
trí 🏅🥇🥈🥉
Bạc đoàn
375
75
Câu trả lời của bạn: 19:50 29/02/2024
có nhiều chọn mẫu nào cũng được nha bạn !
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 2, phần tập làm văn chỉ mới triển khai viết đoạn. Vì vậy Bài văn tả mẹ ngắn gọn dưới đây có nội dung phù hợp với chương trình học và năng lực của các em học sinh lớp 2.
Mẹ của tôi là năm nay đã 35 tuổi, là công nhân nhà máy may.
Mẹ có chiều cao trung bình, mái tóc đen dài và đôi mắt sáng. Tính cách của mẹ rất dịu dàng và hiền hậu, luôn luôn tận tâm và chu đáo trong mọi việc. Hơn hết, mẹ tôi là một người phụ nữ rất đáng kính, bà đã vượt qua rất nhiều khó khăn và gian khổ để đạt được những thành tích đáng nể trong cuộc sống. Mẹ tôi đã làm việc chăm chỉ để cải thiện cuộc sống của gia đình, đưa tôi và các anh chị em đi học để có được một tương lai tốt đẹp hơn.
Tôi thật sự tự hào về mẹ của mình và sẽ luôn yêu mến, kính trọng mẹ.
2.2. Bài văn tả mẹ lớp 3 số 2
Chương trình Tiếng Việt lớp 3 chỉ mới triển khai tập làm văn viết đoạn, giúp các em mở rộng vốn từ và rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn. Do đó, Bài văn tả mẹ ngắn gọn, cảm động dưới đây có nội dung, độ dài phù hợp để các em tham khảo, nhằm viết cho mình bài văn tả mẹ đạt điểm cao.
Mẹ của tôi là một cô tiên xinh đẹp và hiền dịu.
Mẹ có ngoại hình khỏe khoắn, năng động nhờ chăm tập thể thao. Mái tóc mẹ đen dài, mắt nâu to, và làn da trắng mịn. Tuy nhiên, ngoại hình không phải là điều quan trọng nhất với mẹ của tôi. Điều tuyệt vời nhất về bà là tính cách tốt bụng, cởi mở, và luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Mẹ của tôi là một người rất tận tâm và luôn quan tâm đến mọi người xung quanh. Bà sẵn sàng đóng góp cho cộng đồng bằng cách tham gia các hoạt động từ thiện, tình nguyện giúp đỡ những người cần giúp đỡ.
Tôi rất tự hào về mẹ của mình và cảm thấy may mắn khi được sinh ra là con của mẹ.
2.3. Bài văn tả mẹ làm nghề giáo viên số 3
Người phụ nữ đẹp nhất đối với em có lẽ chính là mẹ, mẹ không chỉ là người đẹp nhất mà còn là người phụ nữ đảm đang nhất, tuyệt vời nhất trong suy nghĩ của em.
Mẹ em là một giáo viên tiểu học, năm nay mẹ đã bước sang tuổi 35, mẹ công tác trong chính ngôi trường mà em đang học, chính vì vậy sáng nào em cũng được mẹ chở đi làm và đi học. Mẹ em có mái tóc dài, đen nhánh và thẳng suôn mượt, mẹ không thích nhuộm tóc hay làm xoăn như các cô giáo khác. Dù là đi dạy hay ở nhà mẹ vẫn rất giản dị, không tô son, đánh phấn, nhưng như thế mẹ vẫn rất xinh đẹp. Mẹ em là một giáo viên dạy giỏi ở trường, em rất tự hào khi có một người mẹ như mẹ của em.
Em sẽ cố gắng học tập thật tốt để không phụ lòng yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ của mẹ.
2.4. Bài văn tả người mẹ của em hay nhất số 4
Mẹ em là người phụ nữ giỏi giang, mạnh mẽ và cũng là người em ngưỡng mộ nhất trên đời này.
Năm nay mẹ đã mươi bảy tuổi rồi. Công việc của mẹ là một luật sư của đoàn luật sư Hà Nội. Mẹ có dáng người cao mảnh mai, đôi mắt tròn đen, mái tóc ngắn gọn. Mẹ hiền lành, dịu dàng nhưng rất nghiêm khắc. Sáng nào mẹ cũng dậy sớm, chuẩn bị đưa em đi học. Mẹ làm việc rất nhiều nhưng luôn tận tụy, tỉ mỉ và chỉn chu với mọi việc, nên ai cũng quý mến mẹ. Khi thành phố lên đèn, mẹ mới về nhà, mặc dù rất mệt, nhưng mẹ vẫn nấu ăn, dọn nhà và hướng dẫn em ôn bài.
Em rất thương mẹ, nên em luôn cố gắng chăm học và ngoan ngoãn để mẹ luôn vui. Em mong ước mai sau cũng sẽ trở thành một luật sư tài ba, thành công để giúp đỡ được nhiều người như mẹ.
2.5. Bài văn tả mẹ lớp 5 ngắn gọn đạt điểm 10 số 5
Mỗi người chúng ta sinh ra đều có một người mẹ. Đó là người mang nặng đẻ đau, chăm lo và nuôi dưỡng chúng ta trưởng thành. Mẹ của em cũng như bao người mẹ khác, đều rất yêu thương con cái. Em rất yêu mẹ của em.
Mẹ năm nay đã gần 45 tuổi, mái đầu mẹ đã bắt đầu có những sợi tóc màu bạc. Mỗi lần ngồi cạnh mẹ, mẹ lại bảo nhổ cho mẹ những sợi tóc đó. Người ta bảo với em rằng đó là dấu hiệu của tuổi già. Mà em thì không muốn mẹ già đi chút nào.
Gương mặt mẹ tròn, làn da bị sạm vì rám nắng. Suốt ngày mẹ em làm việc đồng áng từ sáng đến tối nên mẹ không trắng như nhiều người khác. Nhưng em vẫn thích sờ vào má mẹ khi nằm ngủ. Vì em nhận ra sự nhọc nhằn, vất vả của mẹ. Đôi mắt của mẹ em hiền lắm, mẹ cười mà mắt cũng biết cười.
Mẹ chăm sóc cho hai chị em rất cẩn thận, mỗi sáng mẹ đều chuẩn bị cơm canh rất ngon cho em và ba ăn. Mẹ bảo bữa sáng quan trọng nhất nên không được bỏ bữa. Khi chúng em đến trường, mẹ còn không quên chuẩn bị khẩu trang cũng như nước uống bỏ vào túi. Mẹ luôn là người phụ nữ chu đáo như vậy.
Câu trả lời của bạn: 19:46 29/02/2024
a) (254254: 254 - 566566: 566) + 92862
= ( 1001- 1001) + 92862
= 0+ 92862
= 92862
b) (247405:245+195)×(45600:456−100)(247405:245+195)×(45600:456-100)
=(247405:245+195)×(100−100)=(247405:245+195)×(100-100)
=(247405:245+195)×0=(247405:245+195)×0
=0
Câu trả lời của bạn: 15:22 29/02/2024
lật ra bài 14 là có hết
Câu trả lời của bạn: 15:22 29/02/2024
Lời Bác như ngọn đuốc soi đường
Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngắn gọn, lời thư mộc mạc, gần gũi, dễ hiểu, song chứa đựng vô vàn tình yêu thương, tình đoàn kết dân tộc, là ngọn đuốc soi đường làm nên sức mạnh lòng dân trong suốt bảy mươi lăm năm qua.
Quảng trường Đại đoàn kết mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh tại tỉnh Gia Lai.
Ngay sau Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đại biểu nhanh chóng trở về các buôn, làng vận động quần chúng, bày tỏ niềm tin tuyệt đối, thủy chung, son sắt của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ; quyết tâm thực hiện đoàn kết các dân tộc, đoàn kết giữa người Kinh và người Thượng, sát cánh cùng nhau chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên phát huy truyền thống đoàn kết, kiên cường, bất khuất, kề vai, sát cánh, anh dũng cầm súng chiến đấu chống giặc, đem hết sức mình xây dựng, bảo vệ căn cứ cách mạng, lập nên những chiến công vang dội.
Trải qua hơn ba mươi năm chiến đấu lâu dài, gian khổ và anh dũng, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên cống hiến cho đất nước những người con ưu tú, xả thân vì Tổ quốc và vun đắp cho mối tình đoàn kết, keo sơn giữa các dân tộc. Tiêu biểu như các anh hùng: Đinh Núp, dân tộc Ba Na; Kpă Klơng, Kpă Ó, dân tộc JRai; Y Buông, A Tranh, dân tộc Xơ Đăng; A Mét, dân tộc Giẻ Triêng; N’Trang Lơng, dân tộc M’Nông hoặc các vị cách mạng tiêu biểu như: Y Ngông Niê Kđăm; Y Bih Alêô, dân tộc Ê Đê; Nay Đer, dân tộc JRai; Bi Năng Tắc, dân tộc Raglai; Điểu Ong, dân tộc Xtiêng… Cùng với đó, hàng vạn đồng bào, chiến sỹ trên mọi miền đất nước đã ngã xuống trên mảnh đất Tây Nguyên để đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Trong điện gửi đồng bào, chiến sĩ Tây Nguyên, ngày 30/11/1968, Bác khen ngợi: “Quân và dân Tây Nguyên, già, trẻ, gái, trai, Kinh, Thượng đoàn kết một lòng, luôn luôn nêu cao truyền thống anh hùng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thi đua giết giặc, lập công, giữ gìn buôn rẫy, thu được những thành tích to lớn, cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Người căn dặn: “Ðồng bào và chiến sĩ Tây Nguyên đã đoàn kết càng phải đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, cố gắng không ngừng, phát huy mạnh mẽ thắng lợi đã giành được, luôn luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch, ra sức củng cố và phát triển vùng giải phóng và phục vụ tiền tuyến” (2).
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, trong mọi giai đoạn của cách mạng, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên luôn phấn đấu kiên cường, bền bỉ, kề vai sát cánh, đấu tranh cho độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc; cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất, làm nên những kỳ tích anh hùng, làm cho Tây Nguyên có cuộc sống ngày càng tươi đẹp. Điều đó được khẳng định trong phát biểu của Tổng Bí thư Lê Duẩn tại cuộc mít tinh lớn ở Tây Nguyên, ngày 11/4/1978: “Khi còn sống, Bác Hồ vô cùng nhớ Tây Nguyên. Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và nhân dân cả nước đánh giá cao sự hy sinh vô bờ bến và lòng dũng cảm tuyệt vời của đồng bào Tây Nguyên. Tổ quốc ta, nhân dân ta và các thế hệ mai sau đời đời nhớ ơn các liệt sỹ từ mọi miền đất nước đã ngã xuống trên chiến trường Tây Nguyên, mãi mãi ghi nhớ công lao của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã cùng cả nước viết nên những trang sử chói ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam” (3).
Đi lên cùng cả nước
Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất, Đảng và Nhà nước đã có sự đầu tư lớn cả về sức người, sức của; sự chia sẻ, hỗ trợ kịp thời của đồng bào cả nước, tập trung khai thác vùng đất giàu truyền thống cách mạng; giàu tiềm năng, thế mạnh, đầu tư xây dựng để Tây Nguyên phát triển, vững bước đi lên cùng cả nước.
Thành phố Pleiku đang chuyển mình, trở thành đô thị loại I.
Mặc dù các thế lực thù địch liên tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, gây ra 2 cuộc biểu tình, bạo loạn (tháng 2/2001 và tháng 4/2004), hòng làm cho Tây Nguyên khó khăn, bất ổn nhưng được sự lãnh đạo kịp thời của Đảng, Nhà nước, nhất là từ khi có Nghị quyết 10/NQ-TW, ngày 18/01/2002 của Bộ Chính trị, "Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên”, tình hình kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên tiếp tục phát triển. Cuộc sống của đồng bào chuyển biến tích cực, không còn tình trạng thiếu đói như trước, từng bước hạn chế du canh, du cư, ốm đau bệnh tật không có thuốc chữa. Hàng nghìn buôn, làng đã “thay da đổi thịt”; đời sống tinh thần, bản sắc văn hóa ngày càng phong phú, diện mạo nông thôn ngày càng khởi sắc.
Thực hiện công cuộc đổi mới, trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng Tây Nguyên đều tăng cao hơn so với bình quân chung của cả nước. Trong giai đoạn 2016 - 2020, tăng trưởng bình quân của vùng Tây Nguyên đạt 6,55%; GRDP bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 55,6 triệu đồng/người, gấp 1,4 lần so với năm 2016. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỉ trọng công nghiệp - xây dựng - dịch vụ. Tỉ trọng các ngành nông nghiệp; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ; thuế trợ cấp sản phẩm năm 2020 tương ứng là: 33,51%, 21%, 40,83% và 14,66% ”(4).
Nhà nước huy động mọi nguồn lực nhằm phát triển mạng lưới giao thông trong khu vực. Hiện nay, đường bộ toàn vùng có độ dài gần 40.000 km đã kết nối các tỉnh Tây Nguyên, mở rộng cơ hội giao thương với các trung tâm lớn cả nước và các nước trong khu vực. Trong đó, các quốc lộ qua Tây Nguyên có tổng chiều dài 2.517 km; đường liên tỉnh gần 2.035 km và hệ thống giao thông liên cửa khẩu đã nối liền Tây Nguyên với các nước như Campuchia và Lào, qua các cửa khẩu quốc tế: Đắk Ruê (Đắk Lắk), Lệ Thanh (Gia Lai), Bờ Y (Kon Tum). Hàng không phát triển nhanh với ba sân bay: Liên Khương, Buôn Ma Thuột và Pleiku. Đường Hồ Chí Minh cùng đường hành lang kinh tế Đông - Tây đi qua các tỉnh vùng Tây Nguyên để vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới được kết nối thuận tiện, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân.
Hệ thống chính trị các cấp ở Tây Nguyên tập trung giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách mang tính đột phá, nhất là giải quyết về đất đai, nhà ở, việc làm, nước sinh hoạt, xóa đói nghèo cho bà con đồng bào các dân tộc thiểu số. Đây là những chủ trương, giải pháp đột phá, có ý nghĩa kinh tế - xã hội sâu sắc. Các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao không ngừng phát triển, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc được duy trì và phát huy.
Tròn bảy mươi lăm năm qua, thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã cùng nhau chung sức, chung lòng, bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới và bảo vệ thành quả cách mạng trên quê hương của mình. Trong thời đại mới, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu ở Tây Nguyên là không ngừng chăm lo xây dựng, củng cố khối đoàn kết dân tộc, làm cho khối đoàn kết này trở thành sức mạnh không thể lay chuyển, tạo cơ sở nền tảng để ổn định và phát triển Tây Nguyên bền vững./.
Câu trả lời của bạn: 15:20 29/02/2024
khó quá chị google bó tay luôn rùi
Câu trả lời của bạn: 15:18 29/02/2024
bạn nhập đề bị thiếu rồi nha
Câu trả lời của bạn: 15:16 29/02/2024
Sốt rét là gì?
Sốt rét là bệnh do ký sinh trùng Plasmodium gây ra với các triệu chứng đau đầu, sốt, lạnh run và dễ tử vong. Người mắc bệnh sau khi bị muỗi Anophen đốt từ 10 -15 ngày. Bệnh có thể lây truyền qua đường truyền máu, mẹ sang con, dùng chung bơm kim tiêm dính máu có ký sinh trùng sốt rét hoặc bị muỗi đốt. (1)
Triệu chứng sốt rét
Người mắc bệnh sốt rét có thể chỉ xuất hiệu các triệu chứng sốt rét thông thường nhưng cũng có khi lại là dấu hiệu sốt rét ác tính. Các dấu hiệu sốt rét còn phụ thuộc vào loài ký sinh trùng truyền bệnh.
Dấu hiệu sốt rét thông thường
Người bệnh sốt rét có những dấu hiệu thường gặp như sốt, ớn lạnh, đau đầu, đau bụng, mệt mỏi, thở nhanh, nhịp tim nhanh, ho, mệt mỏi, đau cơ khớp, tiêu chảy. Những triệu chứng ban đầu này thường không đe dọa tính mạng người bệnh. Tùy vào cơ địa mỗi người mà bệnh sẽ có những biểu hiện khác nhau. Nếu như sốt điển hình thì người bệnh sẽ trải qua 3 giai đoạn: Rét run – sốt – vã mồ hôi. Còn sốt không điển hình thì người bệnh có những biểu hiện chung như: Sốt không thành cơn hoặc sốt liên tục, ớn lạnh, rét, nổi da gà. Một số trường hợp, người bệnh bị phình to lách, gan to, người xanh xao, suy nhược, thiếu máu.
Dấu hiệu sốt rét ác tính
Sốt rét ác tính là dạng sốt rét nguy kịch, chủ yếu do ký sinh trùng P. falciparum gây ra. Bệnh gây tắc nghẽn các mao mạch nhỏ, dẫn đến rối loạn tuần hoàn, giảm tưới máu đến các cơ quan và gây tổn thương não. Người bệnh có biến chứng nguy hiểm đe dọa tính mạng, với dấu hiệu sốt rét như sốt cao liên tục, rối loạn ý thức (mơ sảng, nói lẩm bẩm, ngủ li bì), rối loạn tiêu hóa (ói mửa, buồn nôn, tiêu chảy, đau bụng), đau đầu dữ dội, nhìn lờ đờ, da tái xanh,… Ngoài ra, người bệnh thiếu máu nặng, suy thận, phù phổi cấp, hạ đường huyết, sốc, xuất huyết, co giật toàn thân, vàng da, sốt cao,… Sốt rét ác tính nếu không được điều trị kịp thời thì tỷ lệ tử vong rất cao.
Nguyên nhân gây bệnh sốt rét
Có 5 loài ký sinh trùng gây bệnh sốt rét thuộc họ Plasmodium) ở người gồm: P.vivax, P.falciparum (đây là 2 loài nguy hiểm), P.malariae, P.ovale (2 loài ít nguy hiểm hơn) và P. knowlesi (chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á, chủ yếu trên khỉ nhưng cũng có thể gây bệnh sốt rét nặng cho người). Riêng Việt Nam có 3 loại: P. falciparum, P.vivax và P.malariae. Những ký sinh trùng này truyền bệnh thông qua vật chủ trung gian là muỗi Anophen (Anopheles). (2)
Thế giới có khoảng 422 loài muỗi Anophen nhưng thực tế chỉ tầm 70 loài muỗi mới có thể truyền ký sinh trùng gây bệnh sốt rét, trong đó 40 loài muỗi là vật chủ trung gian truyền bệnh. Ở Việt Nam có 15 loài muỗi Anophen gây bệnh, trong đó có 3 loài truyền bệnh thường xuyên gồm: An.dirus, An.minimus, An.epiroticus và 12 loài truyền bệnh phụ: An.aconitus, An.jeyporensis, An.maculatus, An.sinensis, An.campestri, An.subpictus, An.vagus, An.indefinitus.
Muỗi An.dirus phát triển mạnh vào mùa mưa, phân bố chủ yếu ở vùng rừng núi từ 20 vĩ độ Bắc trở vào Nam. Muỗi An.epiroticus sinh sống ở ven biển nước lợ Nam Bộ. Muỗi An.minimus phân bố ở vùng rừng núi đồi dưới 1.000 mét, phát triển mạnh vào đầu và cuối mùa mưa.
Khi muỗi chích và hút máu người bệnh sốt rét thì hút theo giao bào đực và cái của ký sinh trùng sốt rét. Thời gian từ cơn sốt đầu tiên đến khi xuất hiện giao bào trong máu từ 2-3 ngày với P.vivax, P.malariae, P.ovale, từ 7-10 ngày với P.falciparum.
Trong cơ thể muỗi, giao bào đực và cái kết hợp tạo thành noãn rồi chui qua thành dạ dày và tạo thành kén, phát triển tạo thành hàng nghìn ký sinh trùng non. Ký sinh trùng non di chuyển lên hướng tuyến nước bọt của muỗi và tập trung tại đây để có cơ hội xâm nhập vào người khác. Ký sinh trùng khi vào máu sẽ tiến đến gan, phát triển trong tế bào gan qua các giai đoạn từ thể tư dưỡng đến thể phân liệt và làm vỡ tế bào gan giải phóng ký sinh trùng non vào máu. Tại mạch máu, ký sinh trùng non thâm nhập hồng cầu non, phá vỡ hồng cầu để giải phóng ký sinh trùng non gây sốt rét. Ký sinh trùng non lại có 2 thể: thể vô tính quay trở lại xâm nhập hồng cầu để phát triển, thể hữu tính gồm giao bào đực và giao bào cái. Giao bào không xâm nhập vào hồng cầu mà chờ muỗi hút máu người bệnh để quay lại vòng đời mới.
Ở một số tình huống, ký sinh trùng P.vivax và P.ovale có thể “tạm trú dài hạn” ở gan, đây chính là nguyên nhân dấu hiệu sốt tái phát sau nhiều tháng, thậm chí kéo dài đến tận 2 – 3 năm. Người bệnh sốt rét vẫn là nguồn lây bệnh khi giao bào còn trong máu. Một số nghiên cứu ghi nhận, với những người bệnh sốt rét không được điều trị hoặc điều trị không triệt để giao bào có trong máu thì khi muỗi đốt vẫn có thể là nguồn lây cho người khác, cụ thể là trên 3 năm đối với sự tồn tại của P.malariae, 2 năm với P.vivax và 1 năm đối với P.falciparum.
Muỗi là tác nhân chính lây truyền bệnh sốt rét
4 phương thức lây truyền bệnh sốt rét
Ký sinh trùng gây bệnh sốt rét không thể tồn tại ở môi trường bên ngoài, chỉ có trong máu người nhiễm bệnh và ở muỗi Anophen truyền bệnh. Nguồn máu từ người nhiễm bệnh có thể lây truyền bệnh sốt rét kéo dài ít nhất 1 tháng. Bệnh sốt rét lây truyền qua đường máu với 4 phương thức lây truyền:
Muỗi truyền: Đây là phương thức chủ yếu để bệnh sốt rét lây lan.
Truyền máu: Ở một số trường hợp hy hữu, người hiến máu (dạng người lành mang mầm bệnh) có nhiễm ký sinh trùng sốt rét nhưng không hay biết và hiến máu cho người khác.
Mẹ truyền sang con: Thai phụ mắc sốt rét sẽ truyền sang con qua nhau thai và đối diện nguy cơ sảy thai, sinh non. Nguyên nhân do người mẹ bị thiếu máu, bệnh diễn biến nặng, hạ đường huyết, phù phổi cấp. May mắn, tỷ lệ thai phụ bị sốt rét rất hiếm gặp.
Tiêm chích: Bơm tiêm dính máu có ký sinh trùng sốt rét, do tiêm chích ma tuý chung với người mang mầm bệnh.
Phân loại bệnh sốt rét
Sốt rét thông thường
Sốt rét thông thường là những triệu chứng ban đầu của bệnh sốt rét, chưa có biến chứng nên thường không nguy hiểm đến tính mạng người bệnh. Tùy vào loại ký sinh trùng gây bệnh nên chu kỳ của cơn sốt ở sốt rét thông thường sẽ khác nhau. Ví dụ, sốt rét do P.falciparum gây ra thì người bệnh sẽ sốt hàng ngày, cơn sốt thường nặng và dễ dẫn đến sốt rét ác tính và tử vong nếu không điều trị kịp thời. Nếu sốt rét do ký sinh trùng P.vivax truyền nhiễm thì thường sốt cách ngày, cách một ngày sốt một cơn. Sốt do ký sinh trùng P.malariae và P.ovale thì cơn sốt có thể cách ngày nhưng có khi 3 ngày mới sốt 1 lần. Nhìn chung, sốt rét thông thường gồm có 3 dạng là sốt sơ nhiễm, sốt điển hình và sốt thể cụt. (3)
Cơn sốt sơ nhiễm: Cơn sốt đầu tiên thường không điển hình, người bệnh sẽ thấy sốt cao liên miên tới mấy ngày liền. Những lần sốt tiếp theo thì triệu chứng của sốt rét sẽ điển hình hơn.
Cơn sốt điển hình: Người bệnh lần lượt trải qua 3 giai đoạn rét run – sốt – vã mồ hôi.Giai đoạn rét run: Giai đoạn này kéo dài 30 phút – 2 giờ, người bệnh rét run toàn thân, môi tái, mắt quầng, nổi da gà.
Giai đoạn sốt nóng: Kéo dài từ 1 – 3 giờ. Khi cơn rét run bắt đầu giảm thì người bệnh cảm thấy nóng dần, nhiệt độ cơ thể có thể lên tới 40 độ C – 41 độ C. Mặt người bệnh đỏ, da khô và nóng, mạch nhanh, thở gấp, khát nước kèm đau đầu, có thể hơi đau tức vùng gan lách.
Giai đoạn vã mồ hôi: Thân nhiệt giảm nhanh, người bệnh bắt đầu vã mồ hôi, tiếp tục khát nước. Người bệnh đỡ nhức đầu, mạch trở lại bình thường và cảm thấy dễ chịu, ngủ thiếp đi.
Cơn sốt thể cụt: Kéo dài khoảng 1-2 giờ, người bệnh sốt không thành cơn, chỉ thấy ớn rét.
Ngoài ra, có một số dạng sốt rét khác như người lành mang trùng (thể ký sinh trùng lạnh), kết quả: xét nghiệm máu có ký sinh trùng sốt rét nhưng người bệnh không bị sốt, vẫn sinh hoạt và lao động bình thường.
Sốt rét ác tính
Sốt rét ác tính là dạng sốt rét nặng có biến chứng. Người bệnh có các dấu hiệu nổi bật về rối loạn thần kinh như rối loạn hành vi, rối loạn ý thức, hôn mê nhanh, đôi khi đột ngột, đôi khi co giật, liệt, mất vỏ, mất não. Sốt rét ác tính có nhiều thể khác nhau.
Thể não: Chiếm 80% – 95% ca sốt rét biến chứng. Người bệnh có dấu hiệu tiền ác tính, đặc trưng nhất là rối loạn ý thức như li bì hoặc vật vã, nói lảm nhảm. Người bệnh còn sốt cao liên tục, đau đầu dữ dội, mất ngủ, nôn hoặc tiêu chảy. Ở thể não còn có dấu hiệu của hội chứng tâm thần như hôn mê đột ngột hoặc một cách từ từ, hôn mê sâu dần, đồng tử giãn, co giật kiểu động kinh, rối loạn cơ vòng. Ngoài ra, người bệnh còn xuất hiện các dấu hiệu khác như rối loạn hô hấp hoặc suy hô hấp do phù não, ứ đọng đờm dãi, não bị mất nước hoặc phù lên dẫn đến giảm hoặc tăng huyết áp, nôn, tiêu chảy. Ở một số trường hợp còn xảy ra suy thận, tiểu ít, hoặc không có nước tiểu, hàm lượng urê trong máu tăng cao, tiểu ra máu. Số lượng bệnh nhân tử vong do sốt rét ác tính thể não chiếm từ 20% – 50%.
Thể đái huyết cầu tố: Bệnh diễn tiến nặng do tan huyết ồ ạt, người bệnh sốt thành cơn dữ dội, có cảm giác nôn mửa hoặc nôn dịch màu vàng, vàng da, trụy tim mạch, suy thận, đau lưng. Người bệnh đi tiểu ra huyết cầu tố, nước tiểu lúc đầu có màu đỏ nâu sau đó chuyển sang màu cà phê, những lần đi tiểu sau đó, lượng nước tiểu giảm dần và thậm chí không có nước tiểu. Người bệnh bị thiếu máu, thiếu oxy cấp, lượng hồng cầu và huyết sắc tố trong máu giảm mạnh.
Thể giá lạnh: Người bệnh tụt huyết áp, ra nhiều mồ hôi, toàn thân trở nên lạnh, da tái xanh, đau đầu.
Thể phổi: Đáy phổi có nhiều ran ẩm, ran ngáy nên người bệnh khó thở, thở nhanh, tím tái, một số trường hợp còn khạc ra bọt màu hồng.
Thể gan mật: Người bệnh vàng mắt vàng da, phân và nước tiểu cũng có màu vàng, buồn nôn và nôn, hôn mê.
Thể tiêu hóa: Người bệnh đau bụng, nôn, tiêu chảy cấp, hạ thân nhiệt.
Biến chứng nguy hiểm của bệnh sốt rét
Trong số các loài ký sinh trùng gây bệnh sốt rét thì đáng sợ nhất là plasmodium, dễ khiến người bệnh rơi vào sốt rét ác tính. Một số loại ký sinh trùng sốt rét khác gây ra các dạng bệnh nhẹ hơn, nhưng vẫn có thể tồn tại trong nhiều năm và gây tái phát. Tổ chức Y tế thế giới ước tính có khoảng 94% tổng số ca tử vong do sốt rét xảy ra ở châu Phi, chủ yếu ở trẻ em dưới 5 tuổi. Có nhiều biến chứng nguy hiểm của bệnh sốt rét gây ra nghiêm trọng như: (4)
Sốt rét thể não: Các mạch máu nhỏ không thể lưu thông đến não do các tế bào máu chứa đầy ký sinh trùng bị bít lại, dẫn đến phù não, tổn thương não. Người bệnh có dấu hiệu co giật và hôn mê. Riêng trẻ em dễ mất máu và tổn thương não, đối diện nguy cơ suy giảm thần kinh và nhận thức, rối loạn hành vi, động kinh.
Phù phổi: Cơ thể người bệnh tích tụ các dịch tiết gây phù phổi, khó thở, dễ dẫn đến tử vong.
Suy nội tạng: Suy thận, suy gan hoặc vỡ lá lách khiến cơ thể rơi vào nguy kịch.
Thiếu máu: Cơ thể không có đủ tế bào hồng cầu làm nhiệm vụ đưa oxy đi nuôi các mô trong cơ thể.
Hạ đường huyết: Người bệnh đối diện hôn mê, thậm chí tử vong bởi tình trạng hạ đường huyết xảy ra. Người bệnh bị hạ đường huyết không chỉ do bệnh gây ra mà còn do tác dụng phụ của thuốc quinine điều trị sốt rét.
Bệnh sốt rét nặng có thể tiến triển rất nhanh chóng và sớm tử vong trong vài giờ đến vài ngày. Với hầu hết các ca bệnh nặng, tỷ lệ tử vong có thể lên đến 20% do đó cần chăm sóc và điều trị đặc biệt. Dù bệnh nguy hiểm nhưng nếu điều trị đúng cách, người bệnh sẽ hồi phục tốt.
Ai có nguy cơ bị bệnh sốt rét?
Bệnh sốt rét xảy ra chủ yếu ở vùng rừng núi, nơi người dân canh tác làm nương rẫy, trồng cao su, đi du lịch đến vùng lưu hành bệnh sốt rét,… Người bệnh được xác định nhiễm ký sinh trùng gây bệnh sốt rét khi có kết quả xét nghiệm máu dương tính.
Những đối tượng có nguy cơ mắc bệnh sốt rét gồm: Trẻ nhỏ, trẻ sơ sinh, người cao tuổi, thai phụ. Đáng lưu ý, một số trường hợp sốt rét bẩm sinh dù hiếm gặp nhưng bệnh xuất hiện sớm ngay sau khi trẻ chào đời. Lúc này, trẻ quấy khóc, sốt, vàng da, gan lách to. Với trẻ trên 6 tháng tuổi nếu bị sốt rét sẽ sốt cao liên tục, nôn, tiêu chảy, bụng chướng, gan lách to, có dấu hiệu viêm màng não, co giật, tỷ lệ tử vong cao.
Trẻ nhỏ có nguy cơ cao bị sốt rét
Chẩn đoán bệnh sốt rét
Ở một số trường hợp, người bệnh sốt rét có biểu hiện giống với một số bệnh như thương hàn, sốt mò, sốt xuất huyết Dengue độ I, cảm cúm,… Thậm chí, với những ca sốt rét tái phát còn có dấu hiệu giống như bệnh nhiễm trùng máu, viêm đường tiết niệu, viêm đường mật, áp xe gan. Do đó, để chẩn đoán chính xác nhất là xét nghiệm máu để phân biệt sốt rét với các bệnh khác.
Các phương pháp xét nghiệm:
Nhuộm Giemsa: Được coi là chuẩn vàng để xác định ký sinh trùng sốt rét. Lam máu nhuộm giemsa được soi dưới kính hiển vi quang học.
Nhuộm nhanh AO: Mẫu máu của người bệnh được soi dưới kính hiển vi huỳnh quang.
Phương pháp QBC soi kính hiển vi huỳnh quang.
Test nhanh dựa trên phương pháp miễn dịch sắc ký phát hiện kháng nguyên ký sinh trùng sốt rét hiện diện trong máu.
Sinh học phân tử PCR: Độ nhạy và độ đặc hiệu cao, có thể phát hiện ký sinh trùng/mm3 máu, thậm chí giúp chẩn đoán được sốt rét tái phát hay sốt rét tái nhiễm.
Phát hiện kháng thể sốt rét: Phương pháp huỳnh quang gián tiếp và phương pháp liên kết lên men hấp thụ miễn dịch đều phát hiện kháng thể trong huyết thanh bệnh nhân sốt rét.
Điều bị bệnh sốt rét
Việc phát hiện sớm bệnh sốt rét không chỉ giúp người bệnh được điều trị kịp thời, hạn chế số ca tử vong mà còn giúp cộng đồng kiểm soát sớm nguồn bệnh. Riêng việc điều trị, người bệnh được diệt giao bào nhằm cắt cơn sốt rét kết hợp với chống lây lan; đồng thời diệt ký sinh trùng P.vivax, P.ovale dạng thể ngủ trong gan.
Với người bệnh sốt rét thể thông thường
Điều trị cắt cơn sốt rét:
Nhiễm ký sinh trùng P.vivax: Người bệnh được dùng thuốc chloroquin tổng liều 25 mg/kg cân nặng cơ thể. Người bệnh được uống trong 3 ngày điều trị. Hai ngày đầu, người bệnh uống 10 mg/kg cân nặng/ngày, ngày thứ 3 uống 5 mg/kg cân nặng. Hoặc điều trị bằng thuốc artesunat tổng liều 16 mg/kg cân nặng và chia làm 7 ngày. Ngày đầu tiên, người bệnh uống 4 mg/kg cân nặng, từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 7, người bệnh uống mỗi ngày 2 mg/kg cân nặng. Thuốc artesunat không dùng cho thai phụ trong 3 tháng đầu, trừ khi bị sốt rét ác tính. Hoặc người bệnh có thể điều trị bằng thuốc quinin sulfat liều 30 mg/kg/24 giờ chia 3 lần uống trong ngày, thời gian điều trị kéo dài 7 ngày.
Nhiễm ký sinh trùng P.falciparum: Người bệnh được sử dụng thuốc có dẫn xuất chất artemisinin, dạng thuốc viên 40 mg dihydroartemisinin + 320 mg piperaquine phosphate. Với trẻ dưới 3 tuổi, ngày đầu 1 viên, hai ngày kế tiếp thì mỗi ngày nửa viên. Từ 3 – dưới 8 tuổi, ngày đầu 2 viên, hai ngày sau mỗi ngày 1 viên. Trẻ 8 đến dưới 15 tuổi, uống ngày đầu 3 viên, hai ngày sau mỗi ngày 1,5 viên. Từ 15 tuổi trở lên, uống ngày đầu 4 viên, hai ngày sau uống 2 viên/ngày. Không dùng cho thai phụ trong 3 tháng đầu.
Điều trị chống tái phát và chống lây lan
Người bệnh được dùng thuốc viên primaquine với hàm lượng 13,2mg chứa 7,5mg bazơ, liều 0,5mg bazơ/kg cân nặng/24 giờ.
Với ký sinh trùng P.falciparum thì chỉ cần điều trị 1 ngày, với P.vivax phải điều trị 10 ngày liền. Không dùng thuốc này cho trẻ dưới 3 tuổi, thai phụ, người có bệnh gan và thiếu men G6PD.
Ở các vùng có ký sinh trùng P.falciparum chiếm đa số thì người bệnh được khuyến cáo được điều trị cắt cơn sốt bằng thuốc phối hợp có dẫn xuất artemisinin: Arterakine, CV artecan, coartem,…
Điều trị bệnh nhân sốt rét có biến chứng
Khi đến bệnh viện, người bệnh được dùng thuốc artesunat đường tĩnh mạch, với liều lượng trong giờ đầu 2,4 mg/kg cân nặng, 24 giờ sau đó sẽ được tiêm nhắc lại 1,2 mg/kg cân nặng. Cuối cùng, mỗi ngày người bệnh tiếp tục được tiêm 1 liều 1,2 mg/kg cân nặng cho đến khi có thể uống được thì chuyển sang thuốc dạng uống thêm 7 ngày.
Cách phòng bệnh sốt rét
Để phòng bệnh sốt rét, người dân cần ngủ mùng dù ở trong nhà, nương rẫy, hay đi du lịch trong rừng. Những khu vực có muỗi Anophen lưu hành cần diệt muỗi bằng phun thuốc định kỳ, tẩm màn hóa chất để diệt muỗi, xoa kem và hương xua muỗi, phát quang bụi rậm, khơi thông cống rãnh quanh nhà, khơi thông dòng chảy, vớt rong rêu làm thoáng mặt hồ nước, làm nhà xa rừng và xa nguồn nước, mặc quần áo dài buổi tối,…
Ngoài ra, những khu vực bệnh sốt rét lưu hành thường xuyên thì người dân còn được uống thuốc dự phòng ngắn ngày, xác định sớm ca bệnh để khoanh vùng dịch.
Câu trả lời của bạn: 15:15 29/02/2024
Câu trả lời của bạn: 15:14 29/02/2024
Qua hai ngàn năm, văn hoá Ấn, Hoa thấm sâu vào trong lối sống, tư tưởng của nhiều dân tộc, hun đúc nên tính cách riêng chung của các tộc người hiện cư trú ở ĐôngNam Á. Do điều kiện môi trường biến đổi, thực tế quá trình lịch sử hình thành và bản chất vốn có của mỗi dân tộc khác nhau, nên sự tiểp biến văn hóa diễn ra cũng khác nhau; đi liền với quá trình phát triển đã chính là màu sắc tôn giáo tín ngưỡng. Chẳng hạn, với Việt Nam, Campuchia tín ngưỡng dân gian mang đậm dấu ấn của Phật giáo đại thừa và tiểu thừa, nhưng diễn biến ở mỗi thời kỳ lịch sử có mức độ đậm nhạt khác nhau. Theo Ấn Độ giáo từ trước thế kỷ X nhưng ở Campuchia, nam Việt Nam, nam Lào diễn ra quyết liệt hơn cả. Từ vua chúa đến quan dân đều nhất loạt tôn thờ thần Shiva. Từ kinh đô thị trấn đến các nẻo đường thôn ngõ xóm, bản làng xa xôi hẻo lánh…người ta thi nhau xây cất đền đài, cung điện. Có khi các thần linh bản địa đã tồn tại trước đã bị phỉ báng hoặc triệt diệt hoàn toàn bằng cơ chế lãnh chúa. Tuy vậy, tín ngưỡng dân gian Đông Nam Á vẫni phát triển mạnh hơn và tìm ra cách tiếp xúc và nhuốm màu văn hóa Ấn, văn hóa Hán.
Trước khi theo Ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo và Công giáo các cư dân chủ thể ở Đông Nam Á, cũng như hầu hết các cư dân văn minh khác trên thế giới, đều có niềm tin vào sự tồn tại sức mạnh vô hình của các thế lực siêu nhiên. Họ tin rằng mỗi đối tượng tiếp xúc, ở nhiều mối quan hệ đều có một hay nhiều vị thần chăm lo từng giờ từng phút mà mỗi thực thể con người đều có phận sự của mình. Đó là các phi ở Lào, Thái Lan, các nát ở Myanm, các vị thần tổ, thành hoàng làng ở Việt Nam, tồn tại ở khắp mọi nơi. Vì thế, khi tin theo bất cứ một tôn giáo nào mới du nhập vào, họ cũng sẵn sàng sáp nhập các thần linh cũ vào đội ngũ các thần linh mới. Các nhân vật thần linh nổi tiếng từ trước của cư dân bản địa mau chóng trở thành thế lực thần thánh bảo vệ trung thành cho các hình thức tôn giáo mới. Đây đó trong quá trình bản địa hóa tôn giáo, có nơi các vị thần linh bản địa còn có vai trò chủ đạo hơn những thần chủ do tôn giáo mới đưa vào. Việc hệ thống hoá các thần chủ thống nhất với nhau,“chung sống với nhau” với tư cách là một tín ngưỡng tôn giáo mới, trong một môi trường mới, diễn ra đồng thời với việc dân gian hoá thần chủ; và cùng với quá trình này là sự hoà trộn các nghi thức thờ cúng.
Đối với các vị thượng đẳng thần phật từ bi được cư dân Đông Nam Á hiểu là đấng cứu vớt chúng sinh khỏi trầm luân khổ ải; còn tà ma quỷ quái thì lúc nào cũng nhung nhúc bon chen quanh cuộc sống con người. Chúng thường xuyên đe doạ mạng sống, mang lại ốm đau, bệnh tật, mất mát li tán; đôi khi chúng cũng có thể đem lại cho con người những lợi ích vật chất, tinh thần, nhưng chỉ là dịp may hiếm có. Vì thế để giảm bớt tai họa nhiễu nhương, cầu được bình an may mắn, người ta cầu cúng tất cả mọi thế lực thần linh siêu hình. Các nghi thức tế lễ, khấn cầu hiến dâng lễ vật hoà trộn vào nhau trong các nghi thức vòng đời con người ở quy mô cộng đồng làng xã. Khi sinh con, người ta tiến hành nghi thức bảo vệ tính mạng mẹ và con, cầu được “mẹ tròn con vuông”; sau khi sinh con tốt lành người mẹ được tẩy uế bằng đuốc lửa, đặt con nằm bên những vật thể mà người ta tin là có uy lực bảo vệ đứa trẻ, ngăn ngừa tà ác ma quỷ có thể xâm hại. Ở lứa tuổi trưởng thành, trải qua các cuộc hôn lễ, lên lão, mừng thọ, tang ma… người ta đều phải thực hành những nghi lễ thích hợp với hoàn cảnh. Rủi khi có sự biến cố bất thường phải vin vào số mệnh và vẫn phải cầu xin để “sống khôn chết thiêng.” Cổ tục đã là lý do căn bản khiến người Đông Nam Á trước khi bắt đầu một công việc quan trọng, như cắt tóc cho trẻ trai vào chùa, xuyên tai cho bé gái sắp đến tuổi trưởng thành, gả chồng chọn vợ, định ngày hôn lễ, xác định đất và ngày làm nhà, định giờ khai trương một công việc kinh doanh, trước khi đi xa…. người ta đều tiến hành những nghi thức lễ bái cầu xin thần linh phù hộ.
Lễ hội tín ngưỡng Đông Nam Á theo chu kỳ năm tháng, thường trùng với lịch canh tác nông nghiệp. Phần lễ với việc cúng tế khẩn cầu tiến hành trang nghiêm đúng quy cách. Phần hội với những hoạt động đa dạng nhăn uống, vui chơi, ca múa, giao du thi đấu các trò chơi dân gian dưới hình thức giải trí. Lễ hội diễn ra bất kể ngày đêm với các hoạt động phong phú và ệ ông khắp toàn dân, tạo được niềm tin vào sức mạnh của các thế lực siêu nhiên bằng “thông tin đại chúng theo kiểu dân gian”. Lễ là phương thức giải toả tâm lý. Hội là hoạt động khuyến khích và củng cố niềm tin của con người sau khi được thoả mãn một phần những bức xúc trong cuộc sống đời thường.
Làng là đơn vị hành chính có cơ sở kinh tế xã hội tương đối khép kín ở nông thôn các nước Đông Nam Á truyền thống. Gia đình tồn tại như những đơn vị hạt nhân độc lập gĩưa một hệ thống các quan hệ nhiều chiều với các gia đình, cá thể khác, với cộng đồng. Gia đình và cá thể tồn tại, được nâng đỡ, bênh vực, chở che và do vậy được thêm sức mạnh, nhờ sức cố kết cộng đồng những nhu cầu hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau thành nề nếp. Mối quan hệ giữa cá nhân từng người, giữa các đơn vị gia đình với gia đình, giữa gia đình với cộng đồng làng xã đã trở thành lẽ sống tự nhiên trong hầu hết các hoạt động kinh tế và văn hóa của Đông Nam Á cổ truyền. Trong kết cấu vừa chặt chẽ vừa rộng mở họ có rất nhiều công việc mà cá nhân, hay thậm chí cả gia đình cũng không thể độc lập giải quyết, như khi thu hoạch hoa màu, khi thời vụ cấy cày, khi cưới xin, ma chay.. đều cần có sự giúp đỡ của bà con trong xóm ngoài làng, gia đình mới có thể vượt qua được những công việc lớn mà không ít khó khăn cụ thể trong hoàn cảnh kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Mối quan hệ hợp tác, tương trợ lẫn nhau “khi tắt lửa tối đèn” là không thể thiếu quan hệ nương nhờ bà con khu xóm. Vì vậy bản thân mỗi người luôn cảnh giác trong quan hệ ứng xử, sao cho không bị tổn thất niềm tin yêu với người khác, né tránh những chuyện xô xát. Quan niệm coi sân hận là gốc rễ của sai lầm, nó làm xói mòn công đức của con người. Thái độ ôn hoà, nhường nhịn được ngầm cổ vũ, bởi làng nhỏ đất rộng, núi cao và biển sâu luôn thể hiện hai mặt, hủy diệt và tái sinh trước cuộc sống con người.
Sau phát kiến địa lý của Magellan, đường biển đã nâng bước chân các nhà truyền đạo Hồi giáo và Công giáo vào các nước ĐôngNam Á. Hồi giáo và Công giáo trong lịch sử văn hoá Đông Nam Ácó những bước ngoặt lớn. Tuy có xung đột với Ấn Độ giáo ở một số điểm ban đầu, nhưng phần lớn các cộng đồng cư dân Đông Nam Á hải đảo, cũng đã cải giáo tin theo. Đạo Hồi giữ địa vị quốc giáo ở Malaysia, Brunei cho đến nay. Song Hồi giáo đến các nước Đông Nam Á lục địa, lại không có môi trường truyền giáo sâu rộng, không chiếm đựơc vị trí thống soái ở các triều đại phong kiến đã Ấn Độ hoá. Từ thế kỷ X trở đi, hầu như các tiểu vương quốc của Đông Nam Á đều đã và đang gắng vươn lên tự khẳng định mình bằng truyền thống văn hoá bản địa, với sự chắt lọc tinh hoa và tiểp biến những yếu tố thích hợp của hai nền văn hoá Ấn Độ, Trung Hoa. Từ khi Đông Nam Á tiếp xúc với văn hoá phương Tây, một số đền đài Ấn Độ giáo vẫn tồn tại với một số ít tu sĩ, thần dân được mọi tầng lớp xã hội đùm bọc bảo toàn.
Khi Philippin đã trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha thì cuộc đụng độ giữa người Hồi giáo với chính quyền cai trị Bồ Đào Nha diễn ra ở thế kỷ thứ XVI là mâu thuẫn dân tộc nhiều hơn là xung đột tôn giáo. Công giáo đến Việt Nam đúng lúc nội bộ nhà nước phong kiến triều Lê đang bị phân lập suy yếu. Khi được chúa Trịnh Đàng Ngoài và chúa Nguyễn Đàng Trong ưu ái, thì các linh mục, cha đạo lại bị các nhà Nho, các sư sãi đấu tố, xua đuổi. Vua Lê Trang Tông thì ú ớ về chính trị, chúa Nguyễn lại cầu cứu cha đạo, mối lái cho Pháp xâm; nên Công giáo Việt Nam phải trải nhiều bước điêu linh ở thời Nguyễn.
Cách ứng xử của con người đối với môi trường ở Đông Nam Á như vậy là thật sự có những nét riêng do đặc trưng văn hóa của cả loài người. Từ thực tiễn cuộc sống, hầu hết các tộc người ở Đông Nam Á đều phải đối diện trực tiếp với những biến động hà khắc của thiên nhiên, một khi trình độ khoa học kỹ thuật còn bị hạn chế thì thiệt hại do bão lụt, núi lửa gây ra làm chết người hàng loạt, cây gẫy, nhà cửa bị đổ nát…cả một vùng rộng lớn bỗng nhiên biến thành hoang tàn; bệnh dịch lan tràn lại tiếp tục cướp đi sinh mạng con người. Tất cả hiện thực đáng buồn ấy cũng không thể quật ngã ý chí vươn lên của con người. Biển trong xanh hiền hòa bao quanh các nước Đông Nam Á hải đảo; cung cấp nguồn thực phẩm dồi dào là thế, nhưng mùa dông bão nào mà chẳng cướp đi không ít nhân lực lao động, của cải vật chất của nhân dân lao động vừa mới tạo ra.
Chỉ có tôn giáo tín ngưỡng mới có cơ hội sớm tìm được giải pháp hữu hiệu, giúp cho con người Đông Nam Á có thể vững bước đứng lên gây dựng lại tất cả. Điều quan trọng hơn cả là ý chí con người đã biết tạo ra, biết tiếp thu những hình thức tín ngưỡng tôn giáo rất hữu ích cho việc bảo vệ môi trường sống. Đã là việc sáng tạo biểu tượng linh thiêng của thần Rừng như bà chúa Thượng Ngàn, thần Biển như mẫu Thoải, thần đất đồng bằng như mẫu Liễu, thần Bầu Trời như mẫu Thượng trong đạo Mẫu Việt Nam. Ở các nước khác trong khu vực thì người ta tạo lập thần thiêng bằng cách mượn biểu tượng có sẵn như thần Shiva, Brahma, Vishnu hay danh tính của các đức Phật rồi bản địa hóa mạnh mẽ, thậm chí làm thay đổi hoàn toàn lai lịch, uy thế nguyên thủy của các vị, sao cho thần linh mới trên đất mới có sức sống bền vững, phù hợp với nhu cầu đời sống văn hóa đương đại.
Từ trước thế kỷ I sau C.N Ấn Độ giáo đã theo tu sĩ Brahma, theo thương nhân đến bờ biển miền trung Việt Nam truyền giáo; thậm chí là cả hoà huyết nhiều thế hệ trở thành người Chăm mới. Cuộc chạy loạn java ở thế kỷ IX đãđẩy một số không nhỏ người Chăm về Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay và cũng không loại trừ các đợt di cư tiếp theo cho đến nửa cuối thế kỷ XVIII vẫn còn diễn ra. Tách khỏi thế giới Ấn Độ giáo được xem như quốc đạo; người Chăm ở Tây Nguyên, ở nam Trung Bộ Việt Nam giữ lại tôn giáo của mình khi có điều kiện tương đối tập trung ở vùng đất mới mà các cư dân khác vốn đã sống ổn định ở dó từ trước; không gây mâu thuẫn, không gây cản trở gì. Bởi thế, cho đến nay, người Chăm ở đây còn tự gọi là Chăm sét hoặc Chăm Kaphir - tức là Chăm chính thống. Bộ phận người Chăm ở tây nam Trung Bộ chiếm 2/3 dân số vẫn theo Ấn Độ giáo. Ở Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy có 48 thôn đang có người Chăm cư trú, thì 28 thôn có cư dân Chăm theo Ấn Độ giáo. Dĩ nhiên là việc Chăm hoá Ấn Độ giáo của các vua chúa Chăm trong lịch sử đã làm mờ nhạt dần hình ảnh nguyên thủy của tôn giáo, nhường lại biểu tượng thần linh cho tín ngưỡng dân gian. Linh vị thánh mẫu Poinnga đã và đang sống lại trong đời sống tôn giáo Chăm với tàn dư Ấn Độ giáo và tín ngưỡng bản địa. Thậm chí cả những nghi lễ tín ngưỡng của người Việt cũng được pha trộn tinh tế. Phần lớn các tu sĩ Ấn Độ giáo đương đại, không nắm vững kinh sách Ấn Độ giáo. Quan niệm đẳng cấp của Ấn Độ giáo cũng đã biến hình trong cộng đồng người Chăm với tính bản vị cục bộ theo lối sống hiện đại.
Từ quan hệ do địa bàn cư trú tạo lập, người Khơme ở Nam Bộ Việt Nam, cũng có bộ phận tôn thờ Ấn Độ giáo khá rõ nét. Hiện vật khảo cổ và bia ký ở vùng Ba Thê và Bảy Núi đều chứng tỏ một thời hưng thịnh. Hơn 100 tượng linga với các phong cách thể hiện khác nhau, có tượng linga đã đồng hoá với các neak của người Khơme. Nhiều tượng Brahma, Vishnu, Shiva còn diện mạo có thể phục chế. Một số mảnh vỡ của các vị thần Ấn Độ giáo khác như: Uma, Haribata… còn cho những thông tin đáng tin cậy. Tên gọi các vị thần Ấn Độ giáo đã Khơme hoá như Preah gắn với Brahma, Preah Enh gắn với Indra, Preah Noreay gắn với Vishnu được dân gian hoá theo tín ngưỡng bản địa cộng với tư tưởng Phật giáo. Đời vua Trần Thái Tông (1225-1258), Chiêm Thành vẫn là tiểu quốc lân bang, hàng năm có sứ giả đi lại, cống vật nhưng họ vẫn ngầm nổi loạn chống lại Đại Việt. Năm 1252, nhà vua thân chinh dẫn quân đi dẹp loạn, bắt khá nhiều quân sĩ và vương phi đất Chiêm.
Trong hầu hết các tín ngưỡng dân gian ở Lào, đều đã biểu hiện sự ảnh hưởng khá đậm của các hình thức tôn giáo. Brahman giáo và tín ngưỡng dân đều đã thế tục hóa quá mạnh, quá sâu, khuyến khích người Lào từ bỏ cuộc sống trần thế để tu hành. Vua Lạn Xạng đầu tiên là Phà Ngừm đã từng nói: “ - Có việc gì cầu xin, người ta chỉ biết khẩn nguyện tổ tiên!” đã nói lên thế lực vương quyền trước các thần dân của mình. Ngay sau đó một ngôi miếu Thạtluổrng thờ thành hoàng của kinh đô Viêngchăn được xây dựng. Có lẽ vì lý do này mà cho đến nay ở khắp các vùng thôn làng hẻo lánh ở Lào, nơi nào có chùa thờ Phật là có miếu thờ ma ở bên cạnh, dường như là song sinh. Không những thế, nơi thờ tự trong từng ngôi nhà bao giờ cũng có cả hai bàn thờ Phật và bàn thờ ma. Nhiều nghi lễ dân gian gắn với các thần linh khác như thần thổ địa, thần lúa, thần nước, thần cây, thần núi… đều có các linh hồn ma ngự trị. Dĩ nhiên ma lành chiếm vị trí nhiều hơn ma dữ.
Điều đáng quan tâm hơn cả là linh hồn các vị thần thiêng trong tín ngưỡng dân gian Lào là các vị hoàng đế đã từng giữ ngôi để lại công tích, các vị anh hùng dân tộc có công dựng nước như Phà Ngừm, Xạtthảthilạt, Chậu Anụvông… đều là những Phật tử nhiệt thành nhất trong việc truyền bá tư tưởng Phật giáo, nhưng đồng thời cũng là những tác giả hay ít ra là các cộng sự đắc lực của những tín ngưỡng dân gian mới; nghĩa là tín ngưỡng dân gian bản địa của các cư dân Lào đã được “bao phủ” màu sắc Phật giáo. Giờ đây trong mỗi gia đình người Lào đều có một bàn thờ Phật ở trong nhà, một bàn thờ ma (= túp phi) ở ngoài vườn. Theo tư liệu điền dã dân tộc học thì cổ xưa chỉ có bàn thờ ma, được người dân lập ở trong nhà. Khi đạo Phật phát triển, bàn thờ Phật đã thay thế cho bàn thờ ma trên khắp đất nước. Bàn thờ ma nhà bị đưa ra ngoài vườn, nghĩa là có lúc, có nơi tôn giáo đã lấn át vị trí của tín ngưỡng. Brahman giáo cũng bị tín ngưỡng dân gian lợi dụng, dung hòa một số nghi thức và cơ sở giáo lý. Cây bồ đề là nơi thờ Phật, nhưng biểu tượng thần Linga dựng dưới hình thức một cái cột gọi là Shiva linga, phần trên cột mang hình hoa sen, một dạng biểu tượng tinh hoa của Phật giáo. Người già ở Lào có tục ước mong sống lâu bằng cách cắm một chiếc “gậy tuổi” dưới cây bồ đề để cầu an thọ trường.
Gửi niềm tin cho nhau trong quan hệ ứng xử, mỗi dịp hội làng hay lễ tết nhân dân còn có tục buộc chỉ cổ tay. Khi người đàn bà ở cữ, qua thời kỳ kiêng khem thì bắt đầu buộc chỉ vào cổ tay cả mẹ và con để đề phòng ma ám. Gái trai khi lấy nhau cũng phải buộc chỉ cổ tay… Con cái, ông bà, cha mẹ ốm đau trong xã hội lạc hậu cổ truyền, người Lào cũng chỉ biết cúng ma, và tin vào phép lạ là ma sẽ hài lòng và làm cho họ khỏi bệnh. Tất cả những cái đã là tín ngưỡng thờ ma. Thông thường hiện nay, việc buộc chỉ cổ tay, mời vong linh ma lành chữa bệnh hay tìm cách trừ, đuổi ma dữ, đi cầu đảo đều do các nhà sư thực hiện.
Trong khắp các thôn xã, bản làng, trong mỗi ngôi nhà ở người ta vẫn lập bàn thờ ma ( = Hĩnh liệng phi). Ở đầu mỗi bản làng vẫn có miếu thờ thành hoàng chung của cả cộng đồng. Tín ngưỡng dân gian ở Lào giữ vai trò hết sức quan trọng chi phối các mặt hoạt động xã hội, góp phần làm nên đời sống tinh thần và văn hóa vật chất của hầu hết các tộc người trong địa bàn cư trú. Trải nhiều bước thăng trầm trong lịch sử, diện mạo tín ngưỡng dân gian ở Lào ngày nay vẫn bộc lộ nhiều lớp văn hóa tôn giáo đã đan xen, dường như đã trở thành một cấu trúc hoàn hảo. Trên nền gốc là tín ngưỡng dân gian của cư dân nông nghiệp lúa nương, lúa nước; các tộc người cư trú lâu đời trên đất Lào, vẫn bảo tồn những tín ngưỡng cổ xưa của mình. Trên nền tảng đã, những yếu tố tương đồng trong nhận thức thế giới huyền ảo của Brahman giáo (= Phạn) và Tín ngưỡng dân gianđược cấy lên từng lớp, từng lớp. Do đã diện mạo văn hóa tín ngưỡng dân gian Lào có những nét riêng, thể hiện bản sắcư dân tộc của mình.
Người Làothay theo tín ngưỡng dân gian phân loại “thứ Phụt” thờ “phi” chiếm vị trí quan trọng. Tục thờ cúng tổ tiên thể hiện nhớ ghi huyết thống người sinh ra mình và những người có công đầu tiên khai phá đất ở, dựng bản, lập mường. Đó là các “phi” lành, thường mang lại hạnh phúc và những điều ước muốn khi người đời cầu khấn. Ảo ảnh của những phi có nguồn gốc tương đối “rõ ràng”, phản ánh cấu trúc xã hội cổ truyền của người Làothay, gồm gia đình, bản mường.
Trong thế giới tâm linh, người Làothay quan niệm có ba loại ma: ma nhà (= phi hươn); gần nhất theo huyết thống là linh hồn cha mẹ đã mất, xa hơn là ông bà, tổ tiên (= phi đẳm). Nơi thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên là bàn thờ gỗ hay tre ghép được treo cao, gá vào nơi trang trọng trên vách buồng khách của chủ nhà. Trước khi đưa tro thi hài cũng đồng nhất với linh hồn người đã mất vào chùa, hàng ngày gia chủ thường vắt một nắm xôi nhỏ và một số hoa quả để thắp hương cúng. Sau khi đưa vong linh ma nhà vào chùa, gia chủ lại phải theo cúng mỗi tháng 4 lần, vào những ngày 8, 15, 18 và 28 của thượng và hạ tuần trăng ở trên chùa, nên tục thờ ma nhà của người Làothay dần dần mờ nhạt. Loại ma nhà thứ hai là thổ thần (= tholani) được thờ ở bờ rào cổng trước, hoặc làm một cái “hó” đặt trên cột tre, gỗ, đặt ngay cạnh hàng rào hoặc nơi góc sân vườn. Về sau, biến dạng của tục thờ thổ thần ở nơi đô thị hay những gia đình khá giả là những cây tháp nhỏ, với trang trí cầu kỳ, công phu. Tất cả không ngoài mục đích cầu an, cầu xin thổ thần phù hộ, độ trì cho gia chủ khỏe mạnh, làm ăn thịnh vượng.
Về tục thờ thần cai quản bản mường (= phi hươn hoặc lắc bản); xưa kia người làng thường chọn chỗ cao ráo hoặc một gốc cây to, bằng không thì tìm một hòn đá kê cao hơn mặt đất, để dựng lên một ban thờ ở đầu hoặc cuối bản làng cư trú. Sau này, khi du nhập đạo Phật, chùa được xây dựng thì ban thờ thành hoàng làng được gá vào cây bồ đề hoặc cây đa to trước cửa chùa. Cư dân Lào quan niệm ma bản là vị thần đại diện cho các loại ma vốn có trong tâm linh dân làng và được thờ cúng, khẩn cầu đến trong các dịp bun than. Có thể xem thần lắc bản của người Lào tương đương với thần thổ công của người Việt.
Nghi lễ cúng phi mường có thời đã trở thành tín ngưỡng ở tầm quốc gia, diễn ra tại Luôngphabăng do chính vua Lào chủ trì. Có truyền thuyết kể rằng, vào thời xây dựng miếu thờ phi, khi đào hố móng chân cột “lắc mường” ở nơi cổ đô, có một người phụ nữ tên là Mẳn đã hiến dâng cả tính mạng của mình, lao thân nằm vào hố đất chôn cột đá dưới chân “lắc mường”, tạo ra tính thiêng cho linh vật được tôn thờ.
Tựu trung, ba loại phi hươn, phi bản, phi mường là thần bảo hộ của cộng đồng tộc người Làothay.
Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Việt-Mường cư trú ở Lào đều theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và thờ ma lành, ma dữ theo quan niệm “vạn vật hữu linh”. Trong đời sống sinh hoạt và trang trọng hơn trong các ngôn từ về tín ngưỡng của họ chỉ có một từ để chỉ “phi” như cách hiểu của người Làothay. Với nhóm cư dân Việt - Mường, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất được chú trọng. Mọi lễ nghi kêu cầu khấn vái cũng gần như tộc người Làothay.
Đặc điểm nổi bật ở các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơme phía nam Lào là trong nghi lễ thờ cúng của họ còn bảo lưu nhiều yếu tố cổ, mang nhiều tính chất mê tính dị đoan và rất phức tạp. Các ma theo hệ thống thờ cúng tổ tiên chỉ mới thấy ma nhà và ma bản tưởng như còn rất gần gũi, quen thuộc với từng cá thể con người trong cộng đồng cư dân. Song cũng có điểm khác là hình ảnh các vị thần có “vị tríquốc gia” như của nhóm cư dân Việt - Mường thì vắn bóng. Hiện tượng một vài nơi có thấp thoáng xuất hiện tục sùng bái và thờ cúng Khún Chương như là một tù trưởng, hay như người Khmú xem Chương là vua của họ, có lẽ là ảnh hưởng của người Thái Việt Nam sống rải rác và xen kẽ với một số tộc người trong nhóm từ lâu đời.
Hệ thống thần thờ trong tín ngưỡng dân gian của nhóm tộc người thuộc ngữ hệ Môn - Khme theo thuyết “vạn vật hữu linh”. Người ta quan niệm rằng, xưa kia có thần lúa (= hmăl ngoh) luôn bám theo cây lúa do thần trời cai quản. Lúc trời mới ban cho người trần gian thì hạt to, lúa tự mọc, lúc già hạt đậm bông to thì tự lăn về nhà người, tự nguyện cho hạt gạo làm lương thực chính nuôi sống con người. Nhưng rồi do sự cẩu thả của con người, trời nổi giận cho hạt lúa nhỏ lại kết thành bông lúa; và loài người phải lao động vất vả: cày cấy, góp nhặt, xay giã, dần sàng…mới được sử dụng. Yàng lúa là thần bảo vệ cho việc trồng lúa đem lại cuộc sống no ấm… quy trình thực hiện nghi lễ kéo dài theo các công đoạn làm rẫy lúa kể từ lúc chọn giống, gieo hạt cho đến khi thu hoạch đưa lúa về nhà. Người chủ lễ là một bà già. Khi hành lễ bà chủ còn dùng cả những vật thiêng mà người Lào gọi là “Khút”. Những vật thiêng đã có thể là những hòn đá thiêng, có khi chỉ là những mảnh tước giống như lưỡi rìu đá cổ người ta nhặt được sau những lần sét đánh, mưa dông… được gói kỹ trong túi thổ cẩm, do bà chủ lễ cất giữ kín đáo và trang trọng. Tục cúng linh hồn người đã khuất (= Hroi hmăl) phải lấy máu động vật như gà, lợn bôi vào đầu gối người có căn nhập hồn làm lễ (xụ khoắn) cầu an, đề nghị thần chữa bệnh, phù hộ độ trì cho cả cộng đồng, cho tất cả cháu chắt, dân mường khỏe mạnh, làm ăn thịnh vượng.
Hệ thống thờ ma trong ý thức tín ngưỡng dân gian của người H’mông rất phức tạp và khó xác định. Ma nhà có hai loại: 1 - Ma bố mẹ tổ tiên thì phải cúng (= nốp vay) và ma giữ nhà. Với có Ban thờ ma nhà của người H’mông là một tấm gỗ nhỏ hoặc tre ghép, treo buộc chắc chắn ở chỗ tiếp giáp giữa cây cột với xà ngang. Người H’mông thờ ma tổ tiên hết ba đời, nhưng không cúng giỗ theo ngày chết mà cúng vào khi trong nhà có người ốm đau hoặc lễ Kin chiêng. Để kiêng giữ nạn đãi kém, mất mùa, trong kho thóc của người H’mông không bao giờ cũng phải dành lại một lượng dư thừa nhất định, coi như số thóc để hồn lúa trú ngụ. Các loại ma thuồng luồng, ma sấm, ma trời…trong ảo giác người H’mông cũng loáng thoáng xuất hiện, nhưng không có tục thờ cụ thể.
Với tộc người Dao, ma nhà kể từ từ bố mẹ, ông bà, tổ tiên đã qua đời được cúng nhiều đời hơn. Lễ cúng tổ tiên trong phạm vi gia đình thì chỉ mời vong linh ba đời. Như vậy các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ H’mông-Dao có một hệ thống ma theo tục thờ cúng tổ tiên, phản ánh mối quan hệ dòng họ hơn là quan hệ bản mường. Hai tộc người H’mông-Dao khi cúng tổ tiên thì dùng vật cúng là thịt lợn, gà, xôi, rượu; còn khi cúng thần rừng (hay thổ địa) thì vật cúng là thịt bò chứ không cúng thịt trâu. Người theo đạo giáo ở Trung Quốc kiêng cúng thịt trâu, bởi con trâu là vật cưỡi củ Lão Tử.
Ban thờ ma bản của người Kọ hướng về phía mặt trời mọc, thường làm gá vào một cây cổ thụ to, xung quanh có hàng rào bảo vệ. Trước khi dựng bản, lập làng, các bậc chức sắc trong bản phải chọn nơi lập ban thờ ma. Bản có hai cổng: Cổng chính phía mặt trời mọc dành cho các vật quý như bãi đu, còn cổng phụ phía mặt trời lặn giành cho việc thờ những hiện tượng không lành như lợn, chó, dê mất bình thường, người sinh đôi… cổng bản được tu sửa hàng năm, trồng thêm cột mới, cho nên có thể đếm số cột để biết số năm dựng bản. Lễ cúng thần cổng bản được trang trí nhiều thứ, đáng chú ý là hiện tượng đàn ông đàn bà giao hợp, hình mặt trăng mặt trời (phồn thực nông nghiệp) và một số loại vũ khí thông thường, trong đời sống săn bắn chim thú rừng.
Trong tục thờ đa thần ở người Kọ có các thần nước, thần lửa, thần sét, thần sông, thần đất, thần núi… với nhiều tục kiêng kỵ khá nghiêm ngặt. Đáng chú ý là các nghi lễ cúng thần lúa. Người Kọ ăn tết và làm lễ cúng cơm mới cùng với thời điểm bắt đầu một mùa phát rẫy làm nương. Lễ vật cúng được sửa soạn nhiều thứ như: thịt gà, thịt trâu, bánh dầy. Quan trọng nhất là lễ đốt rẫy giết lợn. Sau lễ cúng thần, chủ bản mặc váy trắng đi chúc rượu các cụ già rồi làm lễ gieo hạt. Nghi thức - và cũng là kỹ thuật cổ truyền được thiêng hóa - hạt giống lúa được nhúng nước giếng, rồi chủ lễ phát cho mỗi người một ít để “lấy khước” theo lệ cổ, rồi mang về trộn vào lúa giống của riêng mỗi nhà, cho dân bản gieo hạt mùa sau. Lễ cầu mưa có tục kiêng bốn ngày không ai được bước chân xuống nước. Lúa vào “thì con gái” dân bản lại làm lễ cúng tại rẫy, cầu cho lúa mẩy hạt to bông. Rồi đến lúc lúa chín, trước mùa gặt hái, dân bản lại làm lễ cúng thần xin gặt lúa, đuổi ma, chặt đu, đưa lúa về nhà Kin chiêng, ăn cơm mới. Lịch tiết nông lâm nghiệp của người Kọ chắc chỉ dựa theo mùa vụ làm ăn theo chu kỳ hàng năm.
Ông mo - hay thầy mo - bao giờ cũng giữ vai trò trung gian giữa người với thần (= ma). Quá trình thực hành nghi lễ thờ cúng tổ tiêncũng nhưư hàng loạt các vị thần khác theo quan niệm đa thần, chỉ có ông mo mới là người môi giới giữa thần và người. Người dân tin là có thế giới thần linh trong cõi sống, cõi thọ và cõi tử, song giữa thế giới thần và thế giới con người thì luôn luôn có khoảng cách khu biệt mà nhận thức bao đời của nhân loại chưa thể có lời giải đáp rõ ràng. Họ đều tâm niệm rằng, hàng ngày các thế lực của thế giới thần linh vẫn nắm bắt từng chi tiết cử chỉ, hành động… trong cuộc sống của mỗi người. Chính quan niệm có thể “dấu người chứ ai dấu được ma”, khiến cho ý thứcư dân gian luôn hướng thiện, hướng tới những điều tốt lành trong cuộc sống đời thường. Chính tục cổ truyền “vạn vật hữu linh” của các tộc người cư trú ở các nước Đông Nam Á hải đảocũng nhưư hầu hết xã hội xưa của cácư dân tộc trên thế giới, là “môi trường đào tạo” ra các loại hình ông mo - thầy cúng. Nhân vật trung gian này có được tri thức hiểu biết lối sống nhân tình, nắm bắt được tâm lý sùng bái thiên nhiên, sợ hãi thiên tai địch họa.. trước hết là do tự ý thức tìm hiểu, về sau ở xã hội phát triển hơn mới có “quy chuẩn học hành”. Chế độ phong kiến lãnh địa đã góp phần củng cố vị trí xã hội cho họ. Vật thiêng, người thiêng, lời nói thiêng lần lượt xuất hiện và ổn định thuật ngữ tín ngưỡng dân gian. Cái gọi là “xuất thần” thực tế chỉ là tài ứng xử của ông mo thầy cúng trong giao tiếp với người đời mà thôi.
Bất lực và hoảng sợ trước sức mạnh của thiên nhiên, con người đã thần thánh hóa những hiện tượng, những vật thể trong thiên nhiên, rồi tưởng tượng ra những vị thần linh với những thuộc tính siêu hình, có thế lực vô song thường bảo vệ, giúp đỡ con người trong đời sống lao động mưu sinh. Các tộc người ở Lào cũng có một hệ thống thần linh (= phi = ma) trong thế giới vô hình mà con người cảm thấy được có vô và những phi (ma). Chúng có ảnh hưởng lớn đến đời sống con người.
Các tộc người thuộc ngữ hệ H’mông-Dao và Tạng-Miến thường ăn tháng Giêng (= kin chiêng). Khi tổ chức lễ hội, mọi người làm lễ cúng ma nhà, ma bản xong thì kéo nhau đi vui chơi tập thể và ăn uống nơi tụ hội bản mường. Một lễ thức quan trọng trong kin chiêng là “khẩu trò”. Lễ khẩu trò do một gia đình đứng ra tổ chức trong ngày lễ hội của bản mường, để con cháu trong dòng tộc cầu tự. Ai đã có nguyện vọng cầu sinh con trai hay con gái, cầu an, cầu mạnh... tùy sở thích. Cả họ, cả bản cùng gom sức lực tiền của để lo giúp phần nào. Song, nếu đã tổ chức lễ khẩu trò, nhà chủ lễ phải làm trong ba năm liền. Năm đầu kéo dài ba ngày, năm thứ hai năm ngày, năm thứ ba bảy ngày. Trong lễ hội có nhiều trò chơi như: chọi trâu, chọi bò, chọi gà, phi ngựa, thi đá võ chân, đánh đu, đánh quay, ném còn, đấu khèn, thi hát… có hai hình thức văn nghệ nổi bật trong lễ hội của tộc người H’mông: múa khèn và hát giao duyên. Tựu trung tất cả các thành viên trong cộng đồng đều hướng tới vun đắp cho ngày lễ hội cầu thần ngày một thêm linh thiêng hoành tráng.
Nằm trong hệ thống tín ngưỡng dân gian của Đông Nam Á, tín ngưỡng dân gian của các tộc người Đông Nam Á hải đảo ít nhiều cũng biểu hiện một số nét riêng. Nét riêng đó là phong tục, lễ nghi, tín điều linh thiêng mà ngư dân đánh bắt cá biển làm kế sinh nhai và cư dân nông nghiệp ở các đồng bằng miền núi, ven biển với hình thức cư trú bán ngư bán nông, bán lâm; đối mặt với biển trời, đất nước mà mưu sinh, xây dựng cuộc sống.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 15:12 29/02/2024
Câu trả lời của bạn: 15:09 29/02/2024
a) c.g.c
b) mình ko biết
Câu trả lời của bạn: 20:53 28/02/2024
tập tính điển hình của cá voi sát thủ :
- Cá voi sát thủ linh hoạt, nhanh nhẹn và là một loài động vật ăn thịt thông minh. Một số ăn cá, một số săn các loài thú biển như sư tử biển, hải cẩu, cá voi và cả loài cá mập trắng lớn cũng là nạn nhân của nó.
- Có tổ chức xã hội cao, một số theo chế độ mẫu hệ, bền vững hơn bất kì loài thú nào khác, tất nhiên là trừ loài người.
- Cách cư xử xã hội phức tạp, kỹ thuật săn mồi, âm thanh giao tiếp của cá heo voi được coi là một nét văn hóa của chúng.
Câu trả lời của bạn: 20:52 28/02/2024
Câu trả lời của bạn: 20:51 28/02/2024
-Ưu điểm nổi trội nhất của thư điện tử đó là gửi và nhận cực kỳ nhanh so với cách gửi thư truyền thống
Thư điện tử có thể gửi đi được ở bất cứ thời điểm nào trong ngày và bất cứ ngày nào trong năm
Thư điện tử có thể gửi và nhận từ rất nhiều loại thiết bị có kết nối internet
Giá rẻ, hầu hết các dịch vụ thư điện tử đều miễn phí và bạn chỉ cần thanh toán cước phí internet thứ mà bạn dùng cho nhiều dịch vụ và chức năng khác
Thư điện tử có thể gửi cho một người hoặc nhiều người cùng lúc.
-Người nhận cần truy cập internet để nhận thư
Virus có thể phát tán qua các tập tin đính kèm trong thư
Rất nhiều chiến dịch lừa đảo được thực hiện qua thư điện tử nên nếu không cẩn thận bạn có thể bị đánh cắp danh tính hoặc mất tiền
Không có cách gì để đảm bảo rằng thư sẽ được đọc cho đến khi người nhận đăng nhập và check mail
Thư rác cũng là một vấn nạn khác của hệ thống thư điện tử
Câu trả lời của bạn: 20:41 28/02/2024
chúng ta sẽ CHẾT vì ko có oxi
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 20:40 28/02/2024
16 = 2^4
32 = 2^5
8 = 2^3
Tìm ƯCLN bằng cách lấy số mũ nhỏ nhất của các thừa số nguyên tố chung:
ƯCLN(16, 32,8) = 2^3 = 8
Câu trả lời của bạn: 20:38 28/02/2024
Truyện "Băng bó trái tim" kể về câu chuyện đầy xúc động của bé Susie, một cô bé 6 tuổi, và cô Smith, hàng xóm của gia đình cô bé. Sau khi mẹ Susie kể về nỗi đau mất con gái của cô Smith, Susie quyết định tìm cách giúp đỡ cô Smith trong thời gian khó khăn.
Susie đã tỏ ra thông minh và nhạy cảm khi đưa ra cách giúp đỡ cô Smith. Cô bé đã mang đến cho cô Smith một miếng băng y tế cá nhân để băng bó trái tim bị thương của cô. Hành động này không chỉ khiến cô Smith bất ngờ và xúc động mà còn mang lại sự ấm áp và hy vọng cho trái tim tuyệt vọng của cô.
Câu trả lời của bạn: 20:35 28/02/2024