất, thì không thể tránh khỏi được thời tiết. Thời thời tiết ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả thu hoạch. Nếu như mà mọi người không chung sức đắp đê chống lụt, và cùng chung tay để có thể trồng rừng ngăn lũ thì khó có thể bảo vệ được mùa màng, thành quả lao động một nắng hai sương. Thế rồi ta như thấy được ngay trong điều kiện sống khắc nghiệt như thế, nếu không biết nương tựa lẫn nhau thì làm sao tồn tại nổi. Có lẽ ta như hiểu được chính mối quan hệ chặt chẽ đã làm cho lòng thương người nảy nở và người Việt Nam dường như cũng đã coi đó là một truyền thống quý báu truyền từ đời này sang đời khác.
Cuộc sống hiện đại có rất nhiều điều thay đổi, thế rồi ngay cả con người hiện đại chú ý nhiều đến cái riêng, và con người cũng đã quan tâm đến cá nhân mình những truyền thống đoàn kết, nhân ái dường như vẫn vẹn nguyên và luôn có giá trị trường tồn. Chính nhờ đó mà cuộc sống của chúng ta thêm đẹp, thêm ý nghĩa biết bao nhiêu như trong lời dạy của ông cha ta qua câu ca dao:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.💯