
Phương Trang
Bạc đoàn
545
109
Câu trả lời của bạn: 19:52 11/01/2022
5 sao
Trung bình 1 tháng có 30 ngày thì 1 ngày bán được: 5.485.161 gói mè. Như vậy, sẽ cần 182.839 ngày để có thể bán được 1 tỷ gói mè. Khi đó, 182.839 ngày = gần 6 tháng 3 ngày, đó là thời gian để bán 1 tỷ gói mè.
Câu trả lời của bạn: 18:48 11/01/2022
câu trả lời
Độ dài đáy của mảnh đất là:
(38 + 16) : 2=27 (m)
Chiều cao của mảnh đất là:
27 - 16=11 (m)
Diện tích mảnh đất là:
27 x 11=297 (m²)
Diện tích làm nhà là:
297 : 3=99 (m²)
Đáp số: 99m²
Câu trả lời của bạn: 18:45 11/01/2022
trả lời nek:
Độ dài đáy của mảnh đất là:
(38 + 16) : 2=27 (m)
Chiều cao của mảnh đất là:
27 - 16=11 (m)
Diện tích mảnh đất là:
27 x 11=297 (m²)
Diện tích làm nhà là:
297 : 3=99 (m²)
Đáp số: 99m²
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 18:44 11/01/2022
x:3=3,3 dư 1
x=3,3×3+1
x=9,9+1
x=10,9
^ ^
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 18:44 11/01/2022
x:3=3,3 dư 1
x=3,3×3+1
x=9,9+1
x=10,9
^ ^
Câu trả lời của bạn: 18:42 11/01/2022
5 con mèo bắt được 5 con chuột trong 5 phút. Vậy trong 5 phút thì 1 con mèo bắt được 1 con chuột. Suy luận ra thì trong 50 phút 1 con mèo bắt được 10 con chuột và trong 100 phút thì 1 con mèo bắt được 20 con chuột. Vậy nên để bắt được 100 con chuột trong 100 phút thì ta vẫn chỉ cần 5 con mèo.
nha
Câu trả lời của bạn: 18:42 11/01/2022
Số tiền chiếc tủ lạnh sau khi giảm 10% là:
13 000 000 x (100% - 10%)=11 700 000 (đồng)
Số tiền khách hàng thân thiết mua chiếc tủ lạnh là:
11 700 000 x (100% - 5%)=11 115 000 (đồng)
Đáp số: 11 115 000 đồng
nhé
Câu trả lời của bạn: 17:51 11/01/2022
=-=??
Câu trả lời của bạn: 17:48 11/01/2022
Số tiền máy lạnh sau khi giảm 10% là:
15 000 000 x (100% - 10%)=13 500 000 (đồng)
SỐ tiền ông Tư phải trả là:
13 500 000 x (100% - 5%)=12 825 000 (đồng)
Đáp số: 12 825 000 đồng nhé
Câu trả lời của bạn: 17:46 11/01/2022
đáp án
Số tiền máy lạnh sau khi giảm 10% là:
15 000 000 x (100% - 10%)=13 500 000 (đồng)
SỐ tiền ông Tư phải trả là:
13 500 000 x (100% - 5%)=12 825 000 (đồng)
Đáp số: 12 825 000 đồng
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 17:45 11/01/2022
trả lời đây
34092:9=3788
34092 |9
27 |3788
70
79
72
0
Câu trả lời của bạn: 17:21 11/01/2022
Ông nội tôi, một người thầy cao cả nhất, người đã khiến tôi yêu quý nghề giáo hơn bất kỳ nghề nghiệp nào khác.
Cho tới bây giờ, tôi vẫn không thể nhớ nổi người ông mà mình yêu quý nhất đã xa từ lúc nào, chỉ biết là đã rất lâu tôi không được nhìn thấy khuôn mặt ấy, giọng nói ấy, không còn được làm nũng và đòi ông đưa đi mua quà vặt lẫn đồ dùng học tập nữa. Thực sự tôi luôn có cảm giác rằng ông vẫn theo bước tôi đi, vẫn bên cạnh tôi bất cứ lúc nào.
Có lẽ, những ngày tháng ở với ông, tôi còn quá nhỏ để có thể hiểu được và trân trọng những gì ông đã làm cho mình. Ông nội là thầy giáo dạy toán ở trường đại học, ông có cả một lớp dạy thêm toán ở nhà. Ngày còn nhỏ, thỉnh thoảng tôi hay chạy lại đứng cạnh cửa sổ và xem ông dạy học, những lúc như thế ông thường đuổi tôi ra vì không muốn tôi làm các anh chị mất tập trung.
Lúc đấy, tôi thấy giận ông lắm. Trong đầu tôi cứ hiện ra những suy nghĩ: “Tại sao ông không dành thời gian ở bên tôi, ông quý tôi nhất mà, quý tôi hơn những anh chị đang ngồi đằng kia. Vậy mà tại sao ngày nào ông cũng dành rất nhiều thời gian để dạy học, hết lớp này đến lớp khác, để rồi ông chẳng đưa tôi đi mua được thứ gì”.
Ngày đó, tôi quý ông lắm vì ông hay đưa tôi đi mua hết thứ này đến thứ khác, những gì đòi mẹ mua không được, tôi đều vòi ông đưa đi mua. Ông chẳng bao giờ từ chối tôi bất cứ thứ gì cả. Nhiều lần tôi bị mẹ mắng vì cứ suốt ngày đòi ông mua lung tung, mẹ nói ông làm gì có tiền mà cứ nhõng nhẽo. Tôi thấy mẹ nói dối, ông không có tiền làm sao mà sẵn sàng mua cho tôi nhiều thứ như vậy được. Bà tôi thì hay mắng ông vì ông chiều quá đâm nó sinh hư, vì thế nên mỗi lần đi mua gì hai ông cháu cũng đi bí mật, không cho ai biết. Ông bảo tôi sau khi mua phải giấu đi kẻo bà thấy lại mắng ông, những lúc ấy tôi thấy vừa buồn cười, vừa thương ông. Ngày ấy, ông hay ngủ ở nhà bác tôi để trông nhà hộ bác, thế mà từ ngày ông chuyển đi, cả đống sách vở ông cũng đem theo luôn, rồi tôi cũng gặp ông ít hơn, chỉ thỉnh thoảng ông mới về vì ông đi dạy ở trường suốt. Thỉnh thoảng ông đèo tôi đi học bằng xe đạp, từ nhà tôi đến trường phải đi qua một con dốc rất cao, cứ mỗi lần đạp xe đến gần dốc là ông lại phải xuống để dắt bộ. Lúc ấy, tôi nhận ra rằng sức khỏe của ông không còn tốt nữa. Tôi nói ông để tôi xuống rồi dắt xe đi cho nhẹ nhưng ông luôn nói rằng “cứ ngồi đấy ông sẽ dắt lên được”, nhưng mỗi lần dắt lên dốc, tôi lại thấy ông thở rất nhiều. Từ sau lần ấy, tôi đều tự động nhảy xuống để dắt xe cùng ông, tôi đẩy đằng sau, còn ông dắt. Có lần, tôi đã hỏi ông rằng ông dạy lớp mấy, ông bảo ông dạy cấp 3. Tôi nói rằng vậy khi nào tôi lên cấp 3 thì ông lại đèo tôi đi học nhé, rồi ông còn phải dạy toán cho tôi nữa, ông cười rồi và trả lời rằng tất nhiên rồi, ông sẽ dạy học cho tôi. Đó là lời hứa duy nhất của ông mà tôi chưa bao giờ quên. Rồi một ngày tôi biết tin ông bị ung thư đại tràng, mọi người phải chạy chữa cho ông ở viện này tới viện khác.Tôi nghe lén cuộc nói chuyện của bà với mẹ, bà bảo những ngày ở nhà bác, ông hay đi dạy về muộn, rồi thức đêm, chỉ ăn qua loa bánh mì, không ăn đầy đủ chất.
Ông biết rõ là bị bệnh nhưng lại giấu vì sợ mọi người lo, ông chỉ mua thuốc rồi uống chứ không đi khám nên bệnh tình mới trở nặng. Những ngày ông nằm giường bệnh, tôi thấy lo cho ông lắm, chẳng biết làm cách nào để giúp ông khỏi bệnh. Thấy mẹ chiều nào cũng khuấy bột sắn cho ông nên tôi tranh làm và nói rằng sẽ đảm nhiệm công việc này. Dù tôi làm hôm thì nhạt quá, hôm thì ngọt quá nhưng ông chẳng chê gì mà vẫn kêu ngon. Thấy ông hay ăn bánh mì, tôi nghĩ ông phải mê nó lắm nên ngày nào cũng ăn. Tôi ăn cùng ông rồi cũng nghiện món ấy, chẳng có gì, tôi và ông chỉ thích ăn bánh mì không, vừa ăn hai ông cháu vừa trò chuyện rất vui vẻ. Rồi ông được viện trả về, tôi không biết tại sao, chỉ thấy mọi người bảo thế, tôi thấy thích lắm vì tôi sẽ được ở cạnh ông nhiều hơn. Rồi mọi người muốn cho ông đi du lịch, chuyến du lịch dài ngày, ông trở về với tâm trạng thoải mái hơn. Cho tới giờ tôi mới biết đó là chuyến du lịch cuối cùng của ông.
Những ngày tháng cuối đời, dù bị những cơn đau bụng quằn quại, tôi thấy ông vẫn cố chịu đựng. Những lúc đau, ông lại đuổi tôi về vì không muốn tôi thấy ông như thế. Ông còn bảo tôi đem sách vở toán sang ông dạy, những ngày ông dạy tôi chỉ đếm trên đầu ngón tay. Dù đau bụng nhưng ông vẫn cố ngồi dạy tôi làm toán. Tôi thấy thương ông lắm mà chẳng làm gì được. Rồi cái ngày đáng sợ nhất cũng đến, ông ra đi trong sự thương tiếc của gia đình và học trò. Cho tới những giây phút ấy, tôi cũng không tin vào mắt mình rằng người ông mà tôi yêu quý nhất đã bỏ tôi mà đi. Còn lời hứa với tôi thì sao? Ông còn chưa thực hiện lời hứa với tôi mà đã ra đi như thế, tôi ghét ông lắm vì ông đã không giữ lời hứa với tôi.
Sau này khi đã lớn, tôi mới biết ông thực ra không thích ăn bánh mì, ông chỉ ăn vì nó giúp ông đỡ đau bụng hơn mà thôi. Cái giá sách của ông nào là sách triết, nào là sách toán các loại, nào là giấy khen, giờ nó đã đóng bụi hết cả. Tôi tự nhủ với lòng mình rằng tôi sẽ cố gắng học tốt để không phụ công lao của ông, tôi vẫn thường hay mượn sách tham khảo từ giá sách của ông để tự học môn toán.
Vậy đấy, người ông cao cả của tôi, người luôn hy sinh thầm lặng cho học trò cũng như cho gia đình, người đã khiến tôi thêm trân trọng nghề giáo biết nhường nào. Nhiều lúc bản thân tôi thấy rất ghen tị với những người còn có ông bên cạnh, tôi chỉ mong các bạn hãy trân trọng thứ tình cảm thiêng liêng đó mà biết quý trọng người ông của mình.
Câu trả lời của bạn: 17:16 11/01/2022
trả lời nek
Trước hết, phải nhìn nhận chủ nghĩa tư bản là một nấc thang trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. C.Mác đánh giá: Chủ nghĩa tư bản là xấu xa so với chủ nghĩa cộng sản, nhưng nó là một hình thái kinh tế, xã hội tiến bộ nhất so với những hình thái kinh tế, xã hội đã có trong lịch sử. Và sự điều chỉnh, thích nghi của chủ nghĩa tư bản đương đại được thực hiện trên nhiều phương diện, nhất là quan hệ sản xuất.
Trở lại lịch sử những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, các học giả tư sản “rêu rao” về chiến thắng của chủ nghĩa tư bản, cho đây là thời điểm “cáo chung của học thuyết Mác”, rằng chủ nghĩa xã hội đã “lỗi thời, lạc hậu”, và chủ nghĩa tư bản mới là đích đến cuối cùng của nhân loại. Đồng thời, bằng những điều chỉnh để tự thích nghi về quan hệ sản xuất, họ cũng biện minh cho một thứ chủ nghĩa tư bản đã có sự thay đổi về chất để trở thành chủ nghĩa tư bản hiện đại, chủ nghĩa tư bản nhân dân, chủ nghĩa tư bản tiến bộ… Vậy, những điều chỉnh về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại là gì?.
Về quan hệ sở hữu: Ngoài đối tượng sở hữu đã có những thay đổi lớn (từ sở hữu hiện vật sang giá trị), với việc chia nhỏ cổ phần, phát hành cổ phiếu mệnh giá thấp, chủ nghĩa tư bản đã huy động được hàng triệu nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp nhân dân tập trung thành nguồn lực to lớn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, phần nào làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo “không gian” cho chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát triển. Sự điều chỉnh về quan hệ sở hữu phần nào “xóa đi” ranh giới giữa nhà tư bản với người lao động, tạm thời dung hòa mâu thuẫn giữa ông chủ và người làm thuê. Bởi về mặt hình thức, cả nhà tư bản và người lao động đều có cổ phần và trở thành cổ đông của nhà máy, xí nghiệp nên đều là “ông chủ” - đồng sở hữu, đều “bình đẳng” trước phương án tổ chức quản lý và kết quả sản xuất kinh doanh.
Về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất: Trong chủ nghĩa tư bản đương đại, ta thấy dường như các nhà tư bản tách rời và đứng ngoài quá trình tổ chức quản lý sản xuất. Bằng việc áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ và sử dụng những người lao động có trình độ cao về tổ chức quản lý sản xuất, các nhà tư bản đã từng bước hoàn thiện quy trình sản xuất, đồng thời chọn lựa đưa ra được những phương án kinh doanh tối ưu. Các nhà tư bản không còn trực tiếp hiện diện trong các dây chuyền sản xuất như vai trò của những người “đốc công”. Quan hệ trong quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh dường như chỉ còn lại là quan hệ giữa những người lao động với nhau. Có chăng chỉ là sự khác biệt về “sắc áo, lợi ích và thẩm quyền”. Mâu thuẫn, xung đột trực diện giữa các nhà tư bản và lao động dường như đã được giải quyết.
Về quan hệ phân phối: Bên cạnh các hình thức phân phối thông qua giá cả sức lao động, trong chủ nghĩa tư bản đương đại cũng xuất hiện nhiều hình thức phân phối khác đa dạng, phong phú hơn. Bao gồm: Điều tiết phân phối giá trị thặng dư thông qua thuế; phân phối thông qua lợi tức cổ phần; trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội; các hình thức đầu tư cho giáo dục đào tạo; chăm sóc sức khỏe; tăng mức “thưởng và đãi ngộ cho người lao động”… phần nào tạo ra nguồn thu nhập thêm cho người lao động. Sự bóc lột của nhà tư bản không còn “đậm nét” như những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX mà thay vào đó là hình ảnh của các nhà tư bản “quan tâm, chăm sóc và sẻ chia” cùng người lao động.
Như vậy, sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đã làm cho hình ảnh “cừu ăn thịt người” với “lỗ chân lông nhuốm đầy máu và nước mắt của giai cấp vô sản” của chủ nghĩa tư bản “bóc lột, ăn bám”, “tàn nhẫn” trong quá khứ bị lu mờ. Thay vào đó là hình ảnh về một chủ nghĩa tư bản “hiện đại, tiến bộ”, “chủ nghĩa tư bản nhân văn, nhân ái”… Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể giải thích khoa học cả về hiện tượng, hình thức, mục đích, nguyên nhân và giới hạn của sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản đương đại.
2. Bản chất của những điều chỉnh, thích nghi về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại
Cần khẳng định: Sự biến đổi thích nghi về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại là có thật nhưng sự điều chỉnh đó không thể tự nó chuyển sang một hình thái kinh tế - xã hội mới. Sự điều chỉnh đó vẫn trong phạm vi giới hạn vỏ bọc của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn nằm trong giai đoạn độc quyền của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Có thể cắt nghĩa vấn đề trên bằng những luận cứ khoa học sau:
Một là, về quan hệ sở hữu: Mặc dù có sự đa dạng về sở hữu, nhưng vấn đề đặt ra là trong hàng triệu triệu cổ phần của các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa, người lao động nắm tỉ lệ bao nhiêu? Ai vẫn là người nắm số lượng cổ phần, cổ phiếu lớn hoặc giữ tỉ lệ cổ phiếu chi phối?... Câu trả lời chắc chắn vẫn là các nhà tư bản. Thông qua chế độ tham dự, theo mô hình một công ty mẹ khống chế nhiều công ty con, một công ty con khống chế nhiều công ty cháu... mà quyền lực kinh tế, chính trị, xã hội của nhà tư bản, của các tổ chức độc quyền tăng lên. Vì vậy, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Những điều chỉnh thích nghi về quan hệ sở hữu trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện nay làm cho nó phù hợp được phần nào đó với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhằm mục tiêu tiếp tục duy trì và củng cố chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất, tuy nhiên, bản chất của quan hệ sở hữu không thay đổi.
Hai là, về tổ chức quản lý sản xuất: Trong tổ chức quản lý sản xuất, việc thuê mướn hoặc sa thải (kể cả giám đốc điều hành sản xuất, giám đốc kỹ thuật, giám đốc marketing, thậm chí cả giám đốc tài chính …) đều do các nhà tư bản quyết định. Những điều chỉnh thích nghi về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất nhằm khai thác tối đa nguồn lực con người, tiềm lực khoa học, công nghệ phục vụ cho khát vọng làm giàu của nhà tư bản và toàn bộ giai cấp tư sản. Sự điều chỉnh thích nghi về tổ chức quản lý đã tạo ra sự thích ứng nhất định để thúc đẩy xã hội hoá lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Tuy nhiên, do tư liệu sản xuất thuộc quyền chiếm hữu của nhà tư bản nên quyền tổ chức quản lý sản xuất vẫn do giai cấp tư sản điều hành, chi phối và mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa nhà tư bản với công nhân vẫn là quan hệ giữa ông chủ và người làm thuê. Trong cuốn “Tư bản thế kỷ XXI”, Thomas Piketty, nhà kinh tế học người Pháp nhận định “Dữ liệu kế toán mà hiện tại các doanh nghiệp được yêu cầu phải công bố là hoàn toàn không đủ để cho phép người lao động hay những công dân bình thường có thể có ý kiến về các quyết định của công ty, nói gì đến việc can thiệp vào những quyết định đó”[2].
Ba là, trong quan hệ phân phối: Thực hiện trả lợi tức cổ phần và sử dụng một bộ phận lợi nhuận khổng lồ để phân phối thông qua các quỹ không làm cho bản chất của quan hệ phân phối thay đổi. Nhìn nhận một cách khác, việc điều chỉnh quan hệ phân phối sản phẩm phần nào góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người công nhân làm thuê. Tuy nhiên, những điều chỉnh về quan hệ phân phối đã làm cho một số người lầm tưởng rằng chủ nghĩa tư bản không còn là xã hội bóc lột và bất công, là “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, xã hội mà “toàn dân là tư sản”, từ đó gây ra sự chia rẽ trong phong trào đấu tranh của công nhân.
3. Giới hạn về những điều chỉnh, thích nghi của chủ nghĩa tư bản - Chủ nghĩa xã hội hiện thực sẽ là tất yếu
Chủ nghĩa tư bản không thể tự mình vượt ra ngoài vỏ bọc của chính nó để biến thành một hình thái kinh tế - xã hội mới. Đó cũng chính là giới hạn của sự biến đổi thích nghi, quy định địa vị lịch sử của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung và của chủ nghĩa tư bản giai đoạn độc quyền nói riêng. Giới hạn mà chủ nghĩa tư bản không thể vượt qua chính là lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ cao, tạo ra một khối lượng hàng hoá vật phẩm và dịch vụ khổng lồ, lẽ ra nhân loại sẽ không còn đói nghèo, thất nghiệp, thất học và nợ nần v.v. để từng bước đạt tới đỉnh cao của văn minh và hạnh phúc. Nhưng trên thực tế, ngay ở những nước tư bản phát triển nhất, tình trạng bóc lột, bất công, đói nghèo vẫn đang diễn ra và ngày càng sâu sắc hơn. Nguyên nhân của những tình trạng này là do quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế. Quan hệ sản xuất đó mâu thuẫn ngày càng sâu sắc hơn với lực lượng sản xuất đã xã hội hoá ở trình độ cao. Đây chính là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại và được biểu hiện về mặt xã hội thành những mâu thuẫn chủ yếu sau:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa tư bản với lao động làm thuê: Hiện nay, giai cấp công nhân hiện đại có trình độ chuyên môn ngành nghề ngày càng cao, trong số đó có người giữ các chức vụ là giám đốc, tổng giám đốc... Nhưng xét cho cùng vì không có tư liệu sản xuất nên họ vẫn ở địa vị của người làm thuê, vẫn phải làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản. Tiền lương vẫn là thu nhập chủ yếu và vẫn là giá cả sức lao động của người công nhân làm thuê. Họ vẫn đang bị bần cùng hoá (cả tương đối và tuyệt đối).
Thứ hai, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển, chậm phát triển: Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và chủ nghĩa thực dân kiểu mới, các nước tư bản phát triển vẫn không từ bỏ ý đồ lôi kéo các nước đang phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa nhằm áp đặt quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn cầu. Theo đó, từ những năm 80 của thế kỉ XX trở lại đây, người ta nói nhiều về “chủ nghĩa thực dân kinh tế”, “chủ nghĩa thực dân công nghệ”. Chính mối quan hệ kinh tế bất bình đẳng giữa các nước tư bản phát triển với các nước thế giới thứ ba đã đem lại những khoản siêu lợi nhuận cho các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia. Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, sức lao động dồi dào và rẻ mạt đã biến các nước có nền kinh tế lạc hậu thành những miền đất hứa cho tư bản sinh sôi và cho những công nghệ, thiết bị lạc hậu của các nước tư bản phát triển tiếp tục “sản sinh” giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa các tổ chức độc quyền tư bản, giữa các công ty xuyên quốc gia, giữa các trung tâm quyền lực tư bản chủ nghĩa với nhau: Đây là mâu thuẫn nội bộ của chủ nghĩa tư bản, nó đã từng tồn tại trong suốt cả thế kỷ XX và vẫn tiếp diễn sang thế kỷ XXI. Chính mâu thuẫn này đã đẩy nhân loại lâm vào hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc nhất trong lịch sử. Hiện tại, mâu thuẫn giữa các trung tâm quyền lực kinh tế tư bản chủ nghĩa gay gắt tới mức người ta đã dùng tới những thuật ngữ như: chiến tranh địa chính trị; chiến tranh cá thu, chiến tranh ôtô; chiến tranh nhôm, thép; chiến tranh vaccine… Đặc biệt, thời gian gần đây mâu thuẫn giữa Mỹ với Liên minh châu Âu (EU), giữa Mỹ với các nước tư bản khác trên các vấn đề thương mại, sự đóng góp tài chính cho các hoạt động quân sự… chính là liên minh trong mâu thuẫn đã được V.I.Lênin khái quát bằng cụm từ “liên minh chó sói”.
Thứ tư, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội và những vấn đề toàn cầu: Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, có người cho rằng chủ nghĩa xã hội không còn và như vậy, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội cũng không còn nữa. Trên thực tế, chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại ở một số quốc gia, vẫn là một thực thể kinh tế - chính trị - xã hội đối lập với chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội vẫn là một trào lưu chính trị - tư tưởng ở các nước tư bản, các nước có xu hướng dân tộc chủ nghĩa và ở ngay chính cả những nước mà chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị tan rã cách đây trên dưới 3 thập niên. Đặc biệt, khi phần lớn những lợi nhuận của xã hội chỉ tập trung vào trong tay số ít các nhà tư bản, sự bất bình đẳng trong xã hội tiếp tục gia tăng thì những vấn đề toàn cầu đói nghèo, dịch bệnh, sự biến đổi của khí hậu, chiến tranh, tội phạm quốc tế… sẽ không thể giải quyết được một cách triệt để.
Nhận định về sự điều chỉnh, thích nghi chủ nghĩa tư bản đương đại, Thomas Piketty cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế hiện đại và sự truyền bá tri thức đã giúp tránh được sự diệt vong theo quan quan điểm của Marx nhưng không giúp điều chỉnh những cấu trúc tư bản sâu xa và tình trạng bất bình đẳng - hay chí ít là không nhiều như người ta đã từng hình dung trong những thập niên lạc quan sau Thế chiến II" và “Chủ nghĩa tư bản tự động tạo ra tình trạng bất bình đẳng tùy tiện và không bền vững, làm xói mòn những giá trị trọng dụng nhân tài, vốn là nền tảng của các xã hội dân chủ[3]".
Đánh giá về bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện nay, đồng thời khẳng định tại sao Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là duy nhất đúng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: "Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có".
Chính những giá trị tốt đẹp của chế độ mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu trên là bản chất đích thực của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, đó cũng chính là mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì để từng bước hiện thực hóa./.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 17:13 11/01/2022
Nhà nước Đại Cồ Việt dưới thời Tiền Lê (980 - 1009) và thời kỳ đầu của nhà Lý (1009 - 1054) Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi vua, lập ra triều Tiền Lê. Triều Tiền Lê có những cống hiến to lớn vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước với thắng lợi vang dội của cuộc kháng chiến chống Tống (năm 981) và bình định Chăm-pa (năm 982).
nhé💕💕
Câu trả lời của bạn: 17:12 11/01/2022
' - '??
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 17:08 11/01/2022
Trả lời:
- Một bác nông dân rất cần cù cày cho xong thửa ruộng của mình.
- Một bông hoa hồng trong vườn thật rực rỡ trong nắng sớm.
- Một buổi sớm mùa đông trở nên ấm áp vì có nắng vừa hửng lên.