Lê Thị Thủy
Kim cương đoàn
6,610
1322
Câu trả lời của bạn: 12:01 04/06/2020
I. Dàn Ý Thuyết Minh Về Một Cuốn Sách
1. Mở bài
Giới thiệu về cuốn sách em yêu thích: cuốn "Cám ơn người lớn".
2. Thân bài
* Nguồn gốc, xuất xứ:
- Cuốn sách thứ 44 của tác giả Nguy
Câu trả lời của bạn: 11:55 04/06/2020
I. Dàn Ý Thuyết Minh Về L
Câu trả lời của bạn: 11:54 04/06/2020
I. Dàn Ý Thuyết Minh Về Nét Đặc Sắc Trong Di Tích Thắng Cảnh Cung Đình Huế
1. Mở bài
Giới thiệu vấn đề cần thuyết minh.
2. Thân bài
a. Lịch sử và những nét khái quát chung:
- Kinh thành Huế còn có tên gọi khác là Thuận Hóa kinh thành, ngày nay người ta vẫn thường gọi là Đại Nội Huế, là nơi đóng đô của nhà Nguy
Câu trả lời của bạn: 11:51 04/06/2020
I. Dàn Ý Nghị Luận Về Truyện Ngắn Chiếc Lược Ngà
1. Mở bài
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
2. Thân bài:
a. Nhân vật ông Sáu - "không có hạnh phúc nào cho người lính":
- Hy sinh cả tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cầm súng chiến đấu suốt hàng chục năm trời, từ những ngày đứa con gái của anh chưa tròn một tuổi.
- Chấp nhận rời bỏ quê hương, rời xa vợ con để theo tiếng gọi của Tổ quốc, hy sinh cả sức khỏe, xương máu của mình ở tại chiến trường.
- Sau nhiều năm chiến đấu cuối cùng anh nhận lại:
+ Một tấm thân đầy sương gió, sự xa cách của con gái, một vết sẹo dữ tợn trên mặt.
+ Trong suốt những ngày nghỉ phép, anh Sáu đã phải đối diện với những nỗi đau thực ghê gớm, sự buồn rầu, xót xa, sự nuối tiếc khi đã bỏ lỡ những thời gian ở cạnh đứa con.
+ Những cử chỉ ghét bỏ, lạnh lùng của bé Thu dường như đang cứa vào trái tim anh từng nhát, mang đến những nỗi đớn đau day dứt trong tâm hồn.
- Cho đến khi cha con nhận nhau, giữa một khung cảnh đầy cảm động yêu thương thì anh Sáu lại phải lên đường trở lại chiến trường, rồi cuối cùng hy sinh tại đó.
- Anh đã ra đi khi chưa kịp tận tay đưa cho đứa con gái yêu của mình chiếc lược ngà mà anh hứa sẽ tặng nó, ra đi trong những nỗi đau và nuối tiếc dồn nén, cả đối với người ra đi và những người ở lại.
=> Nhân vật anh Sáu trong truyện ngắn Chiếc lược ngà chính là một trong những đại diện, ví dụ tiêu biểu nhất về câu nói: "Không có hạnh phúc nào cho người lính". Điều đó khiến mỗi chúng ta ngày hôm nay lại càng phải thêm trân trọng những gì mà cha ông đã hy sinh xương máu, tình cảm cá nhân để giành lại, đồng thời có tấm lòng yêu thương, kính trọng với những con người đã ngã xuống về nền độc lập dân tộc cũng như với thân nhân của họ.
b. Bé Thu - nạn nhân gián tiếp của những bi kịch chiến tranh:
- Có hoàn cảnh tội nghiệp, cha ra đi vào chiến trường từ những ngày em còn chưa biết gì, thiếu thốn tình cảm của cha, lớn lên trong vòng tay của mẹ, của bà vào những năm tháng đất nước nhiều đau thương.
- Thu là một cô bé biết suy nghĩ, bé thấu hiểu cho hành động đi chiến đấu của cha, và trong trái tim bé nhỏ không chỉ là những tình cảm yêu thương thắm thiết phụ tử, mà còn là cả tấm lòng ngưỡng mộ về một người lính cách mạng anh hùng.
- Nhưng chính sự xa cách và những suy nghĩ non dại của Thu đã dẫn đến những bi kịch gia đình, chỉ vì một vết sẹo và ngoại hình đổi thay mà không chịu nhận ông Sáu là cha, không gọi một tiếng "cha" nào cả, và còn có những hành động hỗn hào, lạnh lùng với ông Sáu.
- Một bi kịch khác trong mối quan hệ giữa cha con bé Thu và của chính bé Thu có lẽ là nỗi niềm hối hận, nuối tiếc muộn màng. Khi cô bé đã hiểu ra mọi chuyện, quyết định quay về nhận cha, thì cũng là lúc anh Sáu phải quay lại chiến trường.
- Ngày bé nhận cha cũng là lần cuối cô bé còn được nhìn thấy cha bằng xương bằng thịt, thì lại càng thêm đau đớn. Người con gái ấy kể cả khi lớn lên, có lẽ trong trái tim vẫn luôn âm ỉ đau đớn một nỗi niềm hối hận, khi giờ đây chỉ còn lại duy nhất chiếc lược ngà là kỷ vật người cha tỉ mẩn khắc từng nhát dao để lại cho cô bé.
c. Tình phụ tử sâu nặng:
- Bản thân ông Sáu cố gắng bù đắp, cố gắng, chăm sóc bé Thu những ngày nghỉ phép, tỉ mẩn làm cho nó một chiếc lược ngà, làm xong rồi thì luôn đặt trong túi trước ngực, thỉnh thoảng lại lấy ra chải tóc cho chiếc lược thêm bóng bẩy, đẹp đẽ.
- Ở bé Thu là những tình cảm ngây thơ trong sáng, tình yêu thương đối với cha hình thành từ tấm ảnh, rồi qua những lời kể của mẹ, của bà, và cuối cùng là khi đã hiểu rõ mọi chuyện, thì con bé trở nên dũng cảm, lập tức quay về nhận cha, vì sợ không được gặp cha nữa.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận chung.
II. Bài Văn Mẫu Nghị Luận Về Truyện Ngắn Chiếc Lược Ngà
Nguy
Câu trả lời của bạn: 11:46 04/06/2020
I. Dàn Ý Cảm Nhận Tâm Trạng Của Nhân Vật Tràng Liên Hệ Với Tâm Trạng Chí Phèo
1. Mở bài
Giới thiệu vấn đề cần phân tích.
2. Thân bài
a. Di
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 11:44 04/06/2020
I. Dàn Ý Cảm Nhận Của Anh Chị Về Hành Động Mị Chạy Theo A Phủ Trong Tác Phẩm Vợ Chồng A Phủ
1. Mở bài
Giới thiệu vấn đề cần cảm nhận:
2. Thân bài
a. Khởi đầu cho hành động liều lĩnh của Mị là xuất phát từ số phận đau thương:
- Mị là một người con gái xinh đẹp, biết thổi sáo, thổi sáo rất hay, lại được nhiều trai làng ngấp nghé và Mị cũng có riêng cho mình một tình yêu đẹp đẽ.
- Mị bị ép trở thành con dâu gán nợ, thực tế là trở thành một nô lệ suốt đời làm lụng và phục dịch cho nhà thống lý.
- Ban đầu Mị thấy đau khổ quá, Mị đã nhiều lần muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi cho đỡ khổ. Thế nhưng cuối cùng vì chữ "hiếu" vì thương cha, sợ mình chết rồi thì người ta lại bắt tội cha, Mị đành quay về sống tại căn nhà lạnh lẽo, ác độc ấy như một cái xác không hồn.
- Mị làm lụng quanh năm suốt tháng, đầu óc không nghĩ gì ngoài chuyện đi làm.
- Đày đọa về mặt tinh thần khi Mị phải sống với người mình không yêu, Mị hoàn toàn mất hết quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc.
=> Cuộc đời của Mị chính là một bản án chung thân không hồi kết.
b. Một sự chuyển biến, một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị khởi đầu cho sự tự giải thoát khi chạy theo A Phủ:
- Tiếng sáo gọi bạn tình mùa xuân réo rắt, vui nhộn quẩn quanh đã khơi gợi lại trong lòng Mị biết bao nhiêu kỷ niệm, khiến lòng Mị sống lại những xúc cảm ham sống, ham hạnh phúc.
- Đỉnh điểm của sự ý thức và sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị được bộc lộ khi Mị ý thức một cách mạnh mẽ rằng: " Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết".
- A Sử về trói Mị vào cột nhà, Mị nghĩ về chuyện đã từng có một người đàn bà trong nhà này bị trói cho đến chết.
=> Điều đó cho thấy một cách rõ ràng rằng Mị vẫn còn yêu cuộc đời này lắm, vẫn còn những khao khát được sống, được hạnh phúc, được tự do.
c. Giải thoát cho A Phủ và tự giải thoát cho bản thân:
- Tận mắt chứng kiến giọt nước cay đắng, xót xa của một người đàn ông "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen" của A Phủ, Mị thấy căm giận, phẫn nộ trước sự bất công và độc ác của đám người nhà thống lý Pá Tra, thấy thương xót và đồng cảm cho cuộc đời của A Phủ.
- Mị lại quyết tâm giải cứu A Phủ, mở cho anh một con đường mới.
- Sau khi thấy người đàn ông trước mặt dù đã sức cùng lực kiệt, khuỵu xuống vì đói rét, nhưng vẫn gắng gượng đứng dậy, dùng hết sức bình sinh sinh chạy, lăn xuống dưới sườn đồi để mưu cầu sự sống.
=> Trong lòng Mị ý thức được rằng Mị đã giải thoát được cho người khác thì cớ sao không thể tự giải thoát cho mình, và thế là Mị không còn do dự gì nữa, chạy lao theo A Phủ.
- Câu nói "Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất" vừa là lời giải thích với A Phủ, vừa là những ý thức sâu sắc của Mị về cuộc đời đầy bế tắc và đen tối ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ cả sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sự vùng dậy mạnh mẽ của nhân vật này để đi theo tiếng gọi của tự do, của hạnh phúc.
- Hành động bỏ trốn của Mị:
+ Kéo Mị ra khỏi ách thống trị đàn áp tàn ác của cường quyền và thần quyền phong kiến.
+ Trở thành động lực, tấm gương cho nhiều những người phụ nữ có chung số phận với Mị ở Hồng Ngài nói riêng và vùng núi phía Bắc nói riêng.
+ Chứng minh được rằng sự đàn áp của cường quyền và thần quyền không bao giờ có thể giam cầm được những con người có tâm hồn khao khát tự do, có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
3. Kết bài
Cảm nhận chung
II. Bài Văn Mẫu Cảm Nhận Của Anh Chị Về Hành Động Mị Chạy Theo A Phủ Trong Tác Phẩm Vợ Chồng A Phủ
Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một trong những tác phẩm nổi bật của nền văn học hiện thực nước ta những năm kháng chiến chống Pháp, khi viết về đề tài người phụ nữ dân tộc miền núi và số phận bất hạnh của họ, cũng như những vẻ đẹp tâm hồn tiềm tàng đáng quý, đáng trân trọng. Có thể thấy rõ rằng văn của Tô Hoài không nhằm mục đích chính là phản ánh hiện thực mà chủ yếu là để ca ngợi những vẻ đẹp của con người ở tầng lớp tận cùng đáy của xã hội, chịu sự áp bức của cường quyền và thần quyền phong kiến. Thế nên nhân vật của ông luôn có những sự chuyển biến cảm xúc, tâm trạng tinh tế, cùng những bước ngoặt rất "đắt" thể hiện sự vùng lên mạnh mẽ để tự giải thoát bản thân khỏi số phận đớn đau, mà có lẽ ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là cảnh Mị chạy theo A Phủ trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra.
Nói về hành động bỏ trốn của Mị, nếu như không xét đến một hoàn cảnh nào khác thì đó là một sự kiện xấu xa, trắc nết, bởi lẽ trong phong tục truyền thống của các dân tộc miền núi, hay trong nề nếp gia phong của dân tộc Việt Nam, người ta vẫn đề cao sự chung thủy, kiên trinh của người đàn bà. Mị đã cúng trình mà nhà thống lý Pá Tra, thì đã là người của nhà ấy, là vợ của A Sử, chết cũng phải là ma của ngôi nhà này, không thể đổi khác. Thế nhưng khi xét đến toàn bộ câu chuyện, ta lại mới nhận ra hành động bỏ trốn của Mị dường như là một điều tất yếu, là sự kiện nhất định phải xảy ra sau một loạt các chuỗi biến cố trong cuộc đời bất hạnh của Mị. Mị là một người con gái xinh đẹp, biết thổi sáo, thổi sáo rất hay, lại được nhiều trai làng để ý và Mị cũng có riêng cho mình một tình yêu đẹp đẽ, có lẽ sẽ đơm thành trái nếu không có món nợ truyền kiếp của cha Mị. Thêm vào đó Mị cũng là người con gái chăm chỉ, chịu khó, Mị sẵn sàng lên nương trồng bắp, trồng sắn để trả nợ thay cha, chứ không muốn gả vào làm dâu nhà giàu có. Điều đó thể hiện được tấm lòng hiếu thảo, không tham phú phụ bần của Mị, và đáng lý rằng một người con gái như vậy phải đáng được hưởng một cuộc đời ấm êm, dẫu không giàu sang nhưng hạnh phúc, tự do. Thế nhưng sức mạnh của cường quyền và thần quyền phong kiến đã không cho phép điều đó xảy ra, A Sử đã dùng vũ lực để bắt Mị về cúng trình ma, ép Mị trở thành con dâu gán nợ, thực tế là trở thành một nô lệ suốt đời làm lụng và phục dịch cho nhà nó. Ban đầu Mị thấy đau khổ quá, Mị đã nhiều lần muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi cho đỡ khổ, Mị chạy về khóc xin cha,... thế nhưng cuối cùng vì chữ "hiếu" vì thương cha, sợ mình chết rồi thì người ta lại bắt tội cha, Mị đành quay về sống tại căn nhà lạnh lẽo, ác độc ấy như một cái xác không hồn. Bao nhiêu niềm vui sướng, hạnh phúc của tuổi trẻ dường như đã tàn lụi và nguội lạnh như một nắm tro tàn trong tâm hồn của người đàn bà tội nghiệp. Mị làm lụng quanh năm suốt tháng, đầu óc không nghĩ gì ngoài chuyện đi làm, Mị quên cả cách giao tiếp nói chuyện, khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi, đầu cúi xuống, sống lầm lũi như một con rùa trong xó cửa. Khổ sở đến độ Mị còn ý thức một cách đau đớn tột cùng rằng: "ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi", "Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày". Không chỉ khổ sở về mặt thể xác mà cuộc đời của Mị còn là những đày đọa về mặt tinh thần, Mị phải sống với người mình không yêu, phải từ bỏ mối tình dang dở của mình, không còn được thổi sáo, thổi lá, chơi xuân cùng chị em như khi còn ở nhà. Mị hoàn toàn mất hết quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, căn buồng Mị ở chẳng khác nào một cái nhà tù khi mà chỉ có một ô cửa bé bằng bàn tay "lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng". Và cuộc đời của Mị chính là một bản án chung thân không hồi kết, Mị sống trong cảnh đau khổ tột cùng ấy sao có thể không chai lì, tuyệt vọng và chết lặng cho được.
Một sự chuyển biến, một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị khởi đầu cho sự tự giải thoát khi chạy theo A Phủ ấy là nhờ vào âm thanh của sự sống: Tiếng sáo gọi bạn tình mùa xuân réo rắt, vui nhộn quẩn quanh. Nó đã khơi gợi lại trong lòng Mị biết bao nhiêu kỷ niệm, khiến lòng Mị sống lại những xúc cảm ham sống, ham hạnh phúc, Mị nhẩm hát theo tiếng sáo, rồi Mị cũng học theo người ta uống rượu, uống ừng ực từng bát. Đỉnh điểm của sự ý thức và sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị được bộc lộ khi Mị ý thức một cách mạnh mẽ rằng:"Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết". Mị vào buồng mặc váy hoa, vấn lại tóc định đi chơi, thì A Sử về nó trói Mị vào cột nhà, ngay lúc này đây lòng Mị vẫn bay theo những tiếng sáo ngoài đường, rồi khi trở lại thực tại, Mị nghĩ về chuyện đã từng có một người đàn bà trong nhà này bị trói cho đến chết. Một kể vốn trước đây đã không còn thiết tha chuyện chết hay sống gì vậy mà giờ đây lại thấy sợ hãi, "Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau từng mảnh thịt". Điều đó cho thấy một cách rõ ràng rằng Mị vẫn còn yêu cuộc đời này lắm, vẫn còn những khao khát được sống, được hạnh phúc, được tự do, Mị không muốn chết vào lúc này, đời Mị còn dài lắm, dù rằng Mị cũng chưa nghĩ ra được giải pháp giải thoát cho bản thân.
Đến khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng giữa sân vì làm mất một con bò và có thể phải đền mạng vì con bò ấy, Mị thoạt đầu tỏ ra chẳng quan tâm, bởi lẽ Mị lo cho thân mình còn chưa xong, nói gì đến những kẻ khác. Thế nhưng khi tận mắt chứng kiến giọt nước cay đắng, xót xa của một người đàn ông "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen" của A Phủ, lòng Mị đã có những biến đổi lớn. Mị thấy căm giận, phẫn nộ trước sự bất công và độc ác của đám người nhà thống lý Pá Tra, thấy thương xót và đồng cảm cho cuộc đời vừa mới bắt đầu của A Phủ mà nay lại sắp phải chấm dứt chỉ vì cái sự nghèo đói và cách biệt tầng lớp. Từ một người phụ nữ yếu đuối, ấy vậy mà Mị lại quyết tâm giải cứu A Phủ, mở cho anh một con đường mới. Ban đầu có lẽ Mị đã định rằng mình dù gì có chết cũng phải là ma của nhà này, thế nên cô quyết định hy sinh để cắt dây trói cho A Phủ, còn bản thân ở lại chịu tội. Tuy nhiên, sau khi thấy người đàn ông trước mặt dù đã sức cùng lực kiệt, khuỵu xuống vì đói rét, nhưng vẫn gắng gượng đứng dậy, dùng hết sức bình sinh sinh chạy, lăn xuống dưới sườn đồi để mưu cầu sự sống. Trong lòng Mị bỗng nhiên vỡ ra một cái gì đó, phải rồi Mị đã giải thoát được cho người khác thì cớ sao không thể tự giải thoát cho mình, và thế là Mị không còn do dự gì nữa, chạy lao theo A Phủ. Câu nói "Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất" vừa là lời giải thích với A Phủ, vừa là những ý thức sâu sắc của Mị về cuộc đời đầy bế tắc và đen tối ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ cả sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sự vùng dậy mạnh mẽ của nhân vật này để đi theo tiếng gọi của tự do, của hạnh phúc, mong muốn khao khát được làm lại một cuộc đời mới, một cuộc đời do chính bản thân mình định đoạt làm chủ. Hành động bỏ trốn của Mị, đã kéo Mị ra khỏi ách thống trị đàn áp tàn ác của cường quyền và thần quyền phong kiến, trở thành động lực, tấm gương cho nhiều những người phụ nữ có chung số phận với Mị ở Hồng Ngài nói riêng và vùng núi phía Bắc nói riêng. Cũng lại chứng minh được rằng sự đàn áp của cường quyền và thần quyền không bao giờ có thể giam cầm được những con người có tâm hồn khao khát tự do, có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, mà chỉ có thể giam cầm được thể xác của họ mà thôi.
Hành động của chạy theo A Phủ của Mị là một hành động mang tính bước ngoặt lớn, minh chứng rằng một con người chỉ cần có tấm lòng khao khát tự do, sự vùng dậy mạnh mẽ, sức sống tiềm tàng mãnh liệt thì họ có thể tự giải thoát cho mình bất cứ lúc nào. Đánh dấu một bước chuyển biến mới trong tư duy của những con người ở miền núi, cường quyền và thần quyền phong kiến đã đến ngày tận thế, suy tàn, không còn phù hợp trong thời đại mới, không còn đủ sức để đàn áp con người thấp cổ bé họng nữa. Mà có thể một mai đây chính nó sẽ bị những con người này lật đổ, để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn công bằng hơn.
Câu trả lời của bạn: 11:43 04/06/2020
I. Dàn Ý Cảm Nhận Của Em Về Bài Đức Tính Giản Dị Của Bác Hồ Của Phạm Văn Đồng
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm.
2. Thân bài
a. Luận điểm: Sự thống nhất giữa đời cách mạng vĩ đại và lối sống giản dị, thanh bạch của Bác:
- Luận điểm lớn với hai vế đối lập hoàn toàn với nhau để làm nổi bật đức tính giản dị thống nhất trong suốt cả cuộc đời và sự nghiệp của Bác.
=> Vừa đối lập đồng thời cũng bổ sung một cách chặt chẽ cho nhau, thể hiện một cách rõ nét đặc điểm riêng nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh ấy là sự hài hòa cân đối giữa sự nghiệp cách mạng lớn lao và đời sống sinh hoạt giản dị, đời thường.
- Lời bình"Rất lạ lùng, rất kỳ diệu...Bác Hồ vẫn giữ nguyên phẩm chất cao quý của một chiến sĩ cách mạng, tất cả vì dân, vì nước, vì sự nghiệp lớn, trong sáng, thanh bạch, tuyệt đẹp".
=> Làm nổi bật được chủ đề, luận điểm của bài viết, mà còn thể hiện được một cách rõ nét những tình cảm trân trọng, gắn bó và sự ngưỡng mộ đối với Bác của tác giả.
b. Dẫn chứng thể hiện sự giản dị của Bác Hồ trong nhiều khía cạnh của đời sống và công việc:
- Trong cung cách ăn ở sinh hoạt: "bữa cơm chỉ có vài ba món", "lúc ăn Bác không để rơi vãi một hột nào", "cái bát bao giờ cũng sạch và thức ăn còn lại đều được sắp xếp tươm tất".
- Lời bình "Ở việc làm nhỏ đó đó chúng ta thấy Bác quý trọng biết bao kết quả sản xuất của con người và kính trọng như thế nào người phục vụ".
=> Bổ sung thêm cho đức tính giản dị của Bác là xuất phát từ một tâm hồn thật đẹp biết trân quý sức lao động của con người.
- Căn nhà của Bác ""vẻn vẹn chỉ có vài ba phòng", mang vẻ đẹp lộng gió của thời đại, ngập tràn ánh sáng của niềm tin, cùng với những hương thơm phảng phát từ các thứ hoa cỏ trong vườn mà tự tay Bác chăm bón vun trồng.
=> thể hiện những nét đẹp tâm hồn hiếm có: thanh bạch và tao nhã, sống chan hòa với thiên nhiên và gắn bó với thiên nhiên bằng những tình cảm tha thiết, yêu thương.
- Giữ cho mình một lối sống tự túc, giản đơn.
- Giản dị trong mối quan hệ với những người xung quanh.
- Lời bình "Nhưng chớ hiểu lầm....tinh thần cao đẹp nhất", đây là một lời giải thích rất hợp lý và sâu sắc về căn nguyên của đức tính giản dị của Bác, thể hiện sự thấu hiểu và những tình cảm gắn bó sâu sắc với Hồ Chủ tịch của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng.
- Đức tính giản dị của Bác còn thể hiện trong cả lời ăn, tiếng nói, trong các bài viết của Người.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận chung.
II. Bài Văn Mẫu Cảm Nhận Của Em Về Bài Đức Tính Giản Dị Của Bác Hồ Của Phạm Văn Đồng
Cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều dành trọn cho nhân dân Việt Nam, Người đã dâng trọn 79 mùa xuân của mình để giành lại độc lập tự do cho dân tộc, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại. Những đóng góp cho Tổ quốc đi cùng với tấm lòng bao dung, nhân hậu và những vẻ đẹp phẩm cách thanh cao của Người đã vĩnh vi
Câu trả lời của bạn: 11:42 04/06/2020
I. Dàn Ý Thuyết Minh Về Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm Đồng chí.
2. Thân bài
a. Tác giả:
- Chính Hữu (1926-2007), tên thật là Trần Đình Đắc, quê gốc ở huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô.
- Từng được giữ nhiều chức vụ quan trọng trong nhà nước, vinh dự nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật lần hai được trao tặng năm 2000.
- Bắt đầu sáng tác vào năm 1947, với đề tài chính là người lính và chiến tranh. Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông, trong đó có bài thơ Đồng chí (2/1948) là đặc biệt nổi tiếng.
- Phong cách sáng tác hàm súc, ngôn từ giản dị, linh hoạt, và hình ảnh được chọn lọc.
b. Tác phẩm:
- Đồng chí được Chính Hữu sáng tác vào đầu năm 1948, in trong tập Đầu súng trăng treo (1966).
- Ra đời nhân dịp tác giả cùng đồng đội tham gia vào chiến dịch Việt Bắc Thu đông năm 1947.
- Đồng chí có thể xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu và xuất sắc nhất khi viết về đề tài người lính cách mạng giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954).
- Nội dung thể hiện hình tượng người chiến sĩ cách mạng những năm đầu kháng chiến chống Pháp, đồng thời bộc lộ và làm sáng rõ tình cảm gắn bó keo sơn giữa những người lính cùng chiến tuyến, điều kiện tiên quyết làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc.
- Bố cục:
+ Phần một (7 câu thơ đầu), nêu ra cơ sở chính để hình thành tình đồng chí.
+ Phần hai (11 câu thơ tiếp theo) thể hiện tình cảm gắn bó giữa những người lính và vẻ đẹp của hình tượng người lính.
+ Phần cuối (3 câu thơ còn lại) cảm hứng lãng mạn cách mạng, những hình tượng có ý nghĩa biểu trưng cho người lính chiến.
+ Nhan đề "Đồng chí": Là cách gọi hàm súc thể hiện những tình cảm gắn bó keo sơn, thắm thiết nghĩa tình của những người cùng chung một chiến tuyến, có cùng lý tưởng.
* Những nét chính về nội dung:
- "Quê hương anh nước mặn đồng chua...Đồng chí !":
+ Xuất thân người lính: Nghèo khó, đứng lên từ những vùng đất sỏi đá, khô cằn nơi miền trung nắng gió khắc nghiệt.
+ Họ đến từ những vùng quê khác nhau, chưa từng quen biết, thế nhưng trên cơ sở cùng chung một lý tưởng chiến đấu, cùng một niềm tin về đất nước ngày mai được tự do, độc lập.
+ Trong vi
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 11:39 04/06/2020
1. Viết Một Đoạn Văn Khoảng 5 Câu Về Nghĩa Vụ Bảo Vệ Tổ Quốc Của Mỗi Công Dân, Mẫu Số 1:
Những năm tháng chiến tranh, bao thế hệ cha anh đã hy sinh thân mình để giành lấy hòa bình cho Tổ Quốc. Gương sáng của Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Quốc Tuấn, chủ tịch Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp....vẫn mãi còn đó cho bao thế hệ gìn giữ và noi theo. Ngày nay, đất nước hoà bình, nơi nơi được ấm êm, mỗi công dân phải góp công, góp sức để đưa đất nước đi lên, xây dựng Tổ quốc giàu mạnh để xứng đáng với những hy sinh của cha ông. Để làm được điều đó, đòi hỏi mỗi người phải cố gắng làm việc, học tập, phát triển và hoàn thiện bản thân. Mỗi công dân dù ở nơi đâu hay làm bất cứ công việc gì đều có trách nhiệm góp sức mình vào dựng xây đất nước, đưa Tổ quốc đi lên, bền vững và thịnh trị.
2. Viết Một Đoạn Văn Khoảng 5 Câu Về Nghĩa Vụ Bảo Vệ Tổ Quốc Của Mỗi Công Dân, Mẫu Số 2:
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước từ ngàn đời. Các vua Hùng dựng nên đất nước, ông cha đấu tranh để bảo vệ nước nhà. Ngày nay, phát huy truyền thống tốt đẹp ấy, mỗi công dân Việt Nam phải có trách nhiệm xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh. Đặc biệt là mỗi thế hệ trẻ, những mầm non tương lai phải gắng sức học tập, rèn luyện cả về thể chất và trí tuệ để góp phần mình vào dựng xây, phát triển quốc gia, dân tộc. Đưa đất nước sánh vai với bạn bè năm châu.
3. Viết Một Đoạn Văn Khoảng 5 Câu Về Nghĩa Vụ Bảo Vệ Tổ Quốc Của Mỗi Công Dân, Mẫu Số 3:
Bác Hồ từng nói: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta hãy cùng nhau giữ lấy nước", lời dạy của Bác đến hôm nay và mai sau vẫn mang giá trị. Mỗi công dân của đất Việt phải hiểu được vai trò và trách nhiệm của mình trong việc dựng xây và phát triển đất nước. Phải ý thức và cố gắng học tập thật tốt, rèn luyện kỹ năng, bản lĩnh và có lý tưởng trong cuộc sống. Mỗi người phải biết đặt lợi ích của cộng đồng, của đất nước lên trên lợi ích cá nhân, phải biết chung tay đoàn kết để góp sức dựng xây nước nhà, quê hương mình ngày một giàu đẹp, văn minh.
Câu trả lời của bạn: 11:38 04/06/2020
1. Viết Đoạn Văn Ngắn Tả Cơn Mưa, Mẫu Số 1:
Cơn mưa mùa hạ bất chợt kéo đến giữa cái nắng oi ả của một chiều tháng 5. Những đám mây đen nặng hạt ùn ùn xua đuổi nhau trên bầu trời. Da trời lúc này đây không còn màu xanh lam yên bình nữa mà được thay thế bằng một màu đen kịt đục ngục. Mưa bắt đầu rơi. Những hạt mưa thì nhau rơi xuống, nhảy nhót trên các cung đường của thành phố, trên những toà nhà cao tầng, trên những hàng cây xanh của phố thị. Dòng người trên đường như vội vã hơn, ai cũng cố chạy thật nhanh để tránh mình ướt sũng. Một vài anh chị có ô thông thả đi trên vỉa hè, ngắm nhìn cơn mưa đầy thích thú. Trong các quán tạp hoá, những chiếc áo nỉ lông đủ sắc màu được bày bán. Cơn mưa kéo dài hơn 10 phút rồi dần tạnh hẳn. Ánh cầu vồng bảy sắc dần lên, các cung đường được mưa tưới tắm sạch đẹp hơn. Cây cối dần xanh tươi và giàu sức sống trở lại. Cơn mưa mùa hạ bất chợt đến, bất chợt đi để lại cho lòng người nhiều cảm xúc khó tả.
2.Viết Đoạn Văn Ngắn Tả Cơn Mưa, Mẫu Số 2:
Những hạt mưa đầu tiên bắt đầu rơi xuống, tí tách trên mái hiên nhà em, rơi lộp bộp trên những tàu lá chuối. Mưa dần to hơn, chúng thi nhau rơi xuống, nhảy nhót, nô đùa khắp con đường làng, khiêu vũ trên từng hàng cây, bãi cỏ. Mấy bác nông dân vội vã chạy mưa để tránh mình bị ướt. Một vài chú bê ngoài đồng vẫn chẳng lo sợ, thong dong gặm cỏ, tận hưởng vị tươi mát của đất trời. Cơn mưa đến nhanh và đi cũng vội vã, mưa ngớt, bầu trời tạnh hẳn, màu trời lại xanh trong. Ánh cầu vồng lung linh hiện lên khoe vẻ rực rỡ của mình. Cây cối vui vẻ, hứng khởi khi được tận hưởng nguồn nước yêu thương mà thiên nhiên ban tặng. Bác nông dân lại ra đồng làm nốt công việc còn dang dở. Mọi hoạt động dần trở lại bình thường.
3. Viết Đoạn Văn Ngắn Tả Cơn Mưa, Mẫu Số 3:
Em rất thích ngắm nhìn những cơn mưa mùa xuân. Mưa xuân không vội vã, ồn ào như mưa hạ. Mưa xuân dịu dàng, chầm chậm, mang đến cảm giác bình yên và thư thái trong tâm hồn. Những hạt mưa bắt đầu rơi, hạt mưa nhỏ, lất phất trong gió, vương những giọt long lanh trên cánh đào mỏng manh, trên những chồi non cây lá. Mưa phảng phất trong không gian ấm áp của mùa xuân, nhè nhẹ, nhè nhẹ. Mưa dần buông những hạt cuối cùng, vạn vật được mưa tắm mắt trở nên căng tràn sức sống. Cánh mai vàng nhờ thưởng thức hạt ngọc tinh túy của bầu trời mà tươi tắn hơn. Chồi non mơn mởn, xanh biếc. Nương lúa, bãi ngô của người nông dân cũng mướt xanh. Mưa xuân diệu kỳ còn mang đến cho lòng người niềm vui khoan khoái, yêu biết bao nhiêu những cơn mưa xuân tuyệt vời như thế.
Câu trả lời của bạn: 11:36 04/06/2020
1. Viết Đoạn Văn Về Lợi Ích Của Việc Đọc Sách, Mẫu Số 1:
Sách là người bạn thân thiết cũng là tài sản vô giá của con người. Đọc sách giúp trang bị những tri thức mới mẻ trên hành trình học tập và phát triển của bản thân. Không chỉ vậy, đọc sách còn giúp ta khám phá những chân trời mới, đến những vùng đất mới mẻ mà ta chưa từng có cơ hội đi, đến và cảm nhận. Những lúc mệt mỏi, chán nản với cuộc sống, đọc sách ta có thêm động lực để cố gắng, để vững tâm và tin vào những điều tốt đẹp của tương lai. Sách bồi đắp cho tâm hồn ta ngày một phong phú, đẹp đẽ và thiện lương hơn. Vì thế, hãy nên đọc sách mỗi ngày, nuôi dưỡng cho mình niềm đam mê sách nhé.
2. Viết Đoạn Văn Về Lợi Ích Của Việc Đọc Sách, Mẫu Số 2:
Đọc sách mang đến cho chúng ta nhiều điều bổ ích. Đọc sách Lịch sử giúp ta sống lại với những cuộc kháng chiến hào hùng, để ta biết trân trọng và gìn giữ hòa bình hôm nay. Đọc sách địa lý giúp ta hiểu biết về các hiện tượng thời tiết như mưa, nắng, lũ lụt, thủy triều, hiệu ứng nhà kính,.....,....Đọc sách toán học, du lịch, kinh tế,....giúp ta mở mang tư duy....Mỗi cuốn sách hay đều mang những giá trị tích cực đến cho con người khi đọc nó. Và sách không chỉ cung cấp lượng tri thức khổng lồ, khi đọc sách, tâm hồn chúng ta được bồi đắp những cảm xúc tốt đẹp. Đọc sách văn học để ta biết đồng cảm, sẻ chia, biết thương và xót xa trước số phận của những nhân vật, biết căm phẫn trước những bất công, ngang trái của xã hội cũ,....Đọc Hạt giống tâm hồn, ta thấy lòng mình lắng lại, biết trân quý những điều bình dị, nhỏ bé trong cuộc sống, biết yêu thương cuộc đời dẫu còn nhiều những chông chênh, biết cảm ơn những tấm lòng vị tha, nhân ái, những vòng tay dẫu gian nan vẫn sẵn sàng nâng đỡ kẻ khốn khó hơn mình. Hãy chọn cho mình một cuốn sách hay để đọc, hãy đọc thật kỹ và nghiền ngẫm từng con chữ trên mỗi trang sách, bạn sẽ thấy được vô vàn điều tốt đẹp mà nó mang đến. Hãy yêu sách như yêu chính bản.
3. Viết Đoạn Văn Về Lợi Ích Của Việc Đọc Sách, Mẫu Số 3:
Sách là người bạn tốt của chúng ta. Bạn biết không, mỗi cuốn sách đều mang những tri thức mà nhân loại đã đúc kết, những tri thức ấy không chỉ mới mẻ mà còn rất hữu ích trong học tập và cuộc sống nữa đấy. Khi bạn đọc sách, bạn sẽ bồi đắp thêm cho mình nhiều kiến thức hơn, biết thêm nhiều điều mới mẻ hơn. Khi bạn đọc sách, bạn sẽ được khám phá chính bản thân mình, có khi còn thấy suy nghĩ, cảm xúc của mình ngay trong chính từng nhân vật, từng câu chuyện. Khi bạn đọc sách, bạn sẽ thấy tâm hồn mình được thanh lộc, thêm yêu cuộc sống, biết đồng cảm, sẻ chia và thấu hiểu hơn. Đọc sách còn giúp giảm căng thẳng, mệt mỏi mỗi khi gặp những áp lực trong cuộc sống. Hãy nên dành cho mình một khoảng thời gian trong ngày để đọc những cuốn sách hay nhé, bạn sẽ nhận được nhiều điều hữu ích từ nó đấy.
Câu trả lời của bạn: 11:34 04/06/2020
1. Viết Đoạn Văn (Khoảng 10 Dòng) Phát Biểu Cảm Nhận Về Lòng Yêu Nước Của Trần Quốc Tuấn Được Thể Hiện Qua Bài Hịch Tướng Sĩ, Mẫu Số 1:
Bài Hịch tướng sĩ đã cho thấy tấm lòng yêu nước thiết tha của người anh hùng Trần Quốc Tuấn. Chứng kiến quân giặc bạo tàn, xâm chiếm nước nhà, chứng kiến những khổ đau, giày xéo mà nhân dân phải gánh chịu ông không khỏi xót xa. Đất nước nguy nan, người anh hùng ấy chưa một giờ bình an, tâm trí vẫn đau đáu nỗi lo cho dân, cho nước. Đêm về thức trắng, nước mắt đầm đìa, xót xa vì thương con dân, vì căm phẫn quân thù, sẵn sàng phơi thân ngoài nội cỏ để giết chết lũ giặc ngạo mạn, đất nước được sạch bóng quân thù. Nước nhà đang lầm than, thấy cảnh binh sĩ bỏ bê theo những thú vui, ham mê thông thường ông không khỏi đau lòng. Trần Quốc Tuấn đã dùng lời lẽ nghiêm khắc của mình để phê bình, cảnh tỉnh binh sĩ, đồng thời bày tỏ sự chân thành thúc giục bình sĩ ra sức luyện tài, học tập Binh thư yếu lược để chuẩn bị tốt nhất cho việc chống giặc, cứu nước. Hình ảnh Trần Quốc Tuấn với tấm lòng cao cả mãi là niềm tự hào của bao thế hệ Việt Nam về một người anh hùng của dân tộc.
2. Viết Đoạn Văn (Khoảng 10 Dòng) Phát Biểu Cảm Nhận Về Lòng Yêu Nước Của Trần Quốc Tuấn Được Thể Hiện Qua Bài Hịch Tướng Sĩ, Mẫu Số 2:
Trần Quốc Tuấn là vị tướng tài ba của dân tộc. Ông có một trái tim yêu nước thiết tha, điều đó được thể hiện rõ nhất qua từng lời, từng chữ trong bài Hịch tướng sĩ đó ông viết. Thấy đất nước lầm than, nhân dân khốn cùng, ông không khỏi xót xa "nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa". Càng yêu nước ông cành căm phẫn bọn giặc giày xéo Tổ quốc mình, sẵn sàng hy sinh cả bản thân để dành lại tự do cho dân tộc. Thấy quân sĩ, tướng lĩnh lơ là việc luyện tập, ông thẳng thắng phê phán, đồng thời cũng khích lệ tinh thần đấu tranh của binh sĩ mình đứng lên cứu nước. Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn thật đáng trân trọng và tự hào, ông là gương sáng cho bao thế hệ sau noi theo. Biết phấn đấu và có trách nhiệm với quê hương, Tổ quốc mình.
3. Viết Đoạn Văn (Khoảng 10 Dòng) Phát Biểu Cảm Nhận Về Lòng Yêu Nước Của Trần Quốc Tuấn Được Thể Hiện Qua Bài Hịch Tướng Sĩ, Mẫu Số 3:
Lòng yêu nước được thể hiện muôn màu, muôn vẻ. Khi học xong bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, em cảm nhận được tấm lòng yêu nước, thương dân của người con, người anh hùng lẫy lừng của dân tộc. Thấy giặc giày xéo đất nước, nhân dân khổ cực, ông không cầm được nước mắt. Bóng quân thù còn chưa sạch, ông ngày đêm không ngủ, ruột đau như cắt, lo lắng cho vận mệnh, quốc gia dân tộc . Vì đất nước, ông chẳng màng thân mình "dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong dã ngựa, ta cũng yên lòng". Không chỉ vậy, Trần Quốc Tuấn còn là người hết lòng với binh sĩ, xem họ như anh em ruột thịt mà nhắc nhở, bảo ban. Ông cũng thẳng thắn phán những khuyết điểm của binh sĩ để cảnh tỉnh họ, đồng thời dùng lời lẽ chân thành, tha thiết để khích lệ ý thức chiến đấu và trách nhiệm. Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được lan toả từ người cầm quân đến kẻ binh sĩ, từ người lãnh đạo đến nhân dân khắp chốn. Dù cho lúc bấy giờ hay mãi về sau thì tấm lòng yêu nước, thương dân của Trần Quốc Tuấn mãi là niềm tự hào, là gương sáng cho bao thế hệ như chúng em học tập và noi theo.
Câu trả lời của bạn: 11:31 04/06/2020
1. Mở Bài:
- Giới thiệu về Lan có đam mê ca nhạc và niềm ao ước có một chiếc đàn pi-a-nô của cô bé
2. Thân Bài
- Cô bé chăm chỉ, cố gắng được mọi người quý mến
- Đầu năm học nhà trường tổ chức trao học bổng
- Lan được cả lớp đồng ý tiến cử
- Bố quyết định mua tặng Lan đàn pi-a-nô
- Niềm vui của Lan khi nhận được món quà đầu năm học
3. Kết Bài
- Lòng biết ơn của Lan tới tình cảm mà mọi người dành cho mình.
Câu trả lời của bạn: 11:28 04/06/2020
1. Đoạn Văn 1
Ngày nay, thật đáng buồn khi học sinh đang có xu hướng học vẹt, học tủ. Vậy nên hiểu như thế nào là học vẹt, học tủ? Học vẹt chính là học thuộc lại những kiến thức đã có dù mình không hiểu gì còn học tủ là học theo vận may, chỉ học một kiến thức nhất định. Chính việc học tủ, học vẹt đã để lại nhiều hậu quả cho quá trình học tập của học sinh. Với cách học này, học sinh sẽ bị hổng kiến thức, không nắm vững được kiến thức của bài học, thiếu kiến thức nền tảng và phụ thuộc vào sự may mắn. Sở dĩ có điều đó bởi nhiều người không ý thức được vai trò của việc học, đó là cả một quá trình tích lũy lâu dài, học để mở mang kiến thức cho bản thân. Như vậy, có thể thấy, học vẹt, học tủ là một cách học mang tính phiến diện, bởi vậy, để có thể mở mang kiến thức mỗi người cần có cho mình phương pháp học phù hợp, đúng đắn để mang lại hiệu quả cao.
2. Đoạn Văn 2
Từ xưa đến nay, việc học luôn có tầm quan trọng hàng đầu với mỗi người song ngày nay, học sinh lại đang có xu hướng học vẹt, học tủ. Có thể thấy, học vẹt là cách học chỉ biết chăm chú học thuộc mà không hiểu rõ bản chất của vấn đề còn học tủ là học vào một phần kiến thức nhất định, phụ thuộc vào may mắn của bản thân. Mặc dù bản chất khác nhau, song việc học vẹt, học tủ luôn để lại hậu quả nặng nề. Người học không hiểu, không nắm vững được bản chất của vấn đề, bị thiếu hụt kiến thức. Họ học chỉ để đối phó, phụ thuộc vào vận may mà quên đi mục đích chính, quan trọng và cốt yếu nhất của việc học là gì. Với những hậu quả đó, chúng ta không nên học vẹt, học tủ mà cần có phương pháp học tập hợp lí, đúng đắn để nắm vững được kiến thức nền tảng, đó chính là nền tảng vững chắc để mỗi người thành công hơn trên con đường tương lai.
3. Đoạn Văn 3
Việc học luôn là vấn đề quan trọng và mỗi người luôn tự kiếm tìm cho mình những phương pháp học hiệu quả nhất. Tuy nhiên, ngày nay có một thực trạng đáng buồn là nhiều học sinh đang học vẹt, học tủ. Học vẹt chính là cách học thuộc lại những gì đã được dạy mà không hiểu rõ vấn đề, không thấy được bản chất của vấn đề còn học tủ là chỉ học một phần còn lại phụ thuộc vào vận may. Học vẹt và học tủ đều để lại những hậu quả nghiệm trọng đối với người học. Trước hết, nó làm cho người học phụ thuộc vào may mắn, nên d
Câu trả lời của bạn: 11:20 04/06/2020
1. Đoạn Văn 1:
Ông đồ là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà thơ Vũ Đình Liên. Được viết trong phong trào Thơ mới nhưng Ông đồ lại là một niềm hoài cổ về một quá khứ vàng son trong lịch sử văn hóa của Việt Nam. Nếu như Thơ mới tôn sùng cái tôi cá nhân, đắm chìm trong nó, thì Ông đồ lại là cái ngoảnh mặt đầy xót xa của Vũ Đình Liên về một hình ảnh cuối cùng của nền Nho học đã từng phát triển rực rỡ của đất nước ta. Ông đồ lấy hình ảnh của một thầy đồ ngồi trên phố, viết chữ Nho, câu đối cho mọi người mọi nhà trong dịp l
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 11:17 04/06/2020
1. Đoạn Văn 1:
Nguy
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 11:15 04/06/2020
1. Đoạn Văn 1:
Sống chết mặc bay là một tác phẩm phản ánh thực trạng của người nông dân trong xã hội phong kiến xưa. Tác phẩm được dựng lên bằng hình ảnh đối lập, một bên là hình ảnh những người nông dân lam lũ đang cố gắng chống chọi với thiên tai, một bên là những viên quan "phụ mẫu" đang vui vẻ đánh tổ tôm trong đình làng sung sướng làm sao! Vào lúc một giờ đêm, khi mà canh khuya đã điểm, trời thì mưa tầm tã, khúc đê sông Nhị Hà xem chừng đã tới cực hạn, với công cụ thô sơ, những người nông dân đem hết sức mình cuốc thuổng, tre, bì bõm đắp đê, mỗi người một tư thế cùng nhau gắng sức chống thiên tai. Họ căng thẳng, gấp gáp, tiếng gọi nhau í ới, tiếng nước vỗ bì bõm, đê vỡ là cuộc sống của họ sẽ lâm vào bế tắc, đói khổ triền miên.Vậy nên, dốc sức cùng lực kiệt, họ cùng nhau giữ lấy bờ đê như giữ tính mạng mình. Ấy thế mà trong cả câu chuyện, chẳng thấy xuất hiện một viên quan phụ trách, một bậc phụ mẫu nào đứng lên chỉ đạo nhân dân? Đó là bởi vì, những viên quan "phụ mẫu" ấy đang họp nhau linh đình ngoài đình làng kia bằng những ván tổ tôm long trời. Mặc mưa gió phía ngoài gào thét, tiếng nước dâng bì bạch, trong đình vẫn ấm áp, đầy ắp tiếng nói cười nhộn nhịp, trái ngược hẳn với cái khung cảnh ngoài kia. Tác giả đã vận dụng các biện pháp đối lập, ẩn dụ, nhân hóa, ... để tạo nên bức tranh làm rõ bộ mặt của lũ quan tham thời phong kiến đồng thời chỉ rõ hoàn cảnh khốn cùng của người dân dưới thiên tai. Ngoài bờ đê gấp gáp bao nhiêu, trong đình làng lại nhàn nhã bấy nhiêu. Đến khi có tiếng bẩm "D
Câu trả lời của bạn: 11:06 04/06/2020
1. Đoạn Văn 1:
Ô nhi
Câu trả lời của bạn: 11:04 04/06/2020
1. Đoạn Văn 1:
Nếu ai đã từng đọc tác phẩm Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, hẳn không thể nào quên được hình ảnh của ba cô gái xinh đẹp Phương Định, Nho và Thao, đặc biệt là Phương Định. Cô là một cô gái trẻ người Hà thành, yêu đời, hồn nhiên nhưng cũng rất giàu cá tính. Đến với chiến trường bom đạn khốc liệt nhưng hành trang trong cô lại là sự hồn nhiên trong sáng, mơ mộng, là những kỉ niệm về một thời học sinh thơ ngây, những kỉ niệm ngày còn bên mẹ ở quê hương. Cô thiếu nữ Phương Định ấy, ngay giữa bom rơi đạn nổ vẫn hồn nhiên, vô tư, thích ca hát, thích được làm dáng, thích được thêu thùa. Ở cô, người ta thấy một chiều sâu của một tâm hồn tràn đầy tình cảm và một sự tự trọng rất bản năng của người con gái. Sống cùng với hai người bạn chiến đấu, cô gắn kết với họ bằng tình cảm nồng thắm, chân thật. Sống giữa chiến trường, cũng là một người chiến sĩ nhưng Phương Định vẫn cảm phục những người chiến sĩ Trường Sơn quả cảm, anh dũng. Ở nơi đây, công việc của cô cùng hai người bạn là phá bom, mở đường, ngày ba quả, ngày năm quả. Tưởng chừng như cái chết luôn bủa vây lấy cuộc sống của những cô gái trẻ ấy khiến họ mất đi niềm vui, nhưng không, nó chỉ giúp tôi luyện nên một Phương Định bản lĩnh và dũng cảm hơn người. Phương Định vẫn luôn như thế, vẫn thích ca hát, vẫn luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ và vẫn hồn nhiên như thế. Phương Định - cô gái ấy đã được tác giả Lê Minh Khuê dựng lên rất chân thực, rất sinh động về hình ảnh những cô gái mở đường - những nữ giải phóng quân đại diện cho tuổi trẻ chống Mỹ cứu nước.
2. Đoạn Văn 2:
Cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước đã kết thúc từ lâu, thế nhưng hàng ngàn, hàng vạn những con người Việt Nam đã phải ngã xuống để giành lấy sự tự do đó. Trong các tác phẩm viết về những người lính, những cô gái thanh niên xung phong, thì Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê là một tác phẩm được nhiều người ưa thích. Bởi nó mang một sự trong trẻo, đáng yêu lạ thường mà điều đó đến từ Phương Định - nhân vật chính trong câu chuyện. Phương Định là một trong ba người nữ thanh niên xung phong làm công tác phá bom trên tuyến đường Trường Sơn. Cô là một thiếu nữ trẻ, người Hà thành vừa rời ghế nhà trường chưa được bao lâu. Chắc vì vậy mà Phương Định luôn mang trong mình một sự hồn nhiên, vô tư đến lạ lùng dù ở nơi chiến trường bom đạn khốc liệt này. Hành trang vào chiến trường của cô thật đặc biệt, đó là những kỉ niệm về thầy cô, bạn bè nơi trường học, là những kỉ niệm về người mẹ thân yêu. Giáp mặt với cái chết hàng ngày, bởi mỗi ngày cô phải phá ít thì ba quả bom, có ngày năm quả, nhưng cô vẫn luôn giữ được sự hồn nhiên, trong trẻo và niềm yêu thích với ca hát. Thế nhưng, Phương Định cũng có cá tính riêng của mình, cô nữ tính, biết điệu đà làm dáng, thế nhưng khi được các anh lính để mắt, dù vui thích và tự hào, cô cũng chẳng vồn vã, săn đón. Đó là cá tính riêng của Phương Định. Cô yêu mến mảnh đất mình đang công tác, yêu mến đồng đội và thầm khâm phục tất cả những người lính cô gặp trên tuyến đường Trường Sơn này. Giáp mặt với thần chết từng phút giây đã tôi luyện lên một thiếu nữ Hà thành trong sáng là thế nhưng gan dạ, dũng cảm bậc nhất. Lê Minh Khuê đã thật thành công khi dựng lên hình ảnh một Phương Định đáng yêu là thế, nhưng cũng đầy tự tin, dũng cảm, xứng đáng là một gương mặt tiêu biểu cho lớp thanh niên trí thức tham gia kháng chiến chống Mỹ.
3. Đoạn Văn 3:
Hình ảnh những người nữ thanh niên xung phong - "tổ trinh sát mặt đường" luôn được gợi nhắc trong nhiều tác phẩm, trong đó có Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê và nhân vật Phương Định. Hiện lên trong tác phẩm, Phương Định được giới thiệu như một cô gái người Hà thành, còn rất trẻ, vừa rời ghế nhà trường. Thế nên, điều đầu tiên người ta thấy ở cô là một sự trong sáng, hồn nhiên, thân thương đến vô cùng. Đến với chiến trường, giáp mặt với cái chết hàng giờ, thế nhưng, cô chưa bao giờ thôi mơ mộng, chưa bao giờ từ bỏ niềm yêu thích ca hát. Mang trong mình hành trang vào thời chiến là những kỉ niệm về bạn bè, thầy cô, mái trường, về người mẹ thân yêu, cô trở thành một trong ba cô gái gan dạ nhất tuyến đường Trường Sơn này. Nhiệm vụ của cô là phá bom, ngày ba quả, có ngày năm quả, thế nhưng, nó chẳng làm cho cô mất đi sự nữ tính, trong sáng và xinh đẹp của mình. Cô yêu mến đồng đội, cảm phục những người lính mà cô gặp trên tuyến đường này bằng tất cả sự trong sáng, hồn nhiên của mình. Lê Minh Khuê thật xuất sắc khi dựng lên một Phương Định giàu sức sống, chân thực, gan dạ và dũng cảm đến như thế! Tác phẩm khép lại, chúng ta vẫn chẳng thể nào quên hình ảnh của cô gái Hà thành với "hai bím tóc dày" "ngồi bó gối mơ màng" khung cửa sổ ấy và hình ảnh người nữ thanh niên xung phong xinh đẹp đang trong giây phút phá bom nghẹt thở đáng vô cùng ấy.
Câu trả lời của bạn: 11:02 04/06/2020
I. Dàn Ý Phân Tích Tư Tưởng Yêu Nước Trong Bài Chiếu Dời Đô Của Lý Công Uẩn
1. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nội dung cần phân tích.
2. Thân bài:
a. Tư tưởng yêu nước thể hiện trong mục đích của việc dời đô:
- "chỉ vì muốn đóng đô ở trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu, trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi".
→ Đặt nền tảng cho sự phát triển phồn thịnh của đất nước trong tương lai, hướng tới việc quy tụ tinh hoa của đất nước về chốn thích hợp, xây dựng một đất nước ngày càng phát triển, để cho con cháu mai sau được hưởng thái bình, thịnh trị.
- Việc dời đô không phải là ý muốn của riêng cá nhân Lý Thái Tổ, mà đó là một quyết định tuân theo tư tưởng "mệnh trời", dưới lại thuận theo ý kiến của dân, đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu.
- Để củng cố và bổ sung cho mục đích và ý nghĩa chính đáng của việc dời đô về Đại La:
+ Tác giả đã chỉ ra trong quá khứ, nhà Thương đã có đến 5 lần dời đô, nhà Chu cũng có đến 3 lần => Vận nước đều đi lên, phong tục được phồn thịnh.
+ Chê trách hai nhà Đinh, Lê khi "theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời", không chịu thay đổi, khiến cho "triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn".
=> Chứng minh được rằng việc dời đô là hoàn toàn hợp lý, cần thiết nhất trong giai đoạn này.
b. Tư tưởng yêu nước thể hiện ở việc Lý Công Uẩn đưa ra những lợi thế của thành Đại La so với kinh đô Hoa Lư cũ:
- Bộc lộ tâm huyết, tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, một lòng muốn cải thiện vận mệnh đất nước và dân tộc.
- Vị trí địa lý "thuộc vào nơi trung tâm trời đất", "địa thế rộng mà bằng, đất đai cao lại thoáng" có thể giúp nhân dân an cư lạc nghiệp tránh khỏi những nạn thiên tai lũ lụt.
- Lịch sử "vốn là kinh đô cũ của Cao Vương".
- Phong thủy: thế đất tuyệt đẹp "rồng cuộn hổ ngồi", "đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông tựa núi", mà với quan niệm của người xưa thì với thế đất ấy Đại La thật xứng đáng là nơi ở của bậc vương giả, là "kinh đô của đế vương muôn đời".
- Lý Thái Tổ cũng bộc lộ sự anh minh, sáng suốt và tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc khi đặt ra một câu hỏi mang tính chất tham khảo, hỏi ý thần dân rằng "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?".
=> Sự kết hợp chặt chẽ giữa lí và tình làm cho bản chiếu d