
KAYROSS
Bạch kim đoàn
2,660
532
Câu trả lời của bạn: 15:46 05/03/2023
12m
Câu trả lời của bạn: 15:43 05/03/2023
Câu trả lời của bạn: 19:43 06/02/2023
Lời giải:
T đã gặp phải căng thẳng:
Dù học tập rất chăm chỉ nhưng gần đến ngày thi là bạn lại cảm thấy bồn chốn, lo lắng, quên hết những gì đã học khiến cho kết quả không được tốt.
Bên cạnh đó, T còn bị bạn bè trêu chọc vì học nhiều nhưng mà điểm lại rất thấp.
Để vượt qua căng thẳng đó thì T đã: đến phòng tham vấn học đường để nhờ cô giáo cho lời khuyên.
Nếu là T, em sẽ vượt qua sự căng thẳng đó bằng cách:
Chia sẻ với mẹ về việc học tập để tìm lời khuyên cũng như lời động viên từ gia đình.
Điều chỉnh lại cách thức học, dành nhiều thời gian để nghỉ ngơi và thư giản cho đầu óc cảm thấy thoải mái thì việc học sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.
Câu trả lời của bạn: 19:41 06/02/2023
Hồ Chi Minh sinh năm 1980 mất năm 1969.(1)Người cả đời vì nước vì dân cho tất cả dành tặng cho nhân dân(2)Trong buổi nói chuyện tại buổi lễ khai mạc trường Đại học nhân dân Việt Nam năm 1955 Người nói:"Nhiệm vụ của thanh niên không phải là đòi hỏi nước nhà đã cho mình những gì, mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà?(2) Mình phải làm thế nào cho ích nước, lợi nhà nhiều hơn?(3). Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh, phấn đấu đến chừng nào?...(4)"Hồ Chí Minh đã mang lại chỗ nước nhà kho tàng muôn vàn điều hay(5).Có người nói:Bác đã ra đi rồi(6). Không!(7) Bác vẫn sống,sống mãi trong lòng chúng ta là điểm sáng mãi trên bầu trời muôn ngàn tinh tú kia..(8) Ôi bác hồ là niềm tự hào của dân tộc ta (9)
Câu nghi vấn:4
Câu trả lời của bạn: 19:38 06/02/2023
Bài làm
Trong kho tàng ca dao tục ngữ có cả trăm vạn câu nói về tình cảm gia đình, tình yêu lứa đôi, quê hương làng xóm. Tuy nhiên một câu ca dao mà chắc rằng từ lúc nằm nôi đến khi đi học ai cũng thuộc nằm lòng, nó tắm mát tâm hồn tuổi thơ của biết bao thế hệ là :
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Từ xa xưa ông cha ta đã khắc sâu ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ. Nó trở thành một trong những đạo lí được nhắc đến trên đời. Người xưa quan niệm con người sinh ra phải có 2 chữ “trung và hiếu”, trung là trung thành với vua, còn có hiếu với cha mẹ. Bởi lẽ nếu như không có cha mẹ thì cũng chẳng bao giờ có chúng ta tồn tại trên cõi đời này.
So sánh công cha với núi Thái Sơn là một so sánh vô cùng đắt và ý nghĩa. Núi Thái Sơn được coi là một trong những đỉnh núi hùng vĩ nhất của Trung Quốc, để nuôi con khôn lớn không biết cha đã đổ bao nhiêu giọt mồ hôi, chịu bao nhiêu khổ cực. Trong quan niệm dân gian xưa người cha được so sánh như nóc của một ngôi nhà. Con không có cha thì như nhà mất nóc. Nóc nhà chính là nơi che chắn giữ vững sự kiên cố cho cả ngôi nhà, nếu không có nóc thì dù tường có vững chắc cũng chẳng thể che mưa chắn gió.
Bên cạnh công cha thì nghĩa mẹ cũng chẳng thể nào đo đếm được. “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Một hình ảnh vô cùng gợi hình và gợi cảm sâu sắc. Nước trong nguồn thì luôn đong đầy ăm ắp và chẳng bao giờ vơi cạn dù cho hết năm này qua năm khác, hết tháng này qua tháng khác. Cũng giống như tình mẹ dành cho con không bao giờ vơi cạn. Chẳng vì thế nên có nhà thơ nào đó đã từng viết nên vần thơ chan chứa:
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”.
Dù cuộc đời có bao lần vấp ngã, dù giông tố ngoài kia có đầy trời thì mẹ mãi mãi là chỗ dựa tinh thần lớn lao của con. Ánh mắt mẹ sẽ dõi theo các con cả đời.
Công cha, nghĩa mẹ là những tình cảm thiêng liêng và cao quý không gì có thể cân đong đo đếm được. Những người đã đánh đổi cả tuổi thanh xuân, cả sức khỏe của mình để nuôi nấng con khôn lớn.
Nuôi con cho được vuông tròn
Mẹ thầy dầu dãi xương mòn gối cong.
Chính vì thế là con ghi nhớ công ơn của cha mẹ thì chúng ta phải biết:
“ Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Tình yêu thương cha mẹ thể hiện ở trong những hành động nhỏ nhất hàng ngày. Những cuộc điện thoại hỏi thăm sức khỏe cha mẹ, những cái Tết đoàn viên sum vầy nhưng chứa đựng trong đó biết bao nhiêu tình cảm quý báu. Bởi sẽ có một ngày chẳng may cuộc đời cướp mất đi người cha già, người mẹ thân yêu của chúng ta thì sao? Cuộc đời mỗi con người tiền có thể làm ra, vàng bạc của cải có thể mua được còn cha mẹ thì vĩnh viễn không bao giờ mua nổi.
Thế mà có những đứa con còn chưa thực hiện đúng bổn phận của mình, cãi lời cha mẹ, chểnh mảng học hành, tụ tập sa đọa.... không những phá hủy tương lại mà còn khiến cha mẹ gánh trên vai những món nợ khổng lồ. Đã không trọn vẹn đạo làm con thì cũng đừng khiến cha mẹ buồn.
Ghi nhớ công cha, khắc ghi nghĩa mẹ là điều vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi người. Câu ca dao không chỉ khắc họa công ơn sinh thành cao vời vợi mà nó còn nhắc nhở chúng ta sống trọn bổn phận làm con. Hãy thể hiện tình cảm với cha mẹ khi còn chưa muộn, hãy thực hiện dù chỉ là những hành động nhỏ nhất bởi nó cũng chính là niềm vui nho nhỏ mà bạn dành cho bố mẹ mình.
Câu trả lời của bạn: 19:37 06/02/2023
Lời giải:
Những trò lừa đảo trên Internet thường là những lời quảng cáo đánh vào lòng tham vật chất, những lời dụ dỗ, rủ rê làm những việc liên quan đến các vấn đề nhạy cảm, những tin nhắn tự giới thiệu là người quen của cha mẹ để bảo em làm điều gì đó mà không cho bố mẹ biết, tin nhắn của người lạ hay đại diện cho một tổ chức nào đó liên quan đến tiền bạc, những lời giới thiệu gây tò mò, hiếu kì
Câu trả lời của bạn: 19:36 06/02/2023
Mỗi người chúng ta, ai cũng biết được rắng hút thuốc lá là việc làm ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người. Hút thuốc lá có thể gây ra bệnh về phổi, gan, tim, khoa học và thực tế đã chứng minh rằng nếu một người hút thuốc lá thường xuyên trong vòng nhiều năm thì tuổi thọ sẽ giảm đi rất nhiều so với những người không hút thuốc lá. Tuy nhiên, họ vẫn bất chấp hút. Họ có lo sợ nhưng họ vẫn hút. Điều này vẫn luôn là thứ khiến nhiều người khó hiểu. Và hiện nay, hiện tượng hút thuốc lá điện tử trong học sinh ngày càng trở nên phổ biến một cách kỳ lạ. Chính điều đó, đã gây ảnh hưởng rất lớn đến những người xung quanh.
Vậy thuốc lá điện tử là gì? Thuốc lá điện tử là thiết bị chạy bằng pin dùng để làm nóng dung dịch lỏng chứa nicotine, biến dung dịch này thành hơi để người hút có thể hít vào phổi. Một số thuốc lá điện tử nhìn bề ngoài có hình dáng giống với thuốc lá điếu truyền thống hay xì gà. Những loại khác trông giống như bút hoặc ổ đĩa flash hoặc có những thiết kế hoàn toàn khác lạ.
Bạn biết không, trong thuốc lá có cocain dễ gây nghiện, khi hút có thể nó kích thích sự hưng phấn cho người hút nhưng nó lại gây ra tác hại rất lớn. Nó làm thành màng đen bao lấy phổi, hút càng nhiều thì diện tích màng đen càng lớn gây bệnh cho người hút. Không chỉ cá nhân người hút mà hút thuốc thì người gần anh cũng hít phải khói độc. Vợ con, những người xung quanh cũng bị nhiễm độc, cũng đau tim mạch, viêm phế quản, ung thư đặc biệt người hít phải khói thuốc còn có khả năng bị bệnh cao gấp mười lần người hút thuốc. Hút thuốc cạnh một người đàn bà có thai quả là một tội ác.
Theo số liệu thống kê, năm 2019 tỷ lệ hút thuốc lá điện tử ở nhóm học sinh tuổi từ 13-17 tại Việt Nam là 2,6%. Có rất nhiều em học sinh hút thuốc lá điện tử trong và ngoài khuôn viên trường học. Việc hút thuốc lá điện tử hiện nay đang có xu hướng gia tăng mạnh mẽ. Chúng ta rất dễ dàng để bắt gặp học sinh hút thuốc lá điện tử ở mọi lúc, mọi nơi, mọi vùng miền kể cả ở nơi công cộng.
Nguyên nhân của vấn nạn này, trước hết phải nói đến là do ý thức chủ quan của con người. Các em học sinh là những đứa trẻ và chúng thiếu hiểu biết về tác hại của thuốc lá điện tử. Do đó, những học sinh đã thử hút và vì trong thuốc có chất nicotin nên dẫn đến gây nghiện và dần dần trở nên nghiện. Không những thế, còn có nhiều thanh niên muốn thể hiện bản thân mình, muốn người khác thấy mình sành điệu, là dân chơi nên đua đòi hút thuốc nhằm thể hiệ bản thân mình độc đáo. Thật nực cười! Nguyên nhân khách quan có thể nhắc đến chính là do tác động của các yếu tố bên ngoài, bị những người xung quanh, bạn bè rủ rê hút nên hút theo.
Để hạn chế được tối đa vấn nạn thuốc lá điện tử hiện nay, trước hết mỗi cá nhân cần tự nhận thức đúng đắn được những tác hại to lớn của thuốc lá đồng thời không sử dụng nó. Bên cạnh đó, chúng ta cần phải tuyên truyền đến những người xung quanh về tác hại của thuốc lá điện tử; gia đình cần phải giáo dục con em mình biết về tác hại của chúng để phòng tránh. Ngoài ra, nhà nước cần có biện pháp tuyên truyền về tác hại của thuốc lá, thuốc lá điện tử và xử lí nghiêm những tình trạng hút thuốc nơi công cộng. Mỗi con người một hành động nhỏ cùng chung tay thì sẽ hạn chế tối đa được vấn nạn thuốc lá.
Vì sức khỏe của chính chúng ta và mọi người, hãy bỏ thuốc lá từ ngay hôm nay. Từ bỏ thuốc lá, trước hết là yêu bản thân mình, tiếp theo đó là yêu gia đình và xã hội. Hãy từ bỏ khi còn có thể nhé!
Câu trả lời của bạn: 19:35 06/02/2023
Mg và Be không phản ứng với nước ở điều kiện thường
Đi từ đầu nhóm IIA đến cuối nhóm theo chiều tăng dần điện tính hạt nhân tính kim loại (tính khử) tăng dần => Kim loại mạnh nhất là Ra; yếu nhất là Be.
Nhóm Kim loại kiềm có tính khử mạnh nhất
Câu trả lời của bạn: 19:33 06/02/2023
Giải thích nghĩa của từ là gì
Hiểu về từ
Từ được giải thích bên trên là đơn vị nhỏ nhất, cấu tạo thành câu. Từ sử dụng để gọi sự vật, hiện tượng, hoạt động, trạng thái, tính chất…
Từ có nhiều công dụng như gọi tên sự vật/hiện tượng đó là danh từ, hoạt động là động từ, tính chất là tính từ.
Khái niệm nghĩa của từ
Dựa vào Sách giáo khoa lớp 6 đã định nghĩa: nghĩa của từ là nội dung gồm có tính chất, chức năng, khái niệm, quan hệ…mà từ biểu thị.
Nghĩa của từ được hình thành do các yếu tố khác nhau tác động trong đó có có yếu tố ngoài ngôn ngữ: sự vật, hiện tượng, tư duy. Nhân tố trong ngôn ngữ đó là cấu trúc của ngôn ngữ.
Nguồn gốc
Từ sẽ có hai mặt: hình thức vật chất và nội dung ý nghĩa. Hai mặt này gắn bó với nhau tác động qua lại lẫn nhau.
Nghĩa của từ không tồn tại trong ý thức,bộ óc con người. Trong nhận thức của con người có sự hiểu biết về nghĩa của từ chứ không phải là nghĩa của từ.
Cách giải thích nghĩa của từ
Nghĩa của từ rất đa dạng:
– Đưa ra khái niệm, định nghĩa từ biểu thị.
Ví dụ: Dũng cảm: đối mặt khó khăn, thử thách vẫn không lùi bước. Luôn chuẩn bị tinh thần đối mặt và vượt qua.
– Đưa ra các từ đồng nghĩa, trái nghĩa với những từ cần giải thích cho người khác hiểu.
Ví dụ: Trung thực: con người có tính thật thà, thắng thẳn.
Câu trả lời của bạn: 11:12 06/02/2023
Một trong những nhà văn xuất sắc có mặt ngay từ những ngày đầu là Thế Lữ. Nhiều tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho sự phát triển của thơ mới, đáng chú ý nhất là tác phẩm của Nhớ Rừng.
Trong Nhớ rừng, Thế Lữ bày tỏ sự phẫn nộ, buồn chán và mong muốn tự do cháy bỏng thông qua tâm trạng của con hổ trong sở thú. Đó cũng là lời tâm sự chung của những người yêu nước Việt Nam trong tình trạng mất đất nước.
Cùng chung thái độ nổi loạn, Thế Lữ đã viết những dòng thơ trong bài thơ Nhớ rừng. Mượn lời của một con hổ tại sở thú để thể hiện tâm trạng của riêng bạn. Thế Lữ đã thiết lập một cảnh tả rất thực tế và ẩn sâu bên trong. Tất cả những hình ảnh được đề cập trong bài viết là không gian xung quanh cuộc sống của con hổ.
Thực tế là con hổ bị nhốt trong cũi sắt và nó cảm thấy rằng cuộc sống của nó tràn ngập sự phẫn nộ trong điều kiện nuôi nhốt, những cảnh "tầm thường sai lầm" tại sở thú. Do đó, nó cảm thấy hoài cổ về quá khứ huy hoàng trong những ngọn núi và khu rừng hùng vĩ. Đây là hai cảnh hoàn toàn mâu thuẫn giữa thực tế và quá khứ.
Hổ ban đầu được coi là chúa tể của tất cả các sinh vật, nhưng bây giờ vì mùa thu, chúng phải sống "sự sỉ nhục" trong cũi sắt. Không gian sống của vua rừng đã bị thu hẹp và kể từ bây giờ đã được biến thành một "trò chơi lạ mắt", một "trò chơi" trong mắt mọi người. Đối với nó, cuộc sống bây giờ đã trở nên vô vị vì sống ở một nơi không tương thích với việc trở thành một vị vua núi.
“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua”
Con hổ cảm thấy bất lực vì không có cách nào thoát khỏi cuộc sống chật chội, vì vậy nó không thể không nhìn thời gian trôi qua vô ích. Nhưng bất kể hoàn cảnh nào, người thuộc về "con vật thiêng liêng" luôn biết danh tính thực sự của mình như một vị thần.
Chán nản làm thế nào cảnh phải sống cạnh nhau với "những con gấu điên", với "những tờ báo vô tư ở bên cạnh"! Làm thế nào để chịu đựng cuộc sống từ chức để chấp nhận số phận của "những người bạn" trong cùng một hoàn cảnh. Đó là nỗi buồn, sự tức giận nén lại để làm cho lòng căm thù chứa đựng trong trái tim. Mệt mỏi, mệt mỏi, bất lực! Trong những hoàn cảnh đáng thương này, con hổ đã nghĩ về cuộc sống quá khứ vinh quang của mình:
“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội”
Con hổ hối hận khi nhớ lại kỷ nguyên "ông chủ" nơi "bóng cây cổ thụ". Đó là nỗi nhớ đau đớn về khu rừng sâu thẳm. Nhớ về khu rừng là tiếc nuối sự tự do, nhớ về "thời gian vinh quang", là nhớ về quý tộc, chân thực, tự nhiên. Ở đất nước trẻ hùng vĩ đó, con hổ đang thống trị một lực lượng ở giữa cuộc sống.
Sự dũng cảm của một vị vua miền núi luôn xứng đáng với sức mạnh tối cao của mình với sức mạnh lớn. Những gì nó phải làm là làm cho mọi thứ sợ hãi thuần hóa. Ở đó, con hổ xuất hiện với tư thế kiêu hãnh và kiêu ngạo nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp hùng vĩ giữa những ngọn núi hùng vĩ:
“Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Trong bóng tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật phải im hơi
Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi”
Vẻ đẹp thực sự của hổ là ở đây! Từng bước một, từng mảng cơ thể, mỗi con mắt gợi lên một sự uy nghi và mềm mại hùng vĩ. Trong mỗi hành động, những con thú khác đã cho mọi thứ thấy sức mạnh tối thượng khiến mọi người "câm miệng". Cuộc sống trong tự do trong rừng mãi mãi là một điều rất cao quý. Có những con hổ thực sự tận hưởng một cuộc sống tươi đẹp mà thiên nhiên dành cho. Đó là khoảnh khắc con hổ "say", nhìn sự thay đổi của "Giang Sơn", đang ngủ và muốn chiếm lấy "phần bí mật".
Nó thoải mái ở đất nước của mình và khẳng định giá trị thực sự của cuộc sống với vẻ đẹp lộng lẫy, thơ mộng và cũng đầy quyến rũ. Nhưng bây giờ, tất cả chỉ là những ký ức trong quá khứ. Hổ chưa bao giờ nhìn thấy cảnh "đêm vàng bên dòng suối", nhìn thấy "những ngày mưa bước sang bốn ngàn", nghe tiếng chim hót, đắm mình trong "bình minh, cây xanh và nắng. rửa ", đang chờ đợi" mảnh chết của mặt trời "của buổi chiều" lấp lánh máu phía sau khu rừng ".
Những cảnh đó chỉ để lại cảm giác hối hận trong con hổ, bị nhét vào bởi cảm xúc mạnh mẽ, tràn ngập của những câu hỏi đau đớn. Nỗi nhớ dài dòng với những cảm xúc về quá khứ tươi đẹp đã khép lại giấc mơ vinh quang trong một tiếng khóc cay đắng:
“Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu”
Sống lại với những ký ức đẹp trong những ngọn núi và khu rừng hùng vĩ, con hổ đột nhiên nhận ra sự tầm thường sai lầm của những cảnh nơi nó sống. Trong vẻ kiêu ngạo của con hổ là những cảnh "không bao giờ thay đổi", những cảnh đơn điệu nhàm chán được chỉnh sửa bởi mọi người và cố gắng "bắt chước".
Vua của rừng rậm thể hiện thái độ khinh miệt và khinh miệt đối với những cảnh nhỏ bé và thấp kém của những lời nói dối nhân tạo. Nó không phải là một nơi xứng đáng để sống như một người cai trị. Ngay cả khi chúng ta cố gắng sửa chữa nó, thì đó chỉ là những "dải nước đen không chảy" dưới những "gò đất thấp kém", những "bông hoa chăm sóc, những mỏm cỏ, những con đường bằng phẳng, thực vật" không có gì là "bí ẩn" "hoang dã". Những cảnh sống ngụy trang này khiến những con hổ thậm chí còn hối tiếc hơn khi chúng nhớ đến nơi "ngàn năm cao cả và tối tăm".
Ghê tởm với cuộc sống thực, ôm lấy sự oán giận liên tục, con hổ khát một cuộc sống tự do mãnh liệt. Tất cả cảm xúc của con hổ thuộc về khu rừng tối tăm hàng ngàn năm. Cũng thông qua đó, vua núi đã gửi một thông điệp một cách nghiêm túc về những ngọn núi và rừng.
Mặc dù đang suy tàn, nhưng con hổ không thể che giấu niềm tự hào của mình khi nói đến "đất nước trẻ hùng vĩ". Giang Sơn là nơi những chú hổ đã có một ngày vui và vật lộn trong một không gian riêng biệt, rộng rãi. Ngay cả bây giờ họ sẽ không bao giờ được hồi sinh ở những nơi cũ, nhưng con hổ vẫn không bao giờ ngừng nghĩ về "giấc mơ lớn". Vị thần thất sủng đã cầu xin được sống mãi trong ký ức, ký ức về vẻ đẹp bất 400m:
“Để hồn ta phảng phất được gần người
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi”
Trái tim của con hổ là lời thú nhận của chàng trai trẻ, The Lu, mơ về một quá khứ cuộc sống tươi đẹp trong quá khứ. Đó cũng là tinh thần chung của hầu hết các bài thơ của Thế Lữ cũng như trong phong trào Thơ mới, mang theo mong muốn sống của con người.
Hãy nhớ rằng Forest không thể thoát khỏi nỗi buồn, "căn bệnh của tuổi tác" vào thời điểm đó. Nhưng bài thơ là duy nhất bởi vì nó tạo ra một điểm gặp gỡ giữa sự phẫn nộ của những người mất nước và tâm trạng bất hòa bất lực đối với thực tế của giới trí thức tư sản trẻ tuổi. Qua đó khơi dậy mong muốn tự do chính đáng.
Giàu cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh tâm, Hãy nhớ rằng Khu rừng đã lan tỏa một tâm hồn thơ mộng và nhiều hình ảnh thơ mộng ấn tượng mô tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thành công của Lu là thể hiện trí tưởng tượng phong phú khi anh mượn hình ảnh của một con hổ trong sở thú để nói về sự bí mật sâu sắc của mình. Qua đó thể hiện sự căm ghét cuộc sống chật chội, đồng thời khơi dậy tình cảm yêu nước của người dân lúc bấy giờ.
Cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 1
Trước hết, ta cần hiểu vì sao tác giả bài thơ lại mượn "lời con hổ ở vườn bách thú"? Chú thích cho một hình tượng thơ có lẽ không ngoài một dụng ý: Tránh đi sự suy diễn, hiểu lầm. Hình tượng con hổ cho dù có là một sự hoá thân của thi sĩ, nó vẫn là một chủ thể trữ tình, nhất quán và toàn vẹn. Đó là phần nổi của bài thơ. Còn phía sau, phần chìm có thể liên tưởng đến hai lớp nghĩa có cả ý thức giải phóng cá nhân (cái tôi), có cả tâm trạng nhớ tiếc, ru hoài của một dân tộc đang bị xiềng xích, đang khao khát tự do, với thái độ phủ nhận thực tại mà hướng về quá khứ oanh liệt vàng son. Bởi vậy, khi phân tích bài thơ không thể bỏ qua cái nhìn chính diện.
Cái nhìn đối mặt với cảnh ngộ bị cầm tù của con hổ, cơ sở của niềm u uất không nguôi, là một cái nhìn đầy bi kịch. Tính chất bi kịch này cần được hiểu theo hai cấp độ: Một là hoàn cảnh đổi thay, nhưng con hổ không đổi thay. Sự "không đổi thay" của con hổ ở cả hai phương diện chủ quan và khách quan: Một mặt nó không cam chịu hạ mình và một mặt nữa: Nó không chấp nhận hoàn cảnh. Không chịu hạ mình vì con hổ luôn ý thức mình là một bậc đế vương, ngự trị trên cái ngai vàng vĩnh hằng của bậc vua chúa. Còn thái độ không chấp nhận hoàn cảnh cũng là từ đó mà ra: Chấp nhận môi trường sống đã đổi thay, nó không còn là chính nó. Không chấp nhận, không tự đổi thay tạo nên độ chênh và sự giằng xé dữ dội. Tâm trạng nguyên khối ấy tượng hình lên một con hổ với niềm u uất không nguôi chạy đọc bài thơ, đi vào từng câu thơ như những hồng cầu để nuôi cơ thể.
Hai đoạn thơ nói về hoàn cảnh đã đổi thay (đoạn 1 và đoạn 4) tạo nên xung đột, một xung đột không thể dung hoà, thật là ngột ngạt. Nhưng trong cái vòng xoáy của tâm tư ấy, mỗi đoạn thơ là một nỗi đau riêng. Có nỗi đau của sự bất đắc chí, bị "sa cơ", lỡ vận phải rơi vào cảnh ngộ trớ trêu (đoạn 1), phải chấp nhận một cảnh ngộ không thể nào chấp nhận: Vừa giả tạo vừa tầm thường (đoạn 4). Đối lập thứ nhất (đoạn 1) là đối lập giữa hai giống loài không thể nào là "ngang bầy", là đồng loại, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với cặp báo yên phận, vói bọn "gấu dở hơi". Ý thức về sự không thể "ngang bầy" nay đang phải chịu "ngang bầy" tạo nên cú sốc đầu tiên vô cùng chua chát:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Khác với hình thức của câu thơ thất ngôn kiểu cũ, câu thơ tám chữ đó là một sự cách tân, nhưng sự đột biến của cuộc cách mạng thi ca phái nói đến âm điệu, ở tỉ lệ những thanh bằng, thanh trắc của câu. Trong câu thơ Đường luật, tỉ lệ đó ngang bằng hoặc xấp xỉ ngang bằng, có sự phối hợp đan xen, còn đây tần số những thanh bằng bị áp đảo, không những thế, các thanh trắc đều dồn trọng tải vào đầu và cuối câu như những gọng kìm rắn chắc, những kim khí va chạm nhau. Uất ức và bất lực là tâm thế của các sinh vật bị giam cầm, nhất là với giống loài không chịu đựng được xiềng xích, giam cầm như loài hổ. Bất lực uất ức công với bất lực buồng xuôi là đặc tả chân dung đầy ấn tượng ở hai câu đầu. Nó được phân bố tinh vi đến từng âm tiết. Nếu câu đầu, những âm thanh chối tai đặc quánh lại thì đến câu sau, nó mất hút, nó bị thay thế: Những thanh bằng buông xuôi, trải rộng, lan xa không còn sinh khí nữa. Cái khinh và cái tức của con hổ chỉ còn được nén lại trong lòng như một nỗi niềm u ẩn. Nó cứ dày thêm trầm tích của niềm đau. Không phải ngẫu nhiên trong đoạn thơ tiếp nối sáu câu, có đến bốn câu nói đến loài người. Đành rằng ở đây, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với đồng loại (gấu, báo) đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, nhưng có lẽ niềm căm phẫn với con người, với giống người mới đủ sức tạo nên một giọng thơ hằn học. Là bởi vì với con hổ thì loài báo, loài gấu vốn là những con vật hiền lành, vô hại, nhưng với con người đã diễn ra một tương quan đối nghịch giữa thắng và thua.
Mà sự thua thắng này, oan uổng thay, không do thực tài thực sức (có lẽ loài người chỉ hơn loài hổ ở sự túc trí đa mưu). Cái lẽ ra phải thua đã thắng, đôi mắt hạt đậu đã có thể chế giễu cả rừng thiêng. Sự hạ nhục đối với loài hổ, đau đớn thay là vị thế phải tôn thờ, sùng bái (ông ba mươi) chỉ còn là "trò lạ mắt, thứ đồ chơi". Còn câu thơ nói về cặp báo, bọn gấu chẳng qua chỉ là một thứ vĩ thanh của cái mặt bằng hèn kém mà con hổ phải rơi vào. Nếu đoạn một của bài thơ nói về sự đổi thay vị trí thì đoạn bốn của bài thơ nói về tâm trạng của con hổ khi phải đối mặt với cái mà nó không muốn đối mặt. Tâm trạng ấy giống như một quả bóng bị xì hơi, ấy là tâm trạng của giống chim trời bị trói cánh. Cũng là cảnh rừng thiêng nhưng chỉ là sự "học đòi bắt chước vẻ hoang vu", nó tầm thường nhạt nhẽo. Nó có đủ nhưng thật ra không có gì, vì cảnh thiên nhiên tưởng như là có cả, nhưng linh hồn của nó thì không:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém…
Nếu sự đổi mới của thơ ca bắt đầu từ nhịp điệu, thì đây là một trường hợp mở đầu, một ví dụ điển hình. Nếu ngắt nhịp, ta có câu một: 2/2/2/2, câu hai: 5/3, câu ba: 3/5 thật là phóng túng. Nó diễn tả sự chật chội, bị bó buộc, gò bó cần phải phá tung ra để nói được cái thật của cảm nghĩ, cái khao khát được tháo cũi sổ lồng.
Ghìm nén và tung phá, ấy là xung lực đồng khởi của từng đoạn thơ. Nó cũng còn là cảm hứng của toàn bộ bài thơ nếu nhìn một cách vĩ mô tổng thể. Ngay sự đan cài giữa cái hôm nay và cái hôm qua, cái mất, cái còn, cái nhạt tẻ và cái huy hoàng ngày xưa của nó, tất cả đều hỗ trợ cho nhau, soi chiếu vào nhau mà trở nên lấp lánh. Tuy nhiên, về cơ bản, bài thơ như một hoài niệm. Ngày xưa mới là cái đích cuối cùng, là cứu cánh. Cội rễ mà niềm say đắm hướng về không phải là hôm nay mà từ hôm nay hướng về hôm qua, về cái một đi không trở lại: "Nơi ta không còn được thấy bao giờ", "Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa". Tiếng nấc nghẹn ngào ấy hướng về cái phía rừng thiêng – nguồn cội của niềm tự hào khi "hầm thiêng" đang là bá chủ.
Phủ nhận cái trước mắt, cái hiện thời, lối thoát chỉ còn hai hướng: Trở về quá khứ hoặc ngưỡng vọng tới tương lai. Con hổ không có tương lai, nó chỉ còn quá khứ. Đối lập hai vùng không gian ấy, cảm hứng lãng mạn trào dâng những giai điệu say mê. Quá khứ đã trở nên một vầng hào quang chói lọi khác thường do những tưởng tượng được đẩy lên đến mức tột cùng sảng khoái. Thơ mới nói riêng và chủ nghĩa lãng mạn nói chung đã tự tạo cho mình một miền đất, một khoảng trời riêng để tự do vùng vẫy. Cái lớn lao, cái dữ dội, cái phi thường trong màn sương bí ẩn lung linh, huyền ảo của quá khứ hiện ra có ý nghĩa giải thoát "một khối căm hờn" không tan của hiện tại. Ấy là một quá khứ rất đặc trưng của loài hổ: Cả thời gian, cả không gian, cả niềm nhớ tiếc cái thuở huy hoàng một đi không trở lại. Các yếu tố thuộc ngoại cảnh và thuộc nội tâm trên đây được nhào nặn lại nhằm khắc hoạ, làm nổi bật chủ thế trữ tình là nhân vật tự gọi là "ta" nhưng thực chất là "cái tôi" bừng thức, "cái tôi" trung tâm của một "thời oanh liệt". Cảnh rừng thiêng vì sao có lúc được gợi ra với "bóng cả, cây già", khi thì bóng tối âm thầm với "lá gai cỏ sắc", cả những cỏ hoa không tuổi không tên? Ba cung bậc của tự nhiên gắn với độ trường cửu, vĩnh hằng, với sự hoang dã, âm u và với cả một nền hoa cỏ vô danh nhằm tôn vinh một nhân vật thần thánh mà tất cả phải cúi đầu "Ta biết ta chúa tể cả muôn loài". Nhân vật thần thánh đường bệ, uy nghiêm ấy hiện ra bằng một bức tranh đặc tả, cả ngoại hình và sức mạnh bên trong ghê gớm. Một bước chân của loài hổ, một vũ điệu lượn vờn tự nhiên của nó không giống đồng loại, không giống một ai. Sự phong phú và nhất quán trong hệ thống động tác ngoại hình này là để chuẩn bị cho một phút cao trào khi tất cả trở thành sở hữu riêng của nó, do nó chế ngự:
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Cảm giác của người đọc chúng ta là con hổ đang ngược thời gian, bơi trong dòng hoài niệm miên man không phải là vô cớ. Chính con hổ cũng tự nhận: "Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ". Những câu thơ tám chữ vốn có dung lượng lớn hơn câu thơ thất ngôn được liên kết bằng những từ nối ở đầu nhịp, đầu câu chẳng phải là vô tình như những điệp khúc bắc cầu cho "tình thương nỗi nhớ" ấy dài ra:
Nhớ cành sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội…
Cũng đều là những hoài niệm về quá khứ, nhưng đoạn ba không giống với đoạn hai vì trước hết nó gắn với nỗi xót xa, nhớ tiếc (còn đoạn hai là đặc tả chân dung). Nỗi nhớ tiếc đến quặn thất nỗi lòng ấy tạo ra bởi ngữ điệu riêng. Những chữ "đâu" như xát muối cứ như kiếm tìm vào một hoang vắng, xa xôi đứng ở đầu câu để kết thúc bằng những dấu hỏi tu từ như oán than, như ngơ ngác:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối…
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn…
Đâu những bình minh…
Cũng là cái thực (trong quá khứ) với con hổ, nhưng từ đoạn hai, rồi đoạn ba, và kết thúc bằng đoạn năm, cái thực ấy cứ bị đẩy đi để mỗi lúc một xa hơn. Cảm xúc thơ mỗi lúc một chới với. Chỗ đứng thời gian không còn xác định nữa, câu thơ vội vàng, gấp gáp như níu kéo lại một chút gì đó của ngày xưa.
Câu trả lời của bạn: 11:11 06/02/2023
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia đúng như nhận định của Nguyễn Du. Người phụ nữ dù được sinh ra trong gia đình thuộc thành phần giai cấp nào, dù tốt đẹp nết na cũng đều cùng chung số phận “bạc mệnh” như nhau. Số phận hẩm hiu đáng thương ấy đã được các nhà văn phản ánh lại trong tác phẩm của mình.
Có lẽ tiêu biểu nhất là Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, một tác phẩm nổi tiếng của thế kỉ XVI (Trong tập Truyền kì mạn lục). Đây là một tác phẩm có giá trị sâu sắc về nhiều mặt và đã gây được cảm xúc trong lòng người đọc ở mọi thế hệ.
Chuyện người con gái Nam Xương là một tác phẩm có giá trị hiện thực sâu sắc. Xã hội thời ấy là một xã hội loạn lạc, chiến tranh xảy ra liên miên đã làm cho cuộc sống của người dân thật điêu linh khốn khổ. Vì vậy mà họ rất chán ghét chiến tranh. Qua buổi tiễn đưa Trương Sinh ra trận, với những lời dặn dò của bà mẹ, lời tâm sự của Vũ Nương với chồng, ta cũng thấy được thái độ kinh sợ chiến tranh của người dân lúc bấy giờ.
Chính chiến tranh đã làm cho vợ phải xa chồng, cha phải xa con... và nó còn là nguyên nhân gây ra bao nỗi bất hạnh cho người 1 vợ nữa. Trương Sinh đi lính, Vũ Thị Thiết ở nhà một mực thủy chung với chồng, thay chồng gánh vác hết mọi công việc gia đình: sinh con, chăm sóc mẹ chồng, lo toan mọi công việc trước sau. Mẹ chồng bệnh lo thuốc thang, mẹ mất lo ma chay, cúng tế đàng hoàng.
Vậy mà khi chồng trở về, nàng chưa được vui sum họp lại gặp tai họa bất ngờ. Bởi anh chồng thất học lại có tính đa nghi, ghen tuông mù quáng chỉ nghe theo lời đứa trẻ ngây thơ không biết xét suy đã vội nghi oan cho vợ. Chỉ vì “cái bóng” vô hình mà Vũ Nương bị mắc oan. Nỗi oan động đất trời lại không thể giãi bày được cùng ai. Bởi cái lễ giáo phong kiến, cái thế lực nam quyền không cho phép người phụ nữ được lên tiếng minh oan. Họ không có một quyền hành gì cả, không được ai bênh vực hay chở che. Cuối cùng nàng phải mang mối oan tình xuống dòng nước bạc.
Số phận của người phụ nừ trong xã hội phong kiến là như thế đó! Sợi dây lễ giáo trói buộc người phụ nữ, họ phải mang số phận “bạc mệnh” đến hết cuộc đời. Thậm chí khi được giải oan, dẫu Vũ Nương rất thương nhớ chồng con nhưng cũng không thể nào trở lại cõi trần được vì nơi đó luôn gieo tai họa cho người phụ nữ. Đây là một chi tiết mang giá trị tố cáo cao.
Nó khẳng định được bản chất xấu xa của xã hội phong kiến, một nhà tù giam hãm cuộc đời của người phụ nữ suốt bao thế kỉ. Cả tác phẩm là một bức tranh hiện thực sinh động phản ánh được thân phận đáng thương của người phụ nữ trong xã hội xưa kia.
Đằng sau nỗi khổ của Vũ Nương, ta còn thấy tấm lòng nhân đạo đáng quý của nhà văn. Xuất phát từ tấm lòng yêu thương trân trọng người phụ nữ, Nguyễn Dữ tập trung ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người con gái Nam Xương: đảm đang, hiếu nghĩa, thủy chung. Khi chồng đi lính, nàng một mình làm hết cả vai trò của chồng lẫn vợ không một chút than vãn: nuôi dạy con thơ, chăm sóc mẹ già.
Nàng luôn giữ trọn đạo hiếu đối với cha mẹ, phụng dưỡng mẹ chồng như mẹ ruột. Đối với chồng, trước sau nàng vẫn giữ trọn nghĩa tình. Biết chồng vốn tính đa nghi, “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa”. Khi bị chồng nghi oan, không thể giãi bày được, nàng đã lấy cái chết để chứng thực nghĩa tình của mình.
Lời nguyện thề của Vũ Nương trước khi chết cũng chứng tỏ được tấm lòng trong trắng, thủy chung của nàng. “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Vũ Nương tin ở tấm lòng thủy chung trong trắng của mình nên sau khi chết đã được như lời nguyền.
Tiết nghĩa của người con gái Nam Xương như thế! Câu chuyện càng thương tâm, tấm lòng nàng lại càng sáng tỏ. Vũ Thị Thiết là hiện thân của tâm hồn cao đẹp. Trong lòng nàng như không hề gợn một mảy may vẩn đục nào ngoài lòng yêu thương chồng, thương con. Tinh thần nhân đạo của tác phẩm còn bộc lộ rõ rệt trong việc phản ánh nỗi oan của Vũ Nương. Trong khi chế độ phong kiến coi thường quyền sống của người phụ nữ, không hề quan tâm đến nỗi khổ của họ, nguyện vọng của họ, thì truyện ngắn này đã đề cập tới nỗi khổ ấy, xót thương đến nỗi oan ấy.
Bên cạnh đó, Nguyễn Dữ còn đề cao một khát vọng của họ: được tôn trọng. Sau khi vợ chết không chỉ chàng Trương hiểu ra nỗi oan của nàng và lập đàn giải oan, mà tấm lòng trong sáng thủy chung ấy, nỗi khổ ấy còn cảm động đến thần linh. Hình ảnh “Vũ Nương ngồi kiệu hoa, theo sau đó có hơn năm mươi chiếc xe, cờ tán võng lọng rực rỡ” thật là đẹp đẽ. Đó là phần thưởng, là niềm an ủi cho nàng. Đồng thời nó cũng thể hiện được ước mơ của tác giả, của nhân dân ta ngày xưa.
Bên cạnh đó, truyện còn có nhiều thành công về mặt nghệ thuật.
Đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện giàu kịch tính. Những chỗ thắt nút, mở nút, bất ngờ mà vẫn hợp lí. Người đọc bất ngờ vì những câu nói ngây thơ của đứa trẻ lần đầu gặp cha, sửng sốt và thương tâm trước cái chết của người vợ, càng bàng hoàng khi đọc đến chi tiết: đứa con chỉ bóng cha in trên vách mà nói: “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Thì ra nguyên nhân nỗi đau khổ, nỗi oan ức của một con người, sự tan nát của một gia đình chỉ vì một “cái bóng” qua lời nói của trẻ thơ. Chính chi tiết đó làm nỗi oan nổi rõ lên với tất cả cái bi thảm của nó.
Các nhân vật trong truyện tuy chưa thật sự có cá tính rõ rệt nhưng cũng biểu hiện được với một vài đặc điểm khá sắc sảo: đứa trẻ thì vô tư, người vợ thảo hiền thủy chung cam chịu, người chồng vừa nóng nảy hay ghen lại vừa cả tin nhẹ dạ. Truyện lại kết hợp chất hiện thực với những yếu tố hoang đường kì diệu gây hứng thú cho người đọc.
Tuy nhiên do được viết bằng chữ Hán, với những cách diễn đạt bóng bẩy và ít nhiều công thức, ngôn ngữ của truyện còn gây cho ta cảm giác thiếu tự nhiên ta chưa biết được thực sự lời nói của cha ông ta ngày ấy. Nhưng dẫu sao, đây cũng là một truyện ngắn đầu tiên của văn học Việt Nam có những thành công sắc sảo.
Tóm lại, Chuyện người con gái Nam Xương là một câu chuyện tình đầy oan khuất. Qua truyện, ta hiểu được sự bất công phi lí của xã hội phong kiến đã đem đến nỗi đau khổ cho người phụ nữ đẹp trong văn chương Việt Nam thế kỉ XVI làm sáng ngời phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. Dẫu đã trải qua nhiều thế kỉ, nhưng thời gian vẫn không làm giảm đi giá trị của tác phẩm văn học đặc sắc này. Tác phẩm là một trong những viên đá đầu tiên đã góp phần xây dựng nên ngôi nhà lớn văn xuôi Việt Nam.
Câu trả lời của bạn: 11:10 06/02/2023
Câu trả lời của bạn: 11:07 06/02/2023
89,5.....<...98,49
732,5....=....732,500
17,510...=.....17,5100
1450...>....14,6
Câu trả lời của bạn: 11:03 06/02/2023
Câu trả lời của bạn: 10:10 06/02/2023
Câu trả lời của bạn: 09:58 06/02/2023
Đất nước ta là đất nước giàu truyền thống văn hóa. Có rất nhiều đạo lí mà ông cha chúng ta truyền dạy, vẫn là những đạo lí chẳng bao giờ sai cả. Con người sống trong xã hội cần phải có lòng biết ơn, để chúng ta trân trọng những gì mà người khác mang lại cho chúng ta.
Lòng biết ơn đơn giản là ai đó có ơn với chúng ta, và chúng ta ghi nhớ ơn của người ấy với mình. Mong muốn được đền đáp ân nghĩa của người ấy.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách. Đôi khi chúng ta mắc phải sai lầm, và may mắn khi có người giúp đỡ chúng ta khắc phục. Chúng ta cần biết ơn họ, quý trọng những gì họ đã giúp đỡ chúng ta.
Là một công dân của đất nước, là những người đang hưởng chế độ của xã hội. Chúng ta có rất nhiều thứ cần phải biết ơn. Trước hết đó là biết ơn những bậc cha, mẹ những người đã sinh thành ra chúng ta. Những người đã hi sinh cả đời vì chúng ta, từ khi chúng ta còn bé. Cha mẹ đã chăm sóc, dìu dắt chúng ta cho tới tận khi cha mẹ mất đi. Công lao của cha mẹ đối với chúng ta là vô cùng to lớn mà chẳng thể làm cách nào chúng ta bù đắp lại được.
Vì vậy, chúng ta phải biết ơn họ, để không phải hối hận. Cha mẹ chẳng thể nào sống với chúng ta cả đời được, sẽ có ngày cha mẹ mất đi, hãy biết ơn, chăm lo, quan tâm tới cha mẹ. Để những điều tuyệt vời nhất sẽ đến với chúng ta.
Biết ơn với thầy cô, bạn bè, những người xung quanh. Thầy cô giáo dục chúng ta, giúp chúng ta có một hành trang về kiến thức vững chắc để bước vào đời. Những người cả đời mình làm cho sự nghiệp giáo dục, đưa đò chở học sinh đến bến bờ của thành công. Hay bạn bè, những người sát cánh cùng chúng ta mỗi khó khăn, vất vả.
Hay những người không may xảy ra tai nạn trên đường. Được người khác cứu giúp kịp thời. Họ thật sự may mắn vì đã được người khác giúp đỡ. Cho nên, hãy biết ơn những người đã giúp mình thoát khỏi cơn nguy hiểm.
Những chiến sĩ đã hi sinh thân mình cho độc lập của toàn dân tộc, hay những người vẫn canh giữ cho bình yên của đất nước ở nơi xa. Nhiều lắm những thứ mà chúng ta cần biết ơn, cần trân trọng. Giá trị của cuộc sống đem lại cho chúng ta là vô cùng to lớn. Bởi vậy, chúng ta cần phải trân trọng cuộc sống đó, sống một cách có trách nhiệm, biết ơn cuộc sống đã đến với chúng ta.
Cuộc sống kì diệu là vậy, nhưng không phải ai cũng biết sống một cách đúng mực, biết ơn với đời. Có nhiều người sẵn sàng vứt bỏ những giá trị tốt đẹp ấy một cách trắng trợn. Họ đối xử tệ bạc với cha mẹ của mình, thay vì biết ơn vì công lao của cha mẹ đã sinh thành. Họ lại tàn nhẫn đánh đập, đuổi cha mẹ ra đường. Những hình ảnh khiến con người phải đau lòng, vẫn diễn ra ở đâu đó khắp mọi nơi.
Xã hội hiện đại, làm cho con người chỉ biết tới bản thân mình. Và coi rằng tất cả mọi thứ mà họ có được đều là do bản thân họ. Chẳng ai khác cho họ một điều gì, cho nên họ nghĩ rằng chẳng phải biết ơn bất cứ một ai cả. Chính vì những tư tưởng ấy đã làm cho một bộ phận con người trong xã hội mới, đánh mất đi nhân cách của chính bản thân mình.
Biết ơn là đức tính cao đẹp, truyền thống văn hóa của dân tộc. Giữ gìn truyền thống văn hóa là cách để giữ gìn bản sắc của một quốc gia. Một quốc gia phát triển không phải chỉ ở kinh tế, mà đó còn ở văn hóa bản sắc của quốc gia đó.
Hãy trân trọng cuộc sống đang ở quanh bạn, trân trọng những người vẫn đang ở quanh chúng ta. Biết ơn đời, vì đã cho chúng ta cơ hội để được sống. Được làm tất cả mọi thứ mà chúng ta muốn. Để cho hạnh phúc luôn ngập tràn trong mỗi chúng ta. Cảm ơn cuộc đời đã cho chúng ta được tồn tại.
Câu trả lời của bạn: 09:50 06/02/2023
=5