
KAYROSS
Bạch kim đoàn
2,660
532
Câu trả lời của bạn: 08:47 06/02/2023
1.1. Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế giới, tồn tại rất lâu đời với hệ thống giáo lý đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo Phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người Việt, bên cạnh đạo Nho, đạo Lão và đạo Thiên chúa.
Tuy nhiên, tùy ở từng giai đoạn lịch sử của dân tộc mà học thuyết tư tưởng, tôn giáo này hay học thuyết tư tưởng, tôn giáo khác nắm vai trò chủ đạo, có tác động mạnh đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của người Việt, như Phật giáo ở thế kỷ thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin từ giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX. Cho đến nay, những học thuyết này không gi ữ địa vị độc tôn mà song song cùng tồn tại với các học thuyết, tôn giáo khác, tác động vào đời sống xã hội.
1.2. Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận soi đường cho chúng ta. Nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng, tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể, nên chúng ta cần vận dụng một cách phù hợp để góp phần đạt được mục tiêu của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Do đó, việc tìm hiểu nghiên cứu Phật giáo đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt tiến bộ cũng như hạn chế, Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một phương cách để hướng đạo cho con người một cách chân chính, đúng đắn. Theo đạo để làm điều thiện, tránh cái ác.
Hơn nữa quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy, khi nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật giáo và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Tóm lại, nghiên cứu Phật giáo và nhìn nhận, đánh giá nó là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.
2.Vài nét về tư tưởng Phật giáo
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Tất đạt đa - con trai Trịnh Phạn Vương vua nước Trịnh Phạn - một nước nhỏ thuộc Bắc Ấn Độ ngày nay. Đạo phật chính là giáo lý mà Phật Đà đã thuyết giảng.
Tư tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh điển rất lớn, tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm: tạng luật, tạng kinh và tạng luận.
2.1. Tư tưởng triết học Phật giáo thể hiện trên hai phương diện: Bản thể luận và nhân sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ (chử pháp) là vô thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục (vô thường) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều thuộc về một giới (vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp (mỗi một sự việc hiện tượng, hay một lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua lại và qui định lẫn nhau.
Tác phẩm “ thanh dung thực luận” của kinh Phật viết rằng: “Có người cố chấp là có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào cũng thường định ra chu pháp”(1) đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều chi phối bởi luật nhân quả, biến hoá vô thường, không có cái bản ngã cố định, không có cái thực thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả. Tất cả đều theo luật nhân quả biến đổi không ngừng và chỉ có sự biến hoá ấy là thường còn (vĩnh viễn). Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới... Cứ thế nối nhau vô cùng vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài, cứ sinh sinh, hoá hoá mãi.
Như vậy, ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới của các “đấng tối cao” của “Thượng đế” và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự thường hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó không dừng lại ở bất kỳ hình thức nào. Nó muôn hình vạn trạng nhưng lại tuân hành nghiêm ngặt theo luật nhân quả.
Do qui luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không ngừng, thành, trụ, hoại, diệt (sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt vong). Quá trình đó phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi chất lượng của sự vật và hiện tượng.
2.2. Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thường của vạn vật, đã xây dựng nền thuyết “nhân duyên”.
Trong thuyết “nhân duyên” có ba khái niệm chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên. Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được gọi là Nhân. Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả. Duyên: là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự biến chuyển của vạn Pháp.
Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây lúa sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và những mối liên hệ thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những yếu tố đó chính là Duyên.
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô thường của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lai. Phật giáo đã trình bày thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” ( mười hai quan hệ nhân duyên) được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách tất yếu của sự liên kết nghiệp quả.
Vô minh: là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng tỏ.
Hành: là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo ra cái nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho vô minh và là nhân cho Thức.
Thức: là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả cho hành và làm nhân cho Danh sắc.
Danh sắc: là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên của ta. Do danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân cho Lục xứ.
Lục xứ hay lục nhập: là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai, thân và tri thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục nhập mà có xúc - tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho Xúc.
Xúc: là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên cmở rộng xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân cho Thụ.
Thụ: là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình. Do thụ mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho Ái.
Ái: là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái làm quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ.
Thủ: là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ làm quả cho ái và làm nhân cho Hữu.
Hữu: là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái nghiệp. Do Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh.
Sinh (Hiện hữu): là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm súc sinh. Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử.
Lão tử: là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết. Nhưng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái nghiệp rơi vào vòng luân hồi (khổ não
Thập nhị nhân duyên như nước chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn, không bao giờ ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau lại mà sinh mãi gọi là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả cho đoạn trước, rồi lại do các duyên mà làm nhân cho đoạn sau. Bởi 12 nhân Duyên mà vạn vật cứ sinh hoá vô thường.
Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ thế giới không tính đến cái lớn nhỏ, không tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một hạt cát nhỏ được tạo thành trong mối quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ hoà hơp tạo nên nó. Cũng như nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ bao la. Trong một có tất cả, trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh hay diệt. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt,
Vạn vât sinh hoá vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau mà ra. Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dòng biến hoá vô tận vô thường, vô thực thể, vô bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vô thường của vạn vật, vạn sự theo nhân duyên là thường còn không thay đổi.
Do vậy toàn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng chỉ là dòng biến hoá hư ảo vô cùng, không có gì là thường định, là thực, là không thực có sinh, có diệt, có người, có mình, có cảnh, có vật, có không gian, có thời gian. Đó chính là cái chân lý cho ta thấy được cái chân thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy được điều đó gọi là “ chân như” là đạt tới cõi hạnh phúc, cực lạc, cõi niết bàn.
2.3. Thế giới của chúng sinh (loài người) cũng do nhân duyên kết hợp mà thành. Đó là sự kết hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý.
Cái tôi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố “ sắc” ( địa, thuỷ, hoá, phong ) tức là cái cảm giác được.
Cái tôi tâm lý (tinh thần) linh hồn tức là “tâm” với 4 yếu tố chỉ có tên gọi mà không có hình chất gọi là “ Danh”.
Trong “Sắc’ gồm những cái nhìn thấy được cũng như những thứ không nhìn thấy được nếu nó nằm trong quá trình biến đổi của “sắc” gọi là “vô biến sắc” như vật chất chuyển hoá thành năng lượng chẳng hạn. Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý (tinh thần) của con người là:
Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng, đưa đến sự xúc chạm lĩnh hội thân hay tâm.
Tưởng: Suy nghĩ, tư tưởng.
Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
Thức: Nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta.
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân - Duyên tạo thành mỗi sinh vật cụ thể có danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ uẩn thì là diệt. Quá trình hợp tan ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng tận.
Các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn luôn biến hoá theo qui luật nhân hoá không ngừng không nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt còn. Không có sự vật riêng biệt, cố định, không có cái tôi, cái tôi hôm qua không còn là cái tôi hôm nay. Kinh Phật có đoạn viết “ Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc là không, không là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.
Như vậy, thế giới là biến ảo vô thường, vô định. Chỉ có những cái đó mới là chân thực, vĩnh viễn, thường hằng. Nếu không nhận thức được nó thì con người sẽ lầm tưởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thường định, cái gì cũng của ta. Do đó, mà con người cứ khát ái, tham dục cứ mong muốn và hành động chiếm đoạt tạo ra kết quả mà kết quả đó có thể tốt, có thể xấu gây nên nghiệp báo, rơi vào bể khổ triền miên không bao giờ dứt.
2.4. Sở dĩ có nỗi khổ là do qui định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta không thấy được cái luật nhân bản của mình (bản thể chân thực). Khi đã mắc vào sự chi phối của Luật Nhân - Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp luân hồi, luân chuyển tuần hoàn không ngừng, không dứt.
Nghiệp và luân hồi không những chỉ là những khái niệm của Triết học Phật giáo mà có từ trong Upanishad.
Nghiệp chữ phạn và Karma là cái do những hoạt động của ta, do hậu quả việc làm của ta, do hành động của thân thể ta. Được gọi là “thân nghiệp”, còn hậu quả của những lời nói của ta, phát ngôn của ta thì được gọi làg “khẩu nghiệp”. Hay những cái do ý nghĩ của ta, do tâm tuệ của ta gây nên được gọi là ‘ý nghiệp”. Tất cả những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là do ta tham dục mà thành, do ta muốn thoả mãn tham vọng của mình gây nên. Sở dĩ ta tham dục vì ta chưa hiểu đươc chân bản vốn có của ta cũng như vạn vật là luôn luôn biến đổi không có gì là thường định và vĩnh viễn cả.
Cuộc đời con người là sự ghánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời và các kiếp sống trước rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.
Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong hiện tại cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu hay tốt, thiện hay ác.
Luân hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo phật cho rằng, sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể xác và đầu thai vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có thể là con người, loài vật thậm chí cỏ cây). Cứ thế mãi do kết quả, quả báo hành động của những kiếp trước gây ra. Đó cũng là cách lý giải căn nguyên nỗi khổ ở đời con người.
2.5. Sau khi lý giải được nỗi khổ ở cuộc đời con người là do “ thập nhị nhân duyên” làm cho con người rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chương tìm con đường diệt khổ. Con đường giải thoát đó không những đòi hỏi ta nhận thức được nó mà cao hơn ta phải hành động, phải thấm nhuần tứ diệu đế.
Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng sinh phải thấu hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:
Khổ đế: Con người và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu là khổ, chết là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau mà phải chia lìa nhau là khổ, mất là khổ mà được cũng là khổ.... Những nỗi khổ ấy từ đâu? chúng ta tiếp tục tìm hiểu Tập đế.
Tập đế: Tập hợp, tụ tập lại mà thành, tạo ra nỗi khổ cho chúng sinh.
Đó là do con người có lòng tham, dâm (giận dữ), si (si mê, cuồng mê, mê muội) và dục vọng. Con người bị lòng tham và dục vọng xâu xé là do không nắm được nhân duyên vốn như là một định luật chi phối toàn vũ trụ. Chúng sinh khômg biết rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắc, không không. Cái tôi tưởng là có nhưng thực là không. Vì không hiểu được ra nỗi khổ triền miên, từ đời này qua đời khác.
Diệt đế: Là phải thấu hiểu được “ Thập nhị nhân duyên” để tìm ra được căn nguyên của sự khổ - để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái khổ. Thực chất là thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, sinh tử.
Đạo đế: Là con người ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy nghĩ trong thế giới nội tâm (thực nghiệm tâm linh). Tuy luyện tâm trí, đặc biệt là thực hành YOGA để đạt tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi phận là đạt tới trình độ giác ngộ bát nhã. Tới chừng đó sẽ thấy được chân như và thanh thản tuyệt đối, hết ham muốn, hết tham vọng tầm thường, tức là đạt tới cói “niết bàn” không sinh, không diệt.
Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật tập trung thiên định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con đường hay 8 nguyên tắc (Bát chính đạo) buộc ta phải tuân thủ bát chính đạo gồm:
Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt được phải trái
Chính tư duy: Suy nghĩ phải chính, phải đúng đắn.
Chính nghiệp: Hành động phải chân chính.
Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối
Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà.
Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vươn lên.
Chính niệm: Phải luôn luôn hướng về đạo lý chân chính.
Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chân chính.
Muốn thực hiện được “ Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực hiện nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người làm điều thiện có lợi ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương pháp đó là thực hiện “ Ngũ giới” (năm điều răn) và “Lục độ” (Sáu phép tu).
“Ngũ giới” gồm:
Bất sát: Không sát sinh
Bất đạo: Không làm điều phi nghĩa.
Bất dâm: Không dâm dục.
Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan cho người khác.
“Lục độ” gồm:
Bố thí: Đem công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn.
Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng.
Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, không để cho cái xấu che lấp.
Bát nhã: Trí tuệ hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế gian.
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát hành đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra khỏi nỗi khổ. Phật giáo không chủ trương giải phóng bằng cách mạng xã hội. Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ người bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm cua Bàlamôn giáo. Đó là một trong những nhược điểm đồng thời cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của chúng sinh Phật giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực. Như vậy Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo (vô ngã, vô tạo giả) và có tư tưởng biện chứng (vô thường, lý thuyết Duyên khởi). Tuy nhiên, Triết học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và do cái tâm vô minh của con người tạo ra.
3. Ảnh hưởng của phật giáo đến xã hội Việt Nam
3.1.Phật giáo là một tôn giáo gần gũi và dễ hoà hợp với tín ngưỡng dân gian người Việt. Ở miền bắc đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn giáo Việt Nam là sự thờ cúng tổ tiên (linh hồn người thân đã khuất) thì Phật hay quan âm cũng được coi là một thứ tổ tiên (trong tâm thức dân gian Việt cổ, Phật hay quan âm không phải là người “ngoại quốc, người khác tộc). Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần (thế lực siêu nhiên) mà con người cũng cần để nhờ sự “phù hộ độ trì” thì Phật hay quan âm cũng trở thành một vị thần, phật điện cũng trở thành thần điện, tính tâm linh Ấn Độ nhường bước cho tính tình Việt Nam. Hơn đâu hết, tôn giáo Việt Nam nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý.
Chính vì gần gũi và dễ hòa hợp nên tín ngưỡng đạo phật và tín ngưỡng thờ thần của người Việt có nhiều nét giống nhau song không phải là một.
Bụt giống Phật ở lòng từ bi, bác ái, vị tha đối với những người bị áp bức bóc lột. Nhưng Bụt khác Phật ở chỗ bất kỳ người nghèo nào gặp tai nạn, gặp áp bức bất công mà cần tới bụt, bụt lập tức xuất hiện ngay để cứu vớt. Còn Phật gần gũi, công bằng với tất cả chúng sinh vì phật không hề chia cấp bậc. Có lẽ ngày xưa chưa có một người dân bình thường nào nghĩ đến khái niệm bình đẳng. Với phật, không ai tiểu nhân,cũng chẳng có ai quân tử. Cũng không có quân, không có dân, chia cắt nhau bằng các hàng rào cấp bậc giai cấp. Với phật, còn cả một niềm từ bi bác ái, không có hằn học, oán ghét, thù hận. Đó cũng là điều phù hợp với nếp nghĩ của người Việt.
Phật kêu gọi sự tự giác không những để giải quyết nỗi khổ của mình mà còn phải cứu nhân độ thế .
Chăc chắn trong tư duy của người dân bình thường, chưa ai băn khoăn tìm hiểu thế nào là bản ngã, người ta chỉ thấy ở đây một chủ nghĩa nhân đạo lớn lao. Phải chăng, đây là những điểm chính yếu làm cho phật giáo gắn bó được với quần chúng.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ hôm nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai.
Cô Tấm trong cổ tích trải qua bao gian nan cuối cùng vẫn được hưởng hạnh phúc. Phật giáo cũng hứa hẹn với con người sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào của nho giáo, cũng không do cán cân phúc tội của đạo gia, mà do chính nỗ lực của bản thân mình. Tâm lý người Việt Nam ta phần nhiều cũng quan niệm nhận thức như vậy, mà chăc chắn không phải vì do họ quán triệt thuyết bát chánh đạo của nhà thiền.
Tuy nhiên, không phải phật giáo đi được vào quần chúng, và có một sự gắn bó sâu sa nhất định mà không một sự thẩm định, lựa chọn nào. Dân gian xưa không có điều kiện hay trình độ để làm việc ấy, song khi họ chấp nhận, chối bỏ hoặc biến hóa những giáo lý để thích nghi với trình độ tư duy, với các sinh hoạt của họ tức là họ đã “lộ” cái ý đồng hay không đồng. Có thể nói rằng, văn hoá Việt Nam hoá phật hơn là phật hoá. Phật giáo đến Việt Nam dù là phật giáo nguyên thuỷ hay đa dạng sau này bởi tiểu thừa hay đại thừa thì vẫn phải nhập với tín ngưỡng bản địa. để biến Man Nương thành Phật Mẫu, Ỷ Lan thành Quan Âm mà không cần phải tạo ra xung quanh nhân vật ấy những gì huyền bí thần kỳ cho lắm.
Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức, kết hợp với tín ngưỡng bản địa, hội hè.
Nhà sư và ngôi chùa có vai trò quan trọng trong đời sống dân gian cổ truyền. ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa. Ngoài thờ Phật, chùa còn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng có công với nước. Ngôi chùa trở thành một trung tâm văn hoá làng. Có thể nói Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc. Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn hoá khô cứng thì Phật giáo có phần làm mềm hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được giải phóng tình cảm, hoà cái ta của mình vào cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết tâm hồn. Dưới mái nhà chùa mà vẫn được phép giao lưu tình cảm. Chả thế mà bao nhiêu câu chuyện tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi không hề nghiêm ngặt như chốn sân Trình cửa Khổng. Phật chứng nhận cho cuộc sống hồn nhiên của làng xã.
Do Phật giáo bám sâu vào làng xã nên có sức sống lâu bền và tương đối ổn định. Vào thời kỳ Lý Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước nâng đỡ, từ thời Hồ và Lê sơ về sau Phật giáo bị giảm sút ( Nho giáo ở vị trí thống trị và chi phối), nhưng Phật giáo vẫn cứ duy trì và mở rộng khắp nông thôn, bởi lẽ Phật giáo có sơ sở làng xã vững vàng.
Phật giáo Việt Nam đã trải qua một vận mệnh thịnh suy, Đạo phật có thể mất đi như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh tuý của văn hoá Phật giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi mãi trường tồn.
Trong mấy chục năm lại đây Phật tử Việt Nam rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày lễ, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện. Việc ăn chay hàng tháng trở thành thói quen không thể thiếu của người theo Đạo Phật. Mặt khác, nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu siêu, giản oan,... Tất cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
3.2.Chúng ta cũng có thể thấy rằng tư tưởng Phật giáo có ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Ở các trường phổ thông, tổ chức đoàn, đội luôn phát động các phong trào nhân đạo như “ Lá lành đùm lá rách”, “ quỹ giúp bạn nghèo vượt khó”, “quỹ viên gạch hồng”… Ngay từ nhỏ các em học sinh đã được giáo dục tư tưởng nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con người Việt Nam. Lên đến cấp III và vào Đại học, những thanh thiếu niên có những hoạt động thiết thực hơn. Việc giúp đỡ người khác không phải hạn chế ở việc xin bố mẹ tiền để đóng góp mà có thể bằng chính kiến thức, sức lực của mình. Sự đồng cảm với những con người gặp khó khăn, những số phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác ái đã giúp những học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường có đủ nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào những hoạt động thiết thực như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn hoá cho trẻ em nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt Nam nghèo... Hình ảnh hàng đoàn thanh niên, sinh viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp phần xây dựng đất nước, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào. Tất cả những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ năng động, sáng tạo đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt đẹp của ông cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng thương yêu giúp đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn mà không chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp ấy.Chúng ta càng phải nhắc đến giá trị đó trong khi cuộc sống ngày nay ngày càng xuất hiện những hiện tượng tiêu cực. Trong khi có những sinh viên còn khó khăn đã dồn hết sức mình để học tập cống hiến cho đất nước thì vẫn còn một số bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi, làm tiêu tốn tiền bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến, người ta bắt gặp ở các quán bar, sàn nhảy những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố mẹ vào những thú vui vô bổ. Rồi những học sinh, sinh viên lầm đường lỡ bước vào ma tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết bao ông bố bà mẹ cay đắng nhìn những đứa con của mình bị chịu hình phạt trước pháp luật. Thế hệ trẻ ngày nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút bởi những thứ ăn chơi sa đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng. Hơn bao giờ hết việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và một trong những phương pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh thần cũng như tư tưởng nhà Phật trong thế hệ trẻ. Đó thực sự là công việc cần thiết cần làm ngay.
3.3. Do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết với sự xâm nhậpcủa nhiều trào lưu tư tưởng, học thuyết Phương Tây vào nước ta cách đây vài ba thế kỷ. Đặc biệt là sự giác ngộ lý luận Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã tạo tiền đề xây dựng hệ thống tư tưởng, nguyên tắc hành động cho phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam, lấy đó làm vũ khí chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang. Đảng ta rất chú trọng việc truyền bá học thuyết này cho quần chúng nhân dân nhất là đối tượng thanh thiếu niên, những người chủ tương lai của đất nước. Chính vì vậy, thanh thiếu niên, chúng ta ngày nay khi rời ghế nhà trường được trang bị không những kiến thức để làm việc mà còn cả kiến thức về lý luận chính trị. Điều này giúp ta nhận thức được về cơ bản giữa mô hình lý tưởng nhân đạo của Phật giáo và chủ nghĩa cộng sản là: Một bên là duy tâm, một bên duy vật. Một bên diệt dục triệt để bằng ý chí và coi dục là căn nguyên của mọi tội lỗi, một bên thì cố gắng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người bằng lao động với năng suất và chất lượng cao nhằm cải tạo thế giới, coi đó là tiêu chuẩn đánh giá tính nhân đạo thực sự tiến bộ của xã hội, một bên hứa hẹn một mô hình niết bàn bình đẳng tự do cho tất cả mọi người, từ bi bác ái như nhau, không còn bị ràng buộc bởi các nhu cầu trần tục, còn bên kia khẳng định mô hình lý tưởng cho mọi người lao động, coi lao động là nhu cầu sống chứ không phải phương tiện sống, lao động không còn là nguồn gốc của khổ đau, qua lao động con người hoàn thiện cả bản thân và hoàn thiện cả xã hội.
3.4. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi lĩnh vực trong đời sống con người đều có bước nhảy vọt. Xu thế toàn cầu hoá thể hiện ngày càng rõ nét. Điều kiện đó đòi hỏi con người phải hết sức năng động, nhanh nhạy nắm bắt vấn đề trong cuộc sống. Trong khi đó, theo giáo lý nhà Phật con người trở nên không có tham vọng tiến thân, bằng lòng với những gì mình đã có, sống nhẫn nhục, không đấu tranh, hướng tới cõi niết bàn khi cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Như vậy đạo đức Phật giáo đã tách con người ra khỏi điều kiện thực tiễn của xã hội, làm cho con người có thái độ chấp nhận chứ không phải là cải tạo thế giới. Đạo đức xuất thể của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ không phải chế ngự thiên nhiên, bắt nó phục vụ cho mình. Các chương trình xã hội của Phật giáo không phải cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội bằng đạo đức, trong xã hội đó ai cũng từ bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục... Đạo đức nhà Phật mất dần giá trị cũng chính thái độ yếu thế này, với nhà Phật những nhu cầu về thể xác thì bị coi là trần tục, kém đạo đức, nhất là trong cuộc sống ngày nay, khi mà con người đã đạt được một trình độ nhất định, quan niệm trên càng không thể chấp nhận được. Do đó, ảnh hưởng của Phật giáo càng xa rời thế hệ trẻ.
3.5. Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngày nay trong số những người đi chùa, nhiều người không có đủ tri thức về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một cách tự giác, tích cực trong xã hội và gia đình. Người dân lên chùa thường quá chú trọng đến lễ vật, đến các ham muốn tầm thường. Do không được giáo dục đầy đủ, đúng đắn giáo lý nhà Phật, số đông thanh thiếu niên đã đua theo thị hiếu của mọi người. Họ đến chùa cúng bái, thắp hương vái xin Phật, Bồ Tát, La Hán phù hộ độ trì cho họ đạt được mong muốn của mình. Những mong muốn ấy thường là chuyện học hành, tình cảm, sức khoẻ, vật chất... hoặc hơn nữa, họ coi đến chùa chỉ là hình thức đi chơi, giải trí với bạn bè kèm theo đó là sự thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi đứng, nói năng. Số lượng học sinh, sinh viên nói riêng cũng như số lượng người dân đi chùa gần đây càng đông, song xem ra ý thức cầu thiện, cầu mạnh về nội tâm còn quá ít so với những mong muốn tư lợi. Có rất ít người đến chùa để tìm sự thanh thản trong tâm hồn, để tu dưỡng nghiền ngẫm đạo lý làm người, về thiện - ác. Như vậy, mục đích đến chùa của nột số người dân đã sai lầm so với điều mà giáo lý nhà Phật muốn hướng con người ta vào.
3.6.Thời đại ngày nay, là thời đại phát triển. Nước ta vừa trải qua mấy chục năm chiến tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ quan liêu bao cấp, đời sống còn nghèo nàn, lạc hậu rất đến sự phát triển. Phát triển có nghĩa là sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn hoá. Đảng và Nhà nước đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắt làm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để đạt mục tiêu này nước ta cần có những người năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cảm mở rộng sáng tạo. Vì vậy việc cần làm hiện nay là phải xác định rõ Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của người Việt Nam như thế nào để từ đó đưa ra những chính sách phát triển phù hợp với lòng dân, làm cho xã hội ngày càng phát triển tiến bộ và tốt đẹp hơn.
4. Kết luận
Qua việc tìm hiểu vấn đề chúng ta phần nào hiểu thêm được tư tưởng của Phật giáo. Phật giáo là để độ sinh chứ không phải độ tử, giúp cho chúng ta thức tỉnh, bỏ ác làm lành, vượt qua mọi khổ đau phiền muộn ngay ở trong hiện tại để có một cuộc sống hạnh phúc , an lạc cho dù còn nhiều thiếu thốn về vật chất hay bất cứ một yếu tố khách quan nào đưa lại qua đó cho chúng ta thấy rõ vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng hình thành nhân cách và tư duy con người Việt Nam.
Dù còn những hạn chế song chúng ta không thể phủ nhận những giá trị đạo đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trưng hướng nội của Phật giáo giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của mình để không gây ra đau khổ bất hạnh cho người khác. Nó giúp con người sống thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên bình. Tuy nhiên, để giáo dục nhân cách đạo đức của thế hệ trẻ thì như thế vẫn chưa đủ. Bước sang thế kỷ XXI, chuẩn mực nhân cách mà một thanh niên cần có đòi hỏi phải hoàn thiện cả về mặt thể xác lẫn tinh thần, phải có đủ khả năng chinh phục cả thế giới khách quan lẫn thế giới nội tâm. Đạo đức thế kỷ XXI do vậy có thể khai thác sự đóng góp tích cực của Phật giáo để xây dựng đạo đức nhân văn toàn thiện hơn, tự giác cao hơn vì sang thế kỷ XXI, bên cạnh sự phát triển kỳ diệu của khoa học, những mâu thuẫn, chiến tranh giành quyền lực rất có thể sẽ nổ ra dưới sự hậu thuẫn của khoa học, các loại vũ khí sẽ được chế tạo hiện đại, tàn nhẫn hơn, dễ dàng thoả mãn cái ác của vài cá nhân và nguy cơ gây ra sự huỷ diệt sẽ khủng khiếp hơn. Khi đó đòi hỏi con người phải có đạo đức, nhân cách cao hơn để nhận ra được cái ác dưới một lớp vỏ tinh vi hơn, “sạch sẽ” hơn.
Như vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn tồn tại và gắn liền với cuộc sống của con người Việt Nam. Việc khai thác hạt nhân tích cực hợp lý của Đạo Phật nhằm xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, là một mục tiêu chiến lược đòi hỏi sự kết hợp giáo dục tổng hợp của xã hội - gia đình - nhà trường - bản thân cá nhân, một sự kết hợp tự giác tích cực cả truyền thống và hiện đại. Chúng ta tin tưởng vào một thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cường tráng về thể chất, phát triển về trí tuệ, phong phú về tinh thần, đạo đức tác phong trong sáng, kế thừa truyền thống cha ông cũng như những giá trị nhân bản Phật giáo sẽ góp phần bảo vệ và xây dựng xã hội ngày càng ổn định, phát triển.
Câu trả lời của bạn: 20:40 05/02/2023
Cho sữa đặc vào nước ấm khuấy đều theo hướng 1 chiều, tiếp đến cho sữa tươi vào khuấy nhẹ.
Cho sữa chua cái làm men dẫn vào hỗn hợp sữa tiếp tục khuấy đều.
Chia hỗn hợp ra chai nhỏ, không đổ đầy chai mà chỉ tầm 2 phần chai là hợp lý.
Câu trả lời của bạn: 20:24 05/02/2023
j vậy tròi
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 20:13 05/02/2023
Sang thu" được Hữu Thỉnh sáng tác vào cuối năm 1977 viết về là thời khắc giao mùa từ hạ sang thu, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ, sau đó được in lại nhiều lần trong các tập thơ. Bài thơ là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đpẹ và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa. Không phải là sắc "mơ phai" hay hình ảnh "con nai vàng ngơ ngác" mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Nhà thơ chợt nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió se (nhẹ, khô và hơi lạnh) mang theo hương ổi (ổi đang vào độ chín).
Cảm nhận đầu tiên trong tâm hồn thi sĩ không phải bắt đầu từ trời xanh, mây trắng, hoa cúc vàng như bao thi sĩ khác mà là một sự biến chuyển hết sức tinh vi của thiên nhiên. Mùa thu được nhận ra bắt đầu từ "hương ổi", lập tức tâm hồn thi sĩ rung lên mở căng các giác quan (khứu giác, thị giác...) để đón nhận thu về. Hương ổi ngào ngạt phả vào gió mang đi khắc nơi, luồn vào trong sương khiến sương chùng chình bâng khuâng lưu luyến...
"Bỗng nhận ra" là một trạng thái chưa được chuẩn bị trước, như là vô tình, sững sốt để cảm nhận, giữa những âm thanh, hương vị và màu sắc đặc trưng của đất trời lúc sang thu. Nhà thơ nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió nhè nhẹ, lành lạnh se khô mang theo hương ổi.
"Phả" là một động từ mang ý tác động được dùng như một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian: "hương ổi", một mùi hương không dễ nhận ra, bởi hương ổi không phải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là một mùi hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những cảm xúc trong lòng người.
Thi sĩ cảm nhận thiên nhiên và khúc giao mùa thật tinh tế, sâu sắc. Từ hương nhận ra gió. Từ gió nhận ra sương. Trong sương có gió, có hương, có tình. Từ không gian hẹp (vườn, ngõ) từ những gì vô hình (hương, gió) chuyển sang không gian rộng lớn với nhiều tầng bậc cụ thể hơn (sông, chim, mây): Sông thì dềnh dàng trôi một cách thanh thản; chim thì vội vã bay khi cơn gió đầu tiên mang hơi lạnh tới; đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu...
Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng chình chưa muốn dời chân:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Từ láy tượng hình "chùng chình" gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. "Chùng chình" là sự ngắt quãng nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chính là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng, nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu.
"Hình như" là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thảng thốt. Không phải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ. Có lẽ với Hữu Thỉnh, làn hương ổi rất quen với người Việt Nam, mà rất lạ với thơ được tác giả đưa vào một cách hết sức tự nhiên.
Mùa thu được quan sát ở những không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Nếu ở khổ một, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ, thì ở khổ thơ này, tác giả đã có thể khẳng định: Thu đến thật rồi. Thu có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ thể. Đường nét của mùa thu hiện lên rất rõ nét, không còn mơ hồ như ở khổ thơ thứ nhất nữa. Đây cũng là quá trình và là quá trình và là sự chuyển biến trong thiên nhiên và trong nhận thức của tác giả.
Hữu Thỉnh đã khéo léo và rất tinh tế khi sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để miêu tả bức tranh giao mùa từ hạ sang thu. Phép nhân hóa gợi ra trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên có hình, có hồn, gợi cảm, sống động. Sông như con người có trạng thái, tâm trạng "sông dềnh dàng" - lững lờ trôi; chim có hành động như con người "vội vã" bay tìm nơi ẩn trú; đám mây - nhịp cầu giao mùa như một dải lụa mềm mại, uyển chuyển đang dịch chuyển từ hạ sang thu "vắt nửa mình sang thu".
Sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của tác giả còn thể hiện ở cách nhìn "đám mây mùa hạ" như "vắt sang thu. Thật tài hoa, thật khéo léo và dường như ông động lòng với mùa thu, khí thu, vị thu rất nhiều nên mới tưởng ra viễn cảnh đám mây cao trên trời như đang chuyển mình cùng nhịp đập của mùa thu. Từ "vắt" dùng rất hay, rất độc đáo đã diễn tả được quá trình chuyển mình của mùa thu rất uyển chuyển, nhịp nhàng. Mùa thu có chút gì đó độc đáo, tinh nghịch và cũng không kém phần duyên dáng qua cảm nhận của Hữu Thỉnh. Màu thu đã đến thật rồi, mùa thu mang theo những gì tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm nhất.
Bức tranh chuyển mùa qua lời thơ Hữu Thỉnh thực sự mềm mại, nhẹ nhàng và uyển chuyển biết bao. Đó chính là cái tài của tác giả, tài dùng chữ vẽ tranh. Không gian giao mùa ngày càng được mở rộng (trước đó chỉ là không gian hẹp: ngõ, xóm, làng; giờ đây là cả đất trời).
Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất nước:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là "vẫn còn", "đã vơi dần", "cũng bớt bất ngờ" bởi mùa thu đã đến. Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm cho người ta bất ngờ hay bị động. Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm cho "Sang thu" trở nên giàu ý nghĩa. Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm đềm và những rung động man mắc, bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng độc giả. Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc "Sang thu" của Hữu Thỉnh, ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 20:08 05/02/2023
:))
Câu trả lời của bạn: 20:01 05/02/2023
Câu trả lời của bạn: 19:57 05/02/2023
Châu Âu có một nền kinh tế thị trường tự do, bao gồm gần 50 quốc gia tham gia Liên minh Châu Âu. Tìm hiểu về nền kinh tế của Châu Âu, xem xét các lĩnh vực nông nghiệp, sản xuất và công nghiệp dịch vụ tạo nên sức mạnh nổi bật nhất cho nó. EU là nền kinh tế giàu có thứ hai và lớn thứ hai trên thế giới, dưới Mỹ khoảng 5 nghìn tỷ USD. Trong số 500 tập đoàn lớn nhất được đo lường theo doanh thu (Fortune Global 500 năm 2010), thì có 184 công ty có trụ sở chính tại Châu Âu.
Nội Dung Bài Viết
NỀN KINH TẾ CHÂU ÂU
Châu Âu, giống như Hoa Kỳ, là một nền kinh tế thị trường tự do dựa trên sự luân chuyển của vốn. Nền kinh tế châu Âu có GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) khoảng 20 nghìn tỷ USD, và bao gồm hơn 700 triệu người ở gần 50 quốc gia khác nhau. Nền kinh tế lớn nhất của Châu Âu là Đức, tiếp theo là Pháp, tiếp theo là Anh.
Châu Âu là một lục địa bao gồm nhiều quốc gia khác nhau, tất cả đều có hệ thống và chính sách kinh tế riêng. Nhưng có những cách nhất định mà các quốc gia châu Âu kết hợp với nhau để củng cố nền kinh tế của họ. Một cách gọi là Liên minh châu Âu (EU), là một liên minh kinh tế và chính trị của 28 quốc gia châu Âu, cho phép các quốc gia đó làm việc cùng nhau về các vấn đề chính trị và kinh tế, bao gồm cả việc thúc đẩy thương mại tự do giữa các nước thành viên. Người lao động, sản phẩm và vốn có thể di chuyển tự do trong Liên minh châu Âu, điều này cho phép thị trường tự do hoạt động hiệu quả hơn.
Nền kinh tế châu Âu lớn thứ hai thế giới
Các quốc gia châu Âu làm việc cùng nhau là nhiều quốc gia trong số họ đã chuyển sang một đồng tiền chung, gọi là đồng euro. Điều này làm cho việc trao đổi và thương mại trở nên dễ dàng hơn và tỷ giá hối đoái không còn là một yếu tố nữa. Tuy nhiên, mặt trái của nó là chính sách tiền tệ được thiết lập cho toàn khu vực đồng Euro, có nghĩa là các quyết định của Ngân hàng Trung ương châu Âu có thể tốt cho một số quốc gia và không tốt cho những quốc gia khác. Không phải tất cả các quốc gia ở Châu Âu đều sử dụng đồng euro làm tiền tệ của họ. Trên thực tế, không phải tất cả các thành viên của Liên minh châu Âu đều làm như vậy. Quyết định có chuyển tiền tệ sang đồng euro hay không là lựa chọn của từng quốc gia.
Không có gì ngạc nhiên khi Châu Âu giao dịch nội bộ nhiều nhất, nhưng cũng có rất nhiều thương mại giữa các nước Châu Âu với Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Nga.
CÁC NGÀNH KINH TẾ CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU
Vì Châu Âu là một khu vực rộng lớn với rất nhiều nền kinh tế khác nhau, nên thật khó để tóm tắt về nền kinh tế của Châu Âu, nhưng chúng ta có thể xem xét các lĩnh vực chính của nền kinh tế và vị trí chủ yếu của chúng.
Nông nghiệp là một phần chính của nền kinh tế Châu Âu. EU trợ cấp nông nghiệp để làm cho sản phẩm của họ cạnh tranh hơn và giữ cho ngành nông nghiệp phát triển. Điều này gây tranh cãi vì nó đi ngược lại với ý tưởng tự do thương mại, nhưng nó rất phổ biến – Hoa Kỳ cũng trợ cấp cho nông dân. Nông nghiệp vẫn cực kỳ quan trọng đối với một số nước trong EU. Ví dụ, Pháp có một nền kinh tế nông nghiệp lớn và sẽ bị thiệt hại nặng nề nếu không có sự bảo vệ của EU.
Sản xuất cũng quan trọng ở EU. Ngành công nghiệp nói chung, bao gồm cả sản xuất và xây dựng, chiếm 25,2% GDP của EU. Châu Âu là khu vực sản xuất xe hơi lớn nhất thế giới, tạo công ăn việc làm cho 12,9 triệu người. Nhưng có nhiều ngành công nghiệp đang hoạt động khác, bao gồm hàng không vũ trụ, quốc phòng (xe cộ, tàu thủy, v.v…), điện tử, hóa chất (đặc biệt là hóa dầu và polyme), và công nghệ sinh học.
NỀN KINH TẾ EU LỚN NHƯ THẾ NÀO?
Liên minh châu Âu hoạt động như một thị trường duy nhất bao gồm 27 quốc gia.
Tổng giá trị của tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất (tổng sản phẩm quốc nội hoặc GDP) ở EU vào năm 2019, khi Vương quốc Anh vẫn là một phần của EU, là 16,4 nghìn tỷ EUR.
Buôn bán
EU chiếm khoảng 15% thương mại hàng hóa của thế giới. EU, Trung Quốc và Hoa Kỳ là ba nhân tố toàn cầu lớn nhất trong thương mại quốc tế.
Năm 2019, EU chiếm 4,071 tỷ EUR tổng thương mại toàn cầu. Thương mại nội khối EU đạt giá trị 3,061 tỷ EUR vào năm 2019.
Việc làm và bình đẳng
Tỷ lệ có việc làm là tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động có việc làm.
Tỷ lệ thất nghiệp là số người không có việc làm được biểu thị bằng phần trăm của tổng lực lượng lao động. Cả tỷ lệ thất nghiệp và quy mô lực lượng lao động đều là những chỉ số quan trọng của xu hướng thị trường lao động.
Khoảng cách lương chưa điều chỉnh theo giới là sự khác biệt giữa thu nhập trung bình, tổng thu nhập theo giờ của nhân viên nam và nhân viên nữ. Nó được biểu thị bằng phần trăm thu nhập trung bình, tổng, hàng giờ của nhân viên nam. Nó dựa trên tất cả nhân viên làm việc trong các công ty có từ 10 nhân viên trở lên.
Nền kinh tế châu Âu có sức ảnh hưởng đến toàn thế giới
CÁC NƯỚC CHÂU ÂU GIÀU NHẤT 2021
Một trong những yếu tố chính góp phần vào sự giàu có của châu Âu nằm ở sáu quốc gia hàng đầu trên lục địa. Khi chúng kết hợp với nhau, các quốc gia cung cấp 14,350 nghìn tỷ USD cho GDP của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) vào năm 2019, khiến họ trở thành một trong những quốc gia có năng suất cao nhất trong khu vực. Ngoài việc có nền kinh tế nhộn nhịp, mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng biệt giúp quốc gia đó được công nhận nhiều hơn theo thời gian. Dưới đây là tổng quan chung về các quốc gia giàu nhất đó:
Đức: Được biết đến với những món ăn ngon, lễ hội sáng tạo và văn hóa lịch sử. Nhiều nhà phát minh nổi tiếng – như Albert Einstein và Fritz Haber – cũng đến từ đất nước này.
Vương quốc Anh: Được biết đến là một trong những cường quốc kinh tế và quân sự quan trọng nhất trên thế giới và có ảnh hưởng xã hội lớn. Họ cũng sẽ được biết đến khi rời Liên minh châu Âu.
Pháp: Được biết đến là một trong những quốc gia được du khách đến thăm nhiều nhất trên thế giới và là một trong những quốc gia lớn nhất trên lục địa. Nó cũng được biết đến với khung cảnh sôi động và các điểm tham quan văn hóa, như Tháp Eiffel, nơi thu hút rất nhiều khách du lịch.
Ý: Được biết đến hầu hết với các điểm thu hút và đóng góp văn hóa cho thế giới. Nó cũng được biết đến với phong cảnh đẹp và đồ ăn Ý tuyệt vời.
Nga: Được biết đến là quốc gia lớn nhất thế giới và có môi trường văn hóa. Con người cũng được coi là tài sản quý giá nhất của họ trong lực lượng lao động.
Tây Ban Nha: Được biết đến với những món ăn sôi động và những khung cảnh ăn mừng. Nó cũng được biết đến với các sự kiện độc đáo được tổ chức, như đấu bò tót.
Câu trả lời của bạn: 19:53 05/02/2023
Câu trả lời của bạn: 19:49 05/02/2023
Câu trả lời của bạn: 19:46 05/02/2023
Câu trả lời của bạn: 19:42 05/02/2023
Câu hỏi:
1. Đám cháy xảy ra vào lúc nào ?
2. Người đã dũng cảm cứu em bé là ai ? Con người và hành động của anh có gì đặc biệt ?
3. Chi tiết nào trong câu chuyện gây bất ngờ cho người đọc ?
4. Câu chuyện trên gợi cho em suy nghĩ gì về trách nhiệm công dân của mỗi người trong cuộc sổng ?
Trả lời:
1. Đám cháy xảy ra vào lúc nửa đêm.
2. Người đã dũng cảm cứu em bé là người bán bánh giò. Đó là một thương binh, chỉ còn một chân khi rời quân ngũ, làm nghề bán bánh giò. Tuy chỉ là một người bán bánh giò bình thường nhưng anh có hành động dũng cảm: không chỉ báo cháy mà anh còn xả thân lao vào đám cháy cứu người.
3. Trong câu chuyện trên, chi tiết gây bất ngờ cho người đọc là khi cấp cứu cho người đàn ông, bất ngờ người ta phát hiện ra anh có một cái chân gỗ. Kiểm tra giấy tờ thì biết anh là một thương binh. Để ý tới chiếc xe đạp nằm lăn ở góc đường và những chiếc bánh giò tung tóe mới biết anh chính là người bán bánh giò.
4. Câu chuyện trên gợi cho em suy nghĩ là mỗi công dân cần có ý thức giúp đỡ mọi người, cứu người khi gặp nạn.
Nội dung: Ca ngợi hành động cao đẹp của một thương binh, bất chấp mọi hiểm nguy, dám xông vào đám cháy để cứu 1 em bé thoát nạn.
Câu trả lời của bạn: 19:41 05/02/2023
I. Mở bài
– Phan Bội Châu (1867-1940) quê ở Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm 1900 đỗ Giải nguyên. Ông sáng lập ra Hội Duy Tân (1904). Năm 1905, bí mật sang Nhật, dấy lên phong trào Đông Du, tổ chức Việt Nam Quang phục hội. Năm 1925, ông bị thực dân Pháp bắt cóc tại Thượng Hải, đưa về Hà Nội với cái án tử hình. Trước sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta, chúng đưa ông về giam lỏng ở Huế.
– Là chiến sĩ yêu nước vĩ đại, là nhà văn, nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ 20 – Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn yêu nước và tuyên truyền cổ động cách mạng sôi sục đầy nhiệt huyết.
– Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được Phan Bội Châu viết năm 1905, trong lúc chia tay đồng chí, bạn bè, trước lúc bí mật sang Nhật, dấy lên phong trào Đông Du.
– Bài thơ khẳng định chí làm trai và quyết tâm xuất dương, là nên sự nghiệp lớn cứu nước cứu dân.
II. Thân bài: Phân tích bài thơ
1. Hai câu đề
– Kẻ nam nhi phải mong có điều lạ, nghĩa là không thể sống tầm thường mà phải làm nên sự nghiệp lớn. Lưu lại tiếng thơm muôn đời. Con người ấy sống chủ động, tích cực, có tinh thần làm chủ thiên nhiên, há để càn khôn tự chuyển dời?
2. Hai câu thực
– Tác giả tự ý thức về cái Tôi (ngã: tôi, tớ). Rất tự hào về vai trò của mình trong cuộc đời (một trăm năm) và trong xã hội, lịch sử (ngàn năm sau).
– Tác giả hỏi: Chẳng lẽ ngàn năm sau, lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Nhằm khẳng định một ý tưởng vĩ đại mà như người đồng hương của Phan Bội Châu trước đó nửa thế kỉ đã nhiều lần rồi:
Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
(Nguyễn Công Trứ)
– Quan niệm về công danh, về chí nam nhi của Phan Bội Châu mới mẻ, tiến bộ, hướng về Tổ quốc và nhân dân, như ông đã viết: Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ. Tất cả vì nước, vì dân chứ không phải vì nghĩa vua – tôi: “Dân là dân nước, nước là nước dân”.
3. Hai câu luận
– Nêu lên một quan niệm sống đẹp của kẻ sĩ trước thời cuộc và lịch sử dân tộc. Non sông đã chết, một cách nói rất hay, cảm động về nỗi đau thương của đất nước ta, nhân dân ta đang bị thực dân Pháp thông trị. Trong Hải ngoại huyết thư, tác giả viết: hồn nước bơ vơ. Kẻ nam nhi, kẻ sĩ lập công danh trước hết bằng con đường học hành và thi cử. Một ý thơ phủ định về cách học cũ kĩ lạc hậu là đọc sách thánh hiền (đạo nho)… cách học ấy rất lạc hậu, vô nghĩa, càng học càng ngu, càng u mê. Đây là hai câu có tư tưởng sâu sắc, tiến bộ nhất, cho thấy Phan Bội Châu là một chí sĩ tiên phong:
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
4. Hai câu kết
– Hình tượng thơ kì vĩ lên một chí lớn mang tầm vũ trụ. Không phải gió nhẹ mà là trường phong. Không phải quanh quẩn chốn quan trường hoặc nơi trường thi chật hẹp, mà là đi ra biển Đông với một sức mạnh phi thường, cùng bay lên với ngàn lớp sóng bạc. Đây là những câu thơ đẹp nhất của Phan Bội Châu biểu lộ một bầu nhiệt huyết:
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
III. Kết bài
– Vẫn là thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bằng chữ Hán. Giọng thơ trang nghiêm, đĩnh đạc hào hùng, mạnh mẽ, lôi cuốn.
– Thể hiện một chí lớn phi thường: không cam tâm làm nô lệ, quyết đi tìm đường cứu nước. Không phải là khẩu khí mà sự thật lịch sử đã xác nhận Phan Bội Châu đã sống và hành động như thơ ông đã viết ra.
– Lưu biệt khi xuất dương mang âm điệu anh hùng ca, chứa chan tình yêu nước và quyết tâm lên đường cứu nước.
Câu trả lời của bạn: 19:39 05/02/2023
Sau 2 năm chịu tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, nhiều doanh nghiệp rơi vào khó khăn, nguồn lực tài chính dần cạn kiệt lại phải đối mặt với giá nguyên vật liệu tăng cao, khó càng thêm khó. Để hỗ trợ khách hàng, doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng đã cơ cấu lại nợ, miễn, giảm lãi suất chia sẻ một phần khó khăn với doanh nghiệp. Cùng với đó, lãnh đạo tỉnh đang tập trung chỉ đạo quyết liệt việc triển khai Nghị định số 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để khôi phục sản xuất, kinh doanh.
Tính đến hết tháng 7/2022, các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 3.186 khách hàng với số dư nợ cơ cấu lũy kế là 925 tỷ đồng, dư nợ cơ cấu đến hiện nay là 437,2 tỷ đồng với 1.371 khách hàng còn dư nợ; miễn, giảm lãi suất và giữ nguyên nhóm nợ cho 174 khách hàng với dư nợ là 119 tỷ đồng với số tiền lãi được giảm là 462 triệu đồng. Đồng thời, cho vay mới để khách hàng khôi phục sản xuất với doanh số cho vay lũy kế từ ngày 23/1/2022 là 3.233,5 tỷ đồng, dư nợ hiện nay là 413,5 tỷ đồng với 882 khách hàng còn dư nợ. Đặc biệt, số doanh nghiệp quan hệ vay vốn các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đến ngày 31/7/2022 có 1.309/3.950 doanh nghiệp đang vay vốn ngân hàng, chiếm 33,14% số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, với dư nợ cho vay là 18.858 tỷ đồng, tăng 945,4 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 5,28% so với cuối năm 2021, chiếm tỷ trọng 36,24%/tổng dư nợ toàn tỉnh...
Nhờ vậy, nhiều doanh nghiệp đã có điều kiện trở lại thị trường, tái khởi động sản xuất, khôi phục sản xuất, kinh doanh sau dịch bệnh. Minh chứng là 8 tháng đầu năm 2022, số doanh nghiệp thành lập mới là 334 doanh nghiệp, tăng 82 doanh nghiệp so cùng kỳ; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động khá cao, đạt 65 doanh nghiệp, tăng 55% so với cùng kỳ năm 2021. Đây là tín hiệu nền kinh tế đang dần phục hồi, nhất là doanh nghiệp đang tiếp tục đà phục hồi và tăng trưởng trong thời gian tới. Tuy nhiên, hiện áp lực lạm phát, giá vật tư, nguyên vật liệu tăng cao, nhiều doanh nghiệp đang thiếu hụt nguồn vốn… dẫn đến nhiều doanh nghiệp đã rời thị trường. Vì vậy, rất cần nguồn vốn giá rẻ nhằm tiếp thêm động lực tài chính để doanh nghiệp vượt qua đại dịch. Thấu hiểu và chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất 2% từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
Hiện nhiều người dân, doanh nghiệp trong tỉnh Sóc Trăng rất cần nguồn vốn vay ưu đãi để phục hồi sản xuất, kinh doanh. Ảnh minh họa: HOÀNG LAN
Đồng chí Phạm Kim Hùng - Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Sóc Trăng cho biết, lãnh đạo tỉnh Sóc Trăng rất quan tâm trong triển khai thực hiện Nghị định số 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh chủ trì, phối hợp với các ngành có liên quan đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách cho vay, hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP; đồng thời, chỉ đạo các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh tổ chức triển khai thực hiện hỗ trợ lãi suất theo quy định. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc và những bất cập này đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam họp bàn đưa ra phương hướng giải quyết như: mở thêm hạn mức tín dụng (room) cho các ngân hàng khỏe, ngành nghề được hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ lãi suất, thủ tục hành chính… Hy vọng rằng, trong thời gian tới, sẽ có nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh sẽ tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước.
Đồng chí Phạm Kim Hùng cho biết thêm, trong quá trình tiếp cận nguồn vốn, nếu gặp khó khăn thì doanh nghiệp, người dân, hộ kinh doanh trong tỉnh có thể phản ánh, kiến nghị đến trụ sở Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Sóc Trăng số 12, đường Trần Hưng Đạo, hoặc qua Email: Soctrang@sbv.gov.vn hoặc đường dây nóng 0888106029, trực 24/24 để tiếp nhận thông tin.
Bà Mã Thị Thanh - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh cho rằng, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2022/NĐ-CP rất ý nghĩa và kịp thời. Vì sau thời gian dài gồng mình chống chọi với dịch bệnh, nhiều doanh nghiệp đuối tài chính, việc Nhà nước rót nguồn vốn ưu đãi, giúp doanh nghiệp khơi thông nguồn vốn phục hồi và phát triển. Hiện trên địa bàn tỉnh nhu cầu vốn của doanh nghiệp rất cao để chi trả công nợ, nếu sớm tiếp cận nguồn vốn ưu đãi 2% lãi suất, doanh nghiệp sẽ có điều kiện khơi thông hoạt động, kịp phục vụ thị trường Noel và tết Nguyên đán sắp tới. Tuy nhiên, tính đến thời điểm này, chưa có doanh nghiệp nào trên địa bàn tỉnh tiếp cận được nguồn vốn vay với nhiều lý do khác nhau. Vì vậy, nếu doanh nghiệp nào thỏa điều kiện thì ngân hàng thương mại mạnh dạn cho vay, giúp doanh nghiệp phục hồi nhanh sau đại dịch. Hiện những khó khăn, vướng mắc đã và đang được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giải quyết với quyết tâm để doanh nghiệp được vay vốn ưu đãi.
Cũng theo bà Thanh, hiện Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh đã phổ biến, tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của chính sách hỗ trợ lãi suất 2% từ Nhà nước của Chính phủ đến doanh nghiệp trong tỉnh. “Trong quá trình tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng thương mại, nếu gặp khó khăn, doanh nghiệp có thể phản ánh đến Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh, qua đó hiệp hội sẽ kiến nghị, đề xuất đến các cơ quan chức năng nhằm tháo gỡ kịp thời cho doanh nghiệp” - bà Mã Thị Thanh thông tin.
Qua khảo sát ý kiến của các doanh nghiệp trong tỉnh, đa số cho rằng gói hỗ trợ lãi suất nhận được sự quan tâm rất lớn của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp chế biến xuất nhập khẩu trong tỉnh không thỏa được điều kiện vay vốn, điển hình như mức vay phải từ 7% mới được hỗ trợ lãi suất, phải vay tiền Việt Nam đồng trong khi doanh nghiệp cần ngoại tệ để giao dịch. Vì vậy, làm sao nguồn vốn ưu đãi này đến được với doanh nghiệp thì cần sự vào cuộc, quyết tâm từ Trung ương đến địa phương, nhất là các ngân hàng thương mại để kịp thời giải quyết, tháo gỡ khó khăn trong triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2% với số tiền 40.000 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay, giúp họ vượt qua khó khăn, phục hồi sản xuất, kinh doanh, góp phần cùng địa phương cũng như cả nước phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.
Câu trả lời của bạn: 15:45 04/02/2023
...
Câu trả lời của bạn: 15:43 04/02/2023
Hoc nhung tu vung don gian nhat hoc cac thi vd thi hien tai don,tuong lai don ...
Câu trả lời của bạn: 09:00 04/02/2023
...
Câu trả lời của bạn: 08:59 04/02/2023
...
Câu trả lời của bạn: 08:58 04/02/2023
...