
Phương Trang
Bạc đoàn
545
109
Câu trả lời của bạn: 21:30 12/01/2022
Cả hai phòng lớn và nhỏ đều có âm phản xạ. Nhưng chỉ phòng lớn ta mới nghe được âm phản xạ nhờ có tiếng vang, còn phòng nhỏ thì ta nghe được âm phản xạ và âm phát ra gần như cùng một lúc do tốc độ truyền âm thanh trong không khí là 340m/s.
Câu trả lời của bạn: 21:29 12/01/2022
Đối với dòng điện trong chất điện phân:
A. Khi hoà tan axit, bazơ, hoặc muối vào trong nước, các phân tử bị phân li thành các ion, ion dương là anion, ion âm là cation.
B. Trong dung dịch chất điện phân trung hoà điện, tổng số ion dương và tổng số ion âm bằng nhau.
C. Dòng điện trong bình điện phân nào cũng tuân theo định luật Ôm.
D. Khi có hiện tượng cực dương tan, dòng điện trong chất điện phân tuân theo định luật Ôm.
Câu trả lời của bạn: 21:28 12/01/2022
Do quán tính, phần thân không thể dừng lại đột ngột theo cục đá mà giữ lại trạng thái ban đầu là chuyển động về phía trước. Vây khi bị vấp, ta luôn ngã người về phía trước.
Câu trả lời của bạn: 21:27 12/01/2022
tôi là nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn " Lặng lẽ Sa Pa" của nhà văn Nguyễn Thành Long. Nơi tôi sống và làm việc là đỉnh Yên Sơn cao 2600m, một nơi mà đầy sương mù dày dặc bao phủ xung quanh. Tôi ở đây có một mình, thành ra cũng có những giây phút cô đơn avf thèm người lắm. Và thật may mắn sao, tình cờ tôi đã quen được bác tài xế, ông họa sĩ, cô kĩ sư . Họ đã để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong tôi.
Khi tôi mới lên công tác chưa quen nên rất muốn gặp gỡ mọi người. Tôi bền lăn khúc gỗ ra giữa đường xem có xe nào đi qua không.Ngay sau đó, một chiếc xe đi lên, thấy khúc gỗ chắn ngang đường liền dừng lại gọi mọi người xuống đẩy bỏ đi. Tôi lao ra bảo mọi người cùng đẩy bỏ. Đẩy xong một bác tài xế ra hỏi:” Ai đã đẩy khúc gỗ ra giữa đường đấy”. Tôi ngại quá, đỏ mặt, tôi bảo với họ rằng tôi mới lên công tác chưa quen nên nghĩ ra cách này để gặp gỡ mọi người. Thế là tôi đã quen với bác tài xế và bác hứa với tôi rằng mỗi tháng có chuyến xe qua sẽ dừng lại cho tôi nói chuyện, làm quen với mọi người. Lúc đó, tôi rất sung sướng và chỉ mong một tháng trôi qua thật nhanh.
Trong những ngày công tác, chán quá tôi liền tự tìm thú vui cho mình. Không chỉ dọn dẹp nhà cửa ngăn nắp, tôi trồng hoa, trồng cây thuốc quý, đọc sách. Và chính những thứ này tôi đã gây cảm tình với ông họa sĩ già và cô kĩ sư.
Lần đó, bác tài xế đã giới thiệu cho tôi hai người đó, họ có ba mươi phút tôi bèn dẫn họ lên thăm nhà. Tôi hái thật nhiều hoa để tặng cô kĩ sư, cô ấy rất thích. Rồi tôi giới thiệu qua công việc của mình cho cô kĩ sư và ông họa sĩ nghe. Tôi đưa họ vào trong nhà. Ông họa sĩ ngạc nhiên khi ở cái nơi “lặng lẽ Sapa” này tưởng tôi ở một mình thì mọi thứ chắc bề bộn lắm. Ấy vậy mà ông lại thấy căn phòng của tôi quá ngăn nắp. Cô kĩ sư ra tủ sách chọn lấy một quyển và ngồi đọc. Tôi và ông họa sĩ trò chuyện với nhau. Ông hỏi:
– Quê anh ở đâu thế?
– Quê cháu ở Lào cai này thôi
Dường như, càng nói chuyện thì ông họa sĩ càng thích tôi. Cuối cùng, ông ra quyết định sẽ vẽ chân dung tôi. Tôi ngượng lắm, liền từ chối mãnh liệt. Tôi cảm thấy tôi không xứng đáng để được vẽ, còn có nhiều người giỏi hơn tôi. Ông kĩ sư vườn rau, đồng chí nghiên cứu khoa học trên mảnh đất này, họ cũng là những nhân tài và rất xứng đáng để được phác họa chân dung. Nhưng ông đã bắt đầu phác thảo khuôn mặt của tôi, bằng vài nét, họa sĩ đã gần như ghi xong gương mặt của tôi.
Tôi nhìn đồng hồ và kêu lên:
– Trời ơi, chỉ còn năm phút!
Tôi giật mình nói to, giọng cười nhưng đầy tiếc rẻ. Tôi chạy ra nhà phía sau, rồi vào liền, tay cầm một cái làn. Nhà họa sĩ tặc lưỡi đứng dậy. Cô gái cũng đứng lên, đặt lại chiếc ghế, thong thả đi đến chỗ bác già
– Ô! Cô còn quên chiếc mùi soa đây này!
Tôi kêu lên. Để người con gái khỏi trở lại bàn, anh lấy chiếc khăn tay còn vo tròn giữa cuốn sách tới trả cho cô gái. Cô kĩ sư mặt đỏ ửng, nhận lại chiếc khăn và quay vội đi.
Chúng tôi tạm biệt nhau, ông họa sĩ già hứa sẽ lên thăm tôi một lần nữa.
Đến lượt cô kĩ sư. Cô chìa tay ra cho anh nắm, cẩn trọng, rõ ràng, như người ta cho nhau cái gì chứ không phải là cái bắt tay. Cô nhìn thẳng vào mắt tôi
– Chào anh.
Tôi đưa cho cô kĩ sư quyển sách và chiếc khăn mùi soa. Tôi nắm tay cô ấy, cả hai chúng tôi dường như đã cảm nhận được tình cảm của nhau.
– Cái này để ăn trưa cho bác, cho cô và bác lái xe.
Tôi tạm biệt họ, tôi nghĩ rằng bao giờ mới có thể gặp lại hai người này. Đặc biệt là cô gái. Và tôi cảm thấy dường như chính tôi và cô gái ấy đều thấy có cảm tình với nhau. Và tại nơi lặng lẽ Sapa này một tình yêu chớm nở giữa tôi và cô kĩ sư.
Tôi biết rằng câu chuyện giữa chúng tôi thật ngắn ngủi nhưng để lại trong mỗi mỗi chúng tôi: ông họa sĩ, tôi và cô ấy những cảm xúc không thể nào quên. Nơi mà tình người như cao cả hơn cả đất trời, nơi ấy tình yêu cũng đơm hoa kết trái và nơi ấy chúng tôi gọi là nơi lặng lẽ Sapa.
Đóng vai anh thanh niên kể lại truyện Lặng lẽ Sapa - Mẫu 2
Đó không phải lần đầu tiên tôi rời Hà Nội – quãng đời học sinh, sinh viên của tôi đã ghi dấu bao lần đến với Huế, Quảng Trị, Bắc Kạn, Thái Nguyên, nhưng lần này đến Lai Châu, tôi có cảm giác thật lạ. Tôi mới ra trường, đây là chuyến đi nhận công tác của tôi. Bước qua cuộc đời học trò chật hẹp để bước vào cuộc sống mới khiến tôi không khỏi ngỡ ngàng. Trên chặng đường từ Hà Nội đến Lai Châu, tôi đã được quen biết những con người thuộc những thế hệ khác nhau. Họ đã khiến tôi thấy cuộc sống này rộng lớn và đẹp đẽ biết mấy. Đặc biệt là quãng đường tôi đến Sa Pa. Sa Pa, nghe cái tên người ta đã muốn nghỉ ngơi nhưng ở đó có những con người làm việc hăng say, họ nguyện hi sinh tuổi thanh xuân của mình cho đất nước. Họ để lại ấn tượng đẹp trong lòng tôi cũng như bất kì ai đặt chân lên mảnh đất này.
“Chỉ vài cây số nữa là tới Sa Pa” – bác lái xe nói vậy. Tôi bắt đầu háo hức, tò mò, mắt nhìn xa ngoài cửa kính một cách lặng lẽ mà say mê. Sau cuộc nói chuyện, giao lưu vui vẻ giữa tôi – bác lái xe – bác họa sĩ già thì mọi người bỗng nín bặt, vì cảnh trước mắt bỗng hiện lên đẹp một cách kỳ lạ… Nắng bây giờ bắt đầu len tới đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng, những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe. Giữa lúc đó, bác lái xe cho dừng xe để mọi người nghỉ ngơi. Riêng với tôi và bác họa sĩ, ông quay sang nói một cách bí hiểm: sẽ giới thiệu cho chúng tôi một trong những người “cô độc nhất thế gian”. Bác lái xe này thật vui tính khi đặt cho người đó cái tên như vậy. Bác lại còn khẳng định với bác họa sĩ – một người say mê nghệ thuật rằng: “Thế nào bác cũng thích vẽ hắn”. Không hiểu sao nói đến đây, bác lái xe lại liếc nhìn tôi, khiến cho tôi bất giác đỏ mặt. Cái nhìn đó có lẽ là có hàm ý sâu xa.
Theo lời bác lái xe thì đó là một anh chàng hai mươi bảy tuổi làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 m. Khi mới lên nhận việc, chưa quen với không khí toàn rừng và cây ở đây nên anh ta “thèm người” đến mức chắn ngang khúc gỗ ngang đường để kiếm cớ có người nói chuyện.
– Kia, anh ta kia! – Bác lái xe chỉ. Tôi và ông họa sĩ già thực sự xúc động và vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy trước mắt chúng tôi là người con trai tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ từ trên sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ. Người con trai đưa cho bác lái xe một gói nhỏ – củ tam thất – một thứ cây của vùng núi. Còn bác lái xe thì rạng rỡ cười cho anh thanh niên kia cũng mừng quýnh. Tôi có cảm giác hành động đó của hai người không đơn thuần chỉ là tình cảm giữa hai người quen biết mà là tình cảm của những người trong gia đình. Thì ra, vợ bác lái xe mới ốm dậy, anh chàng kia gửi biếu ít tam thất “của nhà trồng được” còn bác lái xe gửi sách mua giúp anh ta đọc cho đỡ buồn và đỡ nhớ cuộc sống bình thường!
Đứng một lát, bác lái xe dắt tay người thanh niên lại chỗ ông họa sĩ và tôi để giới thiệu. Anh mời chúng tôi lên thăm ngôi nhà nơi anh ở. Sau đó, cũng như bao chàng thanh nhiên khác anh đỏ mặt, luống cuống rồi xin về nhà trước. Không chỉ riêng tôi, bác họa sĩ hay bất kỳ ai cũng sẽ nghĩ rằng anh chạy về trước để dọn dẹp nhà cửa, hay gấp chăn màn vì… thanh niên mà! Đã vậy lại ở một mình nên khó tránh khỏi điều khó nói ấy. Nhưng thật bất ngờ! Tôi nhận thấy vẻ ngạc nhiên của bác họa sĩ khi bước lên bậc thang bằng đất thấy người con trai đang hái hoa. Còn tôi chỉ “ồ” lên một tiếng. Sau gần hai ngày, qua ngót bốn trăm cây số đường dài cách xa Hà Nội, đứng trong mây mù ngang tầm với chiếc cầu vồng kia, bỗng nhiên lại gặp hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong ngay lúc dưới kia là mùa hè, đột ngột và mừng rỡ, quên mất cả e lệ, tôi chạy đến bên người con trai đang cắt hoa. Anh rất tự nhiên như với một người bạn đã quen trao bó hoa đã cắt cho tôi, và cũng rất tự nhiên, tôi đỡ lấy.
– Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu nữa, tùy ý. Cô cứ cắt một bó rõ to vào. Có thể cắt hết nếu cô thích. Tôi không biết kỷ niệm thế nào cho thật long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai đến thăm nhà tôi từ Tết, và cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay.
Người con trai nói to những điều đáng ra người ta chỉ nghĩ. Cũng là những điều người ta ít nghĩ. Việc ấy làm tôi và bác họa sĩ cảm động và cuốn hút ngay. Tôi ôm bó hoa vào ngực, bạo dạn nhìn thẳng vào mặt anh. Anh thanh niên bắt gặp cái nhìn đó, phủi vội giọt mồ hôi trên sống mũi, mỉm cười, hạ giọng hỏi:
– Cũng đoàn viên, phỏng?
– Vâng – Tôi nói.
– Thôi, chấm dứt tiết mục hái hoa – Người con trai bất chợt quyết định
– Bác lái xe chỉ cho ba mươi phút thôi. Hết năm phút rồi. Cháu nói qua công việc của cháu, năm phút. Còn hai mươi phút, mời bác và cô vào nhà uống chè, cho cháu nghe chuyện. Cháu thèm nghe chuyện dưới xuôi lắm. Anh bắt đầu kể về công việc của mình. Rằng công việc của anh là đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động địa cầu để dự báo thời tiết.
Rồi cả những khó khăn, trở ngại: những đêm mưa bão, bão tuyết, trời nắng, mưa. Nhưng anh vẫn làm việc rất nghiêm túc đến từng giờ, từng phút. Bởi có lẽ anh hiểu được công việc của anh quan trọng như thế nào.
Tôi vẫn đứng đó, ôm bó hoa và lắng tai nghe. Anh bỗng dừng lại. Trời! Mười phút sao mà trôi nhanh quá!
– Anh nói nữa đi – Bác họa sĩ giục.
– Báo cáo hết! – Người con trai vụt trở lại giọng vui vẻ.
– Còn hai mươi phút nữa thôi. Bác và cô vào nhà. Chè đã ngấm rồi đấy.
Thì giờ ngắn ngủi còn lại thúc giục chính chúng tôi. Chúng tôi bước vào căn nhà ba gian sạch sẽ và gọn gàng.
Bác họa sĩ hứa sẽ quay trở lại và kể anh nghe chuyện dưới xuôi. Bác vừa nhâm nhi chén chè và nghe anh giải thích cụm từ “cô độc nhất thế gian”. Rằng còn có người cô độc hơn anh. Đó là anh bạn trên trạm đỉnh Fansipan ba trăm một trăm bốn mươi hai mét kia còn một mình hơn anh.
Tôi đang đọc cuốn sách trên bàn của anh và vẫn lắng tai nghe hai bác cháu họ nói chuyện.
Càng nói chuyện với chàng trai bác họa sĩ càng có vẻ thích thú. Bác đề nghị vẽ anh. Nhưng anh từ chối. Bởi theo anh – anh không phải là người đáng để vẽ. Anh khiêm tốn giới thiệu người khác. Đó là ông kỹ sư vườn rau dưới Sa Pa. Nhưng cũng may bằng mấy nét, họa sĩ đã ghi xong lần đầu gương mặt của người thanh niên.
Người thanh niên này làm tôi và bác họa sĩ suy nghĩ nhiều quá. Những điều cùng nghe cộng với những điều tôi khám phá thấy trên trang sách đang đọc giở làm cho tôi bàng hoàng. Có phải vì ánh sáng trong quyển sách chiếu qua làm tôi hiểu thêm về cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt vời của người thanh niên, về cái thế giới những con người như anh mà anh kể, về con đường tôi đi tới?
Không phải chỉ vì bó hoa rất to đi theo tôi trong chuyến thứ nhất ra đời mà vì một bó hoa khác, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm tôi. Tôi không muốn những khoảnh khắc này trôi đi vô nghĩa trong đời mình. Tôi mong muốn để lại điều gì thật ý nghĩa nơi này. Tôi khẽ mở khóa chiếc xắc nhỏ bên mình. Và thế là chỉ còn năm phút nữa. Bác họa sĩ tặc lưỡi đứng dậy. Tôi cũng đứng lên đi ra chỗ bác.
– Ô! Cô quên chiếc mùi xoa đây này!
Anh thanh niên vừa vào kêu lên, anh lấy chiếc khăn tay vo tròn cặp giữa cuốn sách tới trả cho tôi. Món quà mà tôi cho là một chút cỏn con, dịu dàng nhưng Tôi cúi đầu ngượng ngùng không nhìn thẳng vào anh nhận lại chiếc khăn và quay đi.
Bác họa sĩ và anh lưu luyến rồi hẹn ngày gặp lại. Còn tôi – tôi chìa tay cho anh nằm, cẩn trọng rõ ràng như người ta cho nhau cài gì chứ không phải cái bắt tay. Tôi nhìn anh, cái nhìn như mãi mãi không bao giờ gặp lại.
– Chào anh.
Tôi không biết cảm giác lúc đó là gì nữa. Điều cuối cùng anh dành sự quan tâm cho mọi người đó là anh ấn cái làn vào tay bác họa sĩ rồi nói là để cho mọi người ăn trưa.
Chúng tôi ra về, nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực làm cho bó hoa càng rực thêm làm cho tôi cảm thấy mình rực rỡ theo. Chuyến đi này là một chuyến đi thật khó quên trong đời tôi. Tôi đã gặp được những con người thật đẹp, thật cao cả. Họ làm cho tôi thấy yêu đời hơn, thấy tự tin với công việc của mình hơn và anh thanh niên để lại ấn tượng sâu đậm về một thế hệ trẻ như tôi – anh đã cống hiến hết mình cho phong trào ba sẵn sàng. Anh sống bên cái vẻ bề ngoài “lặng lẽ” nhưng bên trong thì rạo rực của vùng đất dấu yêu, thơ mộng này.
Câu trả lời của bạn: 21:27 12/01/2022
=-=???
Câu trả lời của bạn: 21:26 12/01/2022
Mỗi chúng ta đều có những trải nghiệm quý giá trong cuộc đời. Qua những trải nghiệm đó, con người rút ra cho mình những điều có giá trị.
Người bạn thân nhất của tôi là Minh Hà. Chúng tôi vừa là hàng xóm, vừa là bạn cùng lớp. Điều đó khiến cho tình bạn của cả hai thêm gắn kết. Minh Hà là một cô bạn hiền lành và ít nói, còn tôi lại năng động và hướng ngoại. Tôi và Hà thường giúp đỡ nhau trong học tập nên đã trở thành đôi bạn cùng tiến.Tôi còn nhớ một lần, tôi mải xem phim nên đã quên học bài. Buổi học hôm sau, cô giáo yêu cầu cả lớp làm bài kiểm tra mười lăm phút. Tôi ngồi loay hoay mà vẫn không làm được một câu nào. Thấy vậy, Minh Hà đã lén đập vào tay tôi. Thì ra, Hà muốn tôi chép bài của bạn. Tôi không nghĩ ngợi gì, chép luôn bài của Hà.
Tiết học sau đó, khi nhận xét về bài kiểm tra, cô giáo đã nói:- Cô cảm thấy rất buồn vì trong lớp vẫn còn hiện tượng chép bài. Minh Hà và Thu Trang, hai em có điều gì muốn nói với cô không?
Tôi và Hà nghe cô giáo nhắc đến tên mình thì cảm thấy vô cùng lo lắng. Cả lớp bắt đầu bán tán xôn xao. Cô giáo nói tiếp:
- Cô vẫn thường dạy các em phải trung thực trong thi cử. Nếu như bài kiểm tra đạt kết quả không tốt, cô có thể cho các em gỡ điểm. Nhưng nếu hành vi gian lận thì cô tuyệt đối sẽ không tha thứ.
Nghe cô giáo nói vậy, tôi biết mình là người có lỗi. Tôi liền đứng lên nói với cô giáo:
- Thưa cô… em là người đã chép bài của bạn Minh Hà ạ!
- Không… cô ơi, là em đã để cho bạn Thu Trang chép bài của mình ạ!
Cô giáo liền nói:
- Thu Trang đã biết nhận lỗi, điều đó rất tốt. Nhưng việc Minh Hà để cho bạn chép bài cũng là sai. Lần này, cô sẽ để hai em làm lại một bài kiểm tra khác. Nếu có lần sau, cô sẽ phát nặng nhé?
Cả hai chúng tôi đều thở phào nhẹ nhõm:
- Vâng ạ.
Quả là một trải nghiệm đáng nhớ của tôi. Từ đó, tôi luôn chăm chỉ học tập để không phạm phải lỗi lầm như vậy. Tình bạn của tôi và Minh Hà cũng ngày càng gắn kết hơn
Câu trả lời của bạn: 21:25 12/01/2022
-Nước mắt ngắn nước mắt dài: Khóc than sụt sùi.
Câu thành ngữ ý nói về việc phân phát không đều, kẻ được người không, nơi ít nơi nhiều. Câu thành ngữ ý nói bất cứ chuyện gì đã đến người thứ hai biết thì khó giữ được bí mật. Câu thành ngữ chỉ kẻ không biết lo liệu đề phòng trước, để việc hỏng rồi mới ứng cứu, lo liệu phòng thân. Cũng hàm ý chỉ kẻ dốt nát.
nhá
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 21:10 12/01/2022
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí
"Đồng chí!” Hai tiếng gọi nghe sao thân thương bình dị mà yêu mến đến vậy. Tình đồng chí là thứ tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc chiến đấu ấy. Cảm nhận được sự sâu nặng trong tình cảm của những anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Chính Hữu, một chiến sĩ – một nhà thơ đã xúc động viết lên tác phẩm Đồng chí. Bài thơ đã lưu dấu lại trong trái tim bao bạn đọc với biết bao cảm xúc. Tác phẩm đã ngợi ca tình cảm đồng chí đồng đội trong gian khổ, hiểm nguy vẫn luôn có nhau. Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu cũng như cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí sẽ cho thấy rất rõ điều đó.
Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc. Ông sinh năm 1926 mất năm 2007. Chính Hữu sinh ra ở Vinh. Ông từng học tú tài ngành trí học ở Hà Nội. Khi cách mạng bùng lên, ông nhanh chóng gia nhập vào hàng ngũ những người yêu nước. Năm 1946, ông tham gia vào trung đoàn Thủ Đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như kháng chiến chống Mĩ.
Chính Hữu hoạt động cách mạng sôi nổi nhiệt thành và có nhiều đóng góp cho công cuộc cách mạng. Ông từng làm chính trị viên đại học trong kháng chiến Điện Biên Phủ năm 1954. Ngoài ra, ông còn là nguyên Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của ông đều để dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Chính Hữu đã được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật lần hai vào năm 2000.
Không chỉ hoạt động trong lĩnh vực chính trị mà ông còn hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực thơ văn. Ông bắt đầu sáng tác thơ từ năm 1947. Và ông hầu hết chỉ viết về người lính. Có thể nói người lính đã trở thành một hình tượng tiêu biểu trong thơ của Chính Hữu.
Phong cách sáng tác của Chính Hữu: Những tác phẩm của Chính Hữu không nhiều, trong số đó đa phần là những bài thơ mang đậm dấu ấn cá nhân với những cảm xúc dồn nén, vừa sâu lắng thiết tha, trầm hùng lại vừa giản dị hàm súc, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, đặc sắc. Chính điều này đã làm nên một Chính Hữu với phong cách thơ bình dị hàm súc.
Nhắc đến sáng tác của Chính Hữu không thể không nhắc đến tập thơ “Đầu súng trăng treo” được ông sáng tác vào năm 1966. Trong tập thơ ấy nổi bật nhất phải kể đến bài thơ Đồng chí. Bài thơ này được ông sáng tác vào năm 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947.
Thời gian Chính Hữu viết bài thơ này thì khi đó ông là chính trị viên đại đội, đã từng theo đơn vị tham gia chiến dịch Việt Bắc, và cũng là người đã từng sống trong tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó vượt qua những khó khăn gian khổ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc kháng chiến chống Pháp và như một lời động viên tinh thần cho những người lính đang ngày đêm chiến đấu quên mình – những người lính vào sinh ra tử, và cũng là cho chính bản thân tác giả.
Trong những câu thơ đầu, Chính Hữu đã lí giải về cơ sở của tình đồng chí qua hoàn cảnh xuất thân, từ những con người xa lạ đã trở thành đồng đội đồng chí của nhau. Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí còn cho thấy sự gắn kết trọn vẹn giữa những người đồng chí.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí sẽ thấy mở đầu tác phẩm, Chính Hữu đã nói về hoàn cảnh xuất thân của những người lính – những người chiến sĩ:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
Biện pháp song hành xuất hiện – “quê hương anh” đối với “làng tôi”. Từ ấy cho thấy tôi và anh đến từ những nơi khác nhau, đều chỉ là những người xa lạ. Nhưng ngay từ đầu tôi và anh đã có điểm chung. Điểm chung đó là tuy khác nhau nhưng ta lại có cùng xuất thân cùng hoàn cảnh như nhau “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”.
“Nước mặn đồng chua” hay “đất cày lên sỏi đá” là những cụm từ đã cho thấy sự nghèo khó và vất vả của những người nông dân. Những người lính ấy có người xuất thân từ ngư dân miền biển “nước mặn đồng chua”, lại có những người xuất thân từ người nông dân chân lấm tay bùn “đất cày lên sỏi đá”.
Cuộc sống của họ vẫn quẩn quanh trong cái nghèo chạy lo từng bữa cơm vất vả. Chúng ta đều xuất thân từ tầng lớp bé nhỏ thấp cổ bé họng nhất trong xã hội. Đó là những người nông dân hiền lành một nắng hai sương ngày ngày vất vả bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Có thể thấy, những người lính đều có sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân, đều bị cái nghèo khó bủa vây – đây cũng chính là cơ sở của sự đồng cảm giai cấp giữa những người lính cách mạng.
Thế nhưng khi đất nước cần những người nông dân hiền lành ấy biết hóa thân biết hy sinh để bảo vệ hòa bình độc lập tự do của đất nước. Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí đã làm ta liên tưởng đến hình ảnh người nông dân đầy cảm động trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; rồi tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.”
Chưa quen cung ngựa, đâu biết trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”
Cũng chính vì xuất thân bình dị ấy mà tôi và anh có thể đồng cảm thấu hiểu với nhau nhiều hơn. Đó cũng chính là cơ sở tiền đề quan trọng để chúng ta gắn kết với nhau và sau này sẽ trở thành những người người tri kỉ bên nhau.
Sau khi nói về hoàn cảnh xuất thân tạo tiền đề cho sự kết nối sau này, tác giả còn nhắc nhớ đến những ngày đầu gặp gỡ:
“Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Từ đầu chúng ta không quen biết nhau, đến từ khắp mọi miền đất nước nên ban đầu gặp gỡ ấy chúng ta chỉ là “người xa lạ”. “Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”, chúng ta quen biết nhau gặp gỡ nhau chính là nhờ có cùng chí hướng, cùng quyết tâm cùng chung sức bảo vệ đất nước.
Khi đất nước rơi vào tay giặc, tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc thì họ – những người nông dân chất phác ấy không thể ngồi yên nhìn đất nước rơi vào tay giặc. Họ đã đứng lên cùng nhau chung tay dốc hết sức mình để bảo vệ đất nước. Dù biết sẽ có hi sinh có mất mát nhưng họ vẫn quyết định vùng lên. Đó là một tinh thần một nghĩa cử cao đẹp, vì nghĩa lớn mà quên đi bản thân.
Tôi và anh tuy đến từ những nơi khác nhau nhưng chính tình yêu nước đã gắn kết chúng ta lại với nhau. Không chỉ giống nhau về hoàn cảnh xuất thân mà còn giống nhau về chí hướng. Đó mới là điều quan trọng, là mối liên kết chặt chẽ từ trái tim đến trái tim. Câu thơ đã thể hiện một cách xúc động tấm lòng ý thức sâu sắc về nghĩa vụ trách nhiệm đối với đất nước của những người nông dân.
Họ không cần ai hô gọi cũng chẳng cần ai khích lệ, không cần lập công danh để lại tiếng thơm cho đời. Điều họ cần chỉ đơn giản là bảo vệ độc lập đất nước, bảo vệ cuộc sống hoà bình ấm no cho mọi người. Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí khiến ta nhớ đến Nguyên Hồng cũng từng viết về những người bạn xa lạ này một cách thật xúc động.
“Lũ chúng tôi
Bọn tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai
Súng bắn chưa quen
Quân sự mười bài”
(Nguyên Hồng – Nhớ)
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí sẽ thấy từ những con người xa lạ, sau một thời gian họ đã trở thành những người đồng chí:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Đồng chí!”
Hình ảnh “súng bên súng đầu sát bên đầu” gợi ra nhiều liên tưởng. Cách nói hàm súc đầy hình tượng ấy đã diễn tả chân thành tình cảm của những người lính. “Súng bên súng” là những ngày kề vai sát cánh cùng nhau chiến đấu. “Đầu sát bên đầu” là một hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tri kỷ. “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” được xem là một câu thơ hay đầy ắp những kỉ niệm đẹp của một thời gian khổ chia ngọt sẻ bùi. Tấm chăn mỏng mà ấm áp biết bao tình cảm tâm giao của những người chiến sĩ – những người vào sinh ra tử có nhau.
Những người lính đã biết hi sinh cái riêng vì cái chung. Họ chiến đấu và hi sinh cho một lý tưởng cao quý – đó là chiến đấu và hi sinh cho hòa bình độc lập đất nước. Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí sẽ thấy câu thơ biến hóa diệu kỳ từ 7,8 từ rối nén xuống rút lại còn 2 từ “đồng chí!”. Điều này đã khiến cho cảm xúc thơ như nén chặt và dồn tụ. Họ từ những con người xa lại giờ đã trở nên tri kỉ, trở thành đồng chí đồng đội, gian khổ và hiểm nguy có nhau.
Họ chiến đấu hôm nay có thể ngã xuống ngày mai nhưng điều quan trọng là thế hệ con cháu mai sau sẽ được hưởng hòa bình hạnh phúc. Đây vừa là hình ảnh tả thực vừa là hình ảnh mang tính biểu trưng. HÌnh ảnh tả thực những người lính kề vai chiến đấu, gợi ra hình ảnh một đoàn quân nối tiếp nhau chiến đấu vì ngày mai. Hình ảnh ấy còn biểu trưng cho sự đồng cảm, sự sẻ chia và quan trọng nhất là cùng chung chí hướng.
Hình ảnh “súng” thường gợi nhắc đến chiến tranh. Nhưng những người lính nông dân này, họ chiến đấu không phải vì mua danh vì phú quý hay vì tham vọng bành trướng thế lực xâm chiếm nước khác, mà họ chiến đấu là vì nền độc lập tự do của đất nước. Có thể khẳng định đây là một cuộc chiến chính nghĩa.
“Đêm rét” hiện ra đã khắc họa chân thực những khó khăn nơi chiến trường. Màn đêm buông xuống cũng là lúc những người lính dừng chân nghỉ ngơi sau một ngày hành quân mệt mỏi. Nhưng đó cũng là lúc người lính thấm mệt, cái lạnh như dao cắt càng làm tăng thêm sự mỏi mệt.
Trước cái khắc nghiệt của thiên nhiên, những người lính đã vượt qua cái lạnh buốt giá ấy bằng ngọn lửa ấm của tình đồng đội. Buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp có nhiều khó khăn về tương quan chênh lệch lực lượng, còn có những khó khăn thiếu thốn về vật chất. Vì thế, trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó một tấm chăn ấm là vô cùng quý giá. Hạnh phúc là được nằm trong tấm chăn ấm ấy. Nhưng người chiến sĩ không ích kỉ độc chiếm làm của riêng mà họ chia sẻ cho nhau.
Khi cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí, ta thấy chính sự chia sẻ ấy đã khiến cho không gian bỗng trở nên ấm áp hơn gấp bội. Và đó cũng trở thành một kỷ niệm đẹp cho trong suốt hành trình chiến đấu gian khó. Để rồi sau này khi nhớ lại bỗng thấy nghẹn ngào như Thâm Tâm từng viết:
“Ôi núi thẳm rừng sâu
Trung đội cũ về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu
Thấm mối tình Việt Bắc…”
(Chiều mưa đường số 5- Thâm Tâm)
Kỷ niệm ấy thật đáng quý đáng nhớ xiết bao. Cùng nhau trải qua biết bao khó khăn chồng chất, trải qua cả những giây phút hiểm nguy, nên từ người xa lạ trở thành “đôi tri kỉ”. Gọi là tri kỉ nghĩa là những người có thể thấu hiểu cho nhau. Trong cuộc sống này có được những người bạn tốt đã khó thì gặp được những người tri âm tri kỷ còn khó hơn.
Có thể nói tình yêu nước đã giúp họ gặp gỡ nhau, kết nối những tâm hồn lại với nhau. Nếu hậu phương là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho người chiến sĩ an tâm chiến đấu, hòa bình độc lập đất nước là lý tưởng mà người lính lấy làm mục tiêu phấn đấu thì chính tình đồng đội lại là điểm tựa vững chắc trong những ngày tháng chiến đấu nơi chiến trường ác nghiệt này.
Từ những câu thơ dài cuối cùng đúc kết lại thành một dòng thơ ngắn gọn cô đọng chỉ với hai tiếng “đồng chí” thân thương vang lên. Từ người xa lạ đến đồng chí là cả một quá trình bên nhau. Đồng nghĩa là cùng, chí nghĩa là chí hướng. Đồng chí ý chỉ những người có cùng chí hướng với nhau. Không chỉ vậy họ còn sát cánh bên nhau để thực hiện lí tưởng cuộc đời mình, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi.
Không nói lên hết tất cả những gì đã cùng nhau trải qua nhưng tựu chung lại tất cả mọi cảm xúc dồn nén đó qua tiếng gọi thân thương “đồng chí”. Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí khiến ta bỗng nhớ đến Chính Hữu cũng từng định nghĩa về tình đồng đội đồng chí thật mộc mạc qua những ý thơ:
“Đồng đội ta
Là hớp nước uống chung
Là nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng một chiều mưa”
(Đồng đội – Chính Hữu)
Đó không phải là một khái niệm cứng nhắc khuôn sáo nào mà nó thật sự xuất phát từ trái tim, từ chính sự trải nghiệm của nhà thơ.
Qua 7 câu thơ đầu bài Đồng chí sẽ thấy tác phẩm tuy viết về một hình tượng rất quen thuộc trong văn học – người lính, nhưng cái hay của Chính Hữu chính là ở cách khắc họa bức chân dung người lính. Người lính trong bài thơ Đồng chí không hiện lên với những vẻ đẹp hào nhoáng, hùng cường mà hiện lên một cách chân chất mộc mạc. Thế nhưng chính sự mộc mạc ấy lại giàu sức gợi hơn bất kỳ hình ảnh ước lệ nào.
Lời thơ giản dị kết hợp với những hình ảnh quen thuộc đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài thơ. Ngoài ra thể thơ tự do đã phát huy hết hiệu quả diễn đả khiến mạch cảm xúc tự do tuôn chảy như một dòng thác không bị bó buộc bởi câu chữ.
Tác phẩm đã thể hiện tình cảm đồng chí đồng đội sâu nặng thắm thiết của những người lính cách mạng đã chiến đấu quên mình cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ là những người nông dân cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu. Có thể thấy chính tình đồng đội đồng chí đã góp phần tạo nên sức mạnh cùng phẩm chất của những người lính cách mạng. Bởi thế mà trong bài thơ, hình ảnh người anh hùng bộ đội cụ Hồ hiện lên giản dị chân thực mà vô cùng cao đẹp.
Tuy chỉ với bảy câu đầu ngắn gọn nhưng đã gợi ra biết bao suy nghĩ cho người đọc về hình tượng người lính. Người lính ấy như từng trong cuộc sống bước vào trang thơ. Tuy đất nước đã hòa bình nhưng mỗi lần đọc lại những vần thơ viết về người lính ta không khỏi xúc động trước tình cảm nghĩa cử cao đẹp của những người lính quên mình vì đất nước.
Câu trả lời của bạn: 21:09 12/01/2022
Bài thơ Đồng chí được Chính Hữu sáng tác vào năm 1948, đây là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất nhiều thiếu thốn. Qua tác phẩm, Chính Hữu đã khắc họa lên hình tượng người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ xuất thân từ nông dân với tình cảm keo sơn gắn bó và ý chí vượt qua khó khăn.
Tình đồng đội, đồng chí của người lính cách mạng bắt nguồn từ đâu? Câu hỏi ấy được Chính Hữu lý giải trong những câu thơ đầu tiên:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ,
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”
Những người lính cách mạng trong bài thơ tham gia cuộc kháng chiến đều xuất thân từ nông thôn, chưa từng quen biết nhau từ trước. Đúng như Nguyên Hồng đã viết: “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ”, họ có người đến từ miền biển, có người đến từ đồi núi. Nhưng tất cả họ đều lớn lên từ những vùng cơ cực, lớn lên trong cảnh nghèo khó, lam lũ, vất vả. Sự tương đồng trong xuất thân ấy đã giúp họ gần nhau, quen nhau và gắn bó với nhau. Và hơn hết, chất keo kết dính tạo nên tình cảm keo sơn ấy chính là họ có cùng lý tưởng chiến đấu, cùng ý chí tình cảm “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”, cùng san sẻ khổ cực, khó khăn “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”. Để rồi khép lại đoạn thơ đầu là dòng thơ chỉ với một từ “Đồng chí”. Dòng thơ đặc biệt này làm thêm ý tình sâu sắc của đoạn thơ, giải thích được vì sao những người lính cách mạng đã gắn bó thân thiết máu thịt với nhau. Câu thơ như một nút nhấn nổi bật trong bản nhạc, là sự thăng hoa và kết tinh của mọi cảm xúc, mọi tình cảm.
Sau những điểm chung về xuất thân, lý tưởng, tình cảm, những biểu hiện của tình đồng chí lần lượt được khắc họa trước mắt người đọc với những tình cảm thiêng liêng cao đẹp, quyết định sự thắng bại của mọi cuộc chiến. Đó là sự cảm thông sâu sắc tâm tư, nỗi lòng chân thực đầy xúc động của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Tình đồng chí là cùng nhau chia sẻ thiếu thốn gian lao trên đường chiến đấu:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Đặc biệt hơn nữa là cùng vượt qua những cơn sốt rét rừng:
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi”.
Các câu thơ sóng đôi, đối ứng với nhau đã diễn tả sinh động sự gắn bó chia sẻ của mọi cảnh ngộ mà người lính gặp phải. Có vui, có buồn, có khổ cực, xót xa. Nhưng điều quan trọng nhất là họ đã cùng nhau vượt qua tất cả, cùng nhau san sẻ những khó khăn:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Câu thơ như hình tượng gợi tả sự cảm thông ấm áp, biểu hiện cho tình đồng chí thiêng liêng, lý giải cho sức mạnh tinh thần của người lính vượt mọi khó khăn, thiếu thốn trong thời kỳ máu lửa với đầy thử thách:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Những người lính đứng giữa trời trong tư thế hiên ngang, chủ động chiến đấu, không ngại tiết trời lạnh lẽo. Hoàn cảnh khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến trận cũng không triệt tiêu được tinh thần lạc quan của những người chiến sĩ với hình ảnh:
“Đầu súng trăng treo”.
Bức tranh đẹp của tình đồng chí, đồng đội trong một đêm phục kích “chờ giặc tới” tại cánh rừng hoang vắng lại được tô điểm thêm hình ảnh một vầng trăng treo trên đầu súng. Thú vị biết bao và cũng bất ngờ biết bao. Súng tượng trưng cho chiến tranh, cho chết chóc, trăng tượng trưng cho hòa bình, cho thơ mộng. Súng thì ở gần còn trăng thì treo tít trên cao. Súng là thực tại ác liệt của cuộc chiến đấu vệ quốc của dân tộc, trăng là niềm mơ mộng cuộc sống yên ả, thanh bình. Hai hình ảnh tưởng chừng đối lập ấy lại hòa quyện vào nhau hài hòa đến vậy. Một câu thơ chỉ bốn tiếng nhưng làm sáng lên ý nghĩa của cuộc chiến vệ quốc vĩ đại. Ta có thể bắt gặp hình ảnh “Súng ngửi trời” tương tự trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Đây chính là cảm hứng lãng mạn của giai đoạn này, trong gian khổ chiến tranh, người ta vẫn luôn hướng về ngày chiến thắng, trong những tháng ngày cơ cực vẫn nghĩ đến ngày ấm no hạnh phúc. Đó chính là đôi cánh nâng đỡ người lính vượt mọi gian nguy trên chặng đường gian khó.
Anh bộ đội trong bài thơ Đồng chí có xuất thân từ những người nông dân lao động, giàu tình cảm và ý chí đấu tranh chống giặc, bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh lí tưởng đã gắn bó những người nông dân ấy khoác lên màu xanh áo lính để trở thành đồng đội của nhau. Họ được rèn luyện, thử thách và trưởng thành trong quá trình chiến đấu vô cùng gian khổ. Tất cả tạo nên một tình cảm đẹp: Tình đồng chí.
Bằng nhiều hình ảnh sóng đôi cùng nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, Chính Hữu đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ vừa mộc mạc, vừa chân thực với sức khái quát cao mang dáng vóc của những tráng sĩ thuở trước. Bài thơ có thực, có mơ, tạo cho người đọc những suy tư sâu sắc, những xúc động sâu lắng về sự quả cảm của anh bộ đội cụ Hồ.
Câu trả lời của bạn: 21:08 12/01/2022
Ngày xưa có một bà lão hiền lành, nghèo khổ, sống một mình không có con cháu để nương tựa. Bà đã già da nhăn nheo, người gầy còm lưng đã còng, quần áo vá chằng vá đụp. Ngày ngày bà lặn lội ở ngoài đồng, mò cua bắt ốc để sinh nhai.
Một hôm, khi mò tay dưới bùn, bà bắt được một con ốc xinh xinh. Con ốc có vỏ màu xanh ánh bạc, sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Nhiều người thấy con ốc đẹp muốn mua nhưng bà lão tự nhiên thấy thương ốc nên không bán. Bà đem con ốc thả vào chum nước ở hiên nhà. Hôm sau, bà lại tiếp tục ra đồng để mò cua bắt ốc. Chiều tối, bà về nhà thì cảnh nhà thật lạ: sân nhà sạch bóng, cỏ đã được bàn tay ai nhổ sạch cả rồi, lợn trong chuồng đã ăn no, ngủ kĩ. Trong nhà, cơm nước được dọn sẵn tinh tươm. Thấy chuyện lạ, bà tìm xem ai đã giúp mình. Mờ sáng, bà cắp rổ ra đồng, nhưng đi được nửa đường bà lẻn về núp ở bụi cây sát nhà, im lặng rình xem. Sân nhà yên ắng chẳng động tĩnh gì nhưng đột nhiên có một người con gái bước ra từ chum nước, nàng có khuôn mặt trái xoan, làm da trắng hồng, môi mọng tươi như son. Mái tóc nàng đen nhánh quấn quanh đầu. Nàng mặc một cái áo xanh óng ánh như màu vỏ ốc. Nàng tiên áo xanh ấy đi lại, dọn dẹp nấu cơm, cho lợn ăn nhẹ nhàng và nhanh thoăn thoắt. Bà lão ngây người ra nhìn nàng. Ánh mặt trời chiếu lên áo nàng lấp lánh màu vỏ ốc làm bà sực tỉnh. Bà rón rén đến cái chum nước đập vỡ vỏ ốc xanh, không cho nàng tiên chui vào nữa. Bà lão cầm tay nàng tiên, tha thiết nói:
– Bà già chẳng có ai nương tựa. Con hãy làm con gái ta nhé!
Từ đó, hai mẹ con sống bên nhau yêu thương đùm bọc, không rời nhau nửa bước.
Câu trả lời của bạn: 21:07 12/01/2022
cho xin đề nhé bạn ^ ^
Câu trả lời của bạn: 20:01 12/01/2022
What an interesting story
Câu trả lời của bạn: 19:42 12/01/2022
It was a Friday morning and all members of the family got up quite early to get ready for the trip. We hired a car and drove for about two hours to arrive in Hai Phong province then got on a ferry to reach the destination. In spite of feeling a little bit tired, we got really excited when the beautiful coastline and sparkling blue ocean appeared in front of our eyes. We booked a family room in a 3-star hotel, which was pretty large and luxurious. The first activity we were so eager to experience was swimming. Unfortunately, the waves were too big for us to swim but it was fun to jump over them anyway. At night time, it was great to take off our shoes and wander along the coastline. The wind carried the distinctive smell of the sea, giving us a sense of peace and relaxation. Early on the next day, I woke up at 5 o’clock to follow my mom to the local market. We also hired bicycles to get around and explore the neighborhood, as well as find a souvenir shop to buy some gifts for our friends. On the last day in Cat Ba, my family took part in a small trip around Lan Ha bay by boat to immerse ourselves in the spectacular natural beauty here. The most interesting experience we had on the holiday was enjoying dinner on a boat. Eating fresh food on the sea when the sun came down really went beyond my expectations. After three days, we returned home but could not forget the great time we spent there. It was definitely one of the best memories of mine and my family members’.
Câu trả lời của bạn: 15:19 12/01/2022
Nếu em có tài khoản thư điện tử, em sẽ trao đổi về những tài liệu học tập với bạn, ảnh du lịch (nếu gửi bưu điện sẽ rất lâu, thêm nữa tài liệu học tập đôi khi nhiều và cồng kềnh khi gửi qua bưu điện).
Câu trả lời của bạn: 13:56 12/01/2022
Con người ta trên đất nước này bất kể làm công việc gì cũng mang vẻ đẹp và giá trị riêng biệt. Một trong những vẻ đẹp lao động của con người khiến em vô cùng ấn tượng đó là người lao động làng chài trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của tác giả Huy Cận. Huy Cận không chỉ khắc họa trước mắt bạn đọc một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp, giàu có của miền biển mà thêm vào đó là vẻ đẹp càn mẫn, chăm chỉ, lạc quan, yêu đời của những người ngư dân nơi đây. Bài thơ giúp ta hiểu hơn về cuộc sống lao động, sự cống hiến thầm lặng của họ qua ngòi bút tài tình cùng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc của Huy Cận. Nhiều năm tháng trôi qua nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.
Câu trả lời của bạn: 13:54 12/01/2022
Câu 1. Bạn nhỏ làm những việc gì đỡ mẹ? Trả lời: Bạn nhỏ làm nhiều việc đỡ mẹ: luộc khoai, giã gạo, thổi cơm, nhổ cỏ vườn và quét sân, quét cổng.
Câu trả lời của bạn: 13:52 12/01/2022
Thân phận người phụ nữ là đề tài muôn thuở được văn học vô cùng quan tâm. Từ nền tảng văn học dân gian với những bài ca dao than thân trách phận của người phụ nữ cho đến thơ ca trung đại những số phận, cảnh ngộ ấy vẫn để lại nỗi ám ảnh trong lòng người đọc. Nhắc đến những bài thơ viết về chủ đề ấy ta không thể không kể tới tác phẩm “bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương. Là nhà thơ phụ nữ viết về số phận của những người phụ nữ cho nên bài thơ của bà vừa có sự trải nghiệm, vừa có sự trân trọng, ngợi ca lại vừa cảm thông, thấu hiểu.
“Bánh trôi nước” là một trong rất nhiều những bài thơ viết về thân phận người phụ nữ của bà chúa thơ Nôm. Bài thơ mở đầu với mô típ quen thuộc trong ca dao than thân “thân em”, vừa bình dị vừa khiêm nhường mang đậm chất nữ tính. Giống như những tiếng than trong ca dao, bài thơ cất lên như một lời bộc bạch về thân phận người phụ nữ. Hình ảnh chiếc bánh trôi hiện lên vừa đẹp vừa chân thực trong hai câu thơ đầu tiên:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non”
Vẻ đẹp của chiếc bánh trôi nước cũng như quy trình làm bánh được tác giả tái hiện rất cụ thể, sinh động. Bánh trôi có màu trắng tinh khiết của bột nếp, được nhào nặn tròn trịa rất xinh xắn, khi cho vào nước nguội bánh chìm xuống, nhưng đến khi nước sôi lên, bánh chín sẽ nổi trên mặt nước. Bánh trôi vốn là loại bánh dân dã, bình dị thân thuộc với đời sống con người nhưng qua con mắt tinh tế, nhạy cảm của nữ sĩ họ Hồ bỗng được gắn với vẻ đẹp và cuộc đời của người phụ nữ. Cũng giống như chiếc bánh trôi kia, người phụ nữ cũng mang vẻ đẹp trắng trẻo, tròn đầy, trong trắng, phúc hậu. Điệp từ “vừa” được nhắc lại hai lần trong câu thơ có ý nghĩa nhấn mạnh vẻ đẹp thân thể và phẩm chất của người phụ nữ. Cách dùng từ khéo léo không chỉ phô ra vẻ đẹp mà còn cho thấy niềm tự hào, sự tự ý thức về vẻ đẹp của người phụ nữ. Trong văn học xưa nay, rất hiếm khi người phụ nữ dám bạo dạn, tự tin trực tiếp nói lên vẻ đẹp của mình như thế, đó chính là nét cá tính độc đáo trong thơ Hồ Xuân Hương. Với những vẻ đẹp ngoại hình và nhân phẩm ấy, đáng lí ra, người phụ nữ phải được nâng niu và hưởng hạnh phúc, thể nhưng xã hội phong kiến bất công đã không cho họ có được điều ấy. Tác giả đã vận dụng sáng tạo thành ngữ dân gian “bảy nổi ba chìm” gợi liên tưởng đến cuộc đời long đong, lận đận, bấp bênh của người phụ nữ. Họ phải sống cuộc đời chìm nổi bởi lẽ có bao giờ của người phụ nữ được làm chủ cuộc đời của mình.
Chính vì cuộc đời nhiều bất công, lắm éo le ngang trái cho nên Hồ Xuân Hương đã thẳng thắn thay lời người phụ nữ cất lên tiếng nói than thân cùng sự khẳng định tấm lòng son sắt của người phụ nữ.
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
Giống như chiếc bánh trôi kia không được làm chủ số phận của mình, rắn nát hay đẹp đẽ đều do bàn tay của người nặn, người phụ nữ cũng không tự quyết định được số phận của mình. Cặp từ đối lập “rắn – nát” được đảo cấu trúc đặt đặt lên đầu câu nhằm nhấn mạnh những sự éo le, phụ thuộc trong cuộc đời người phụ nữ. Những thiết chế phong kiến khắt khe với quan niệm trọng nam khinh nữ, đạo lí tam tòng tứ đức đã trói buộc cuộc đời người phụ nữ, tước đi cuộc sống tự do, hạnh phúc của họ. Những người phụ nữ ấy không được phép sống vì mình mà phải sống và phụ thuộc vào người khác, họ xem đó như một định mệnh, nhẫn nhịn, cam chịu mà chấp nhận lấy. Thế nhưng, điều đáng quý, đáng trân trọng nhất ở người phụ nữ đó là phẩm chất bên trong của họ. “Tấm lòng son” chính là hình ảnh hoán dụ cho tấm lòng thủy chung, son sắt, trong sáng của người phụ nữ. Dù bị chà đạp bất công nhưng người phụ nữ vẫn giữ được giữ được nét đẹp tâm hồn của mình, cũng giống như những chiếc bánh trôi kia, dù rắn hay nát, chìm hay nổi thì vẫn không thể thay đổi hương vị của chiếc bánh. Hai từ “mặc dầu – mà em” trong hai câu thơ cho thấy sự cố gắng vươn lên số phận để bảo toàn nhân cách của người phụ nữ. Vẻ đẹp nhân phẩm ấy thật đáng trân trọng, ngợi ca!