
trí 🏅🥇🥈🥉
Bạc đoàn
375
75
Câu trả lời của bạn: 14:29 23/03/2024
đáp án bao đúng
Câu trả lời của bạn: 05:09 19/03/2024
Nhân vật ''người anh'' trong truyện ''Bức tranh của em gái tôi'' là một người không hẳn là ích kỉ mà chỉ có điều là anh đã hiểu sai vấn đề. Khi đứng trước bức tranh đề dòng chữ ''Anh trai tôi'' cậu đã xuất hiện nhiều tâm trạng khác nhau theo thời gian. Đầu tiên là bất và một sự tự hào toát lên vẻ mặt anh rồi cho đến cái cảm giác xấu hổ, rụt rè trước em gái. Bất ngờ vì người xuất hiện trong bức tranh ấy chính là mình. Tự hào vì không ngờ mình lại được thể hiện như một con người trong sáng, thông minh như vậy. Rồi lại tự cảm thấy xấu hổ, thất vọng và rụt rè vì đã có những hành động cùng với suy nghĩ không tốt cho chính đứa em ruột rà của mình. Người anh đáng thương hơn là đáng trách, từ những suy nghĩ tiếu cực mới hình thành ra cái việc làm như vậy. Có thể vì lúc đầu anh chưa cảm nhận và thấu hiểu được hết những tính cách và sự yêu thương của em dành cho mình. Tuy nhiên, đến phút cuối thì kết thúc đã rất có hậu rồi đúng không nào ?
-Phó từ: không, đã, có thể
Câu trả lời của bạn: 21:12 17/03/2024
chúc học giỏi
Câu trả lời của bạn: 21:09 17/03/2024
- Bố cục: gồm đủ 4 phần: đề - thực - luận - kết, mỗi phần 2 câu.
- Niêm: có các cặp câu cùng thanh của chữ thứ 2: chiếc-biếc (T-T), vàng-mây (B-B), trúc-gối (T-T), thu-đâu (B-B).
- Luật bằng trắc: Luật bằng (căn cứ vào chữ thứ 2 của câu 1 là thanh bằng)
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 21:08 17/03/2024
xem lại đề đi hơi sai đó nha
Câu trả lời của bạn: 21:06 17/03/2024
Câu trả lời của bạn: 20:22 17/03/2024
Và đây là câu trả lời của bạn
Hiện tượng kỳ lạ này đã được khoa học đặt tên hẳn hoi: Hiệu ứng bánh xe ngựa, và nó là một ảo ảnh thị giác.
Về cơ bản, hiện tượng này bắt nguồn từ việc não bộ không thể nhận ra những hình ảnh liên tiếp nhau, vì con người không thể quan sát tất cả mọi thời điểm của một chuyển động. Cụ thể hơn, chúng ta chỉ có thể thu được 10 - 12 hình ảnh mỗi giây mà thôi.
Các nghiên cứu trước kia chỉ ra rằng não bộ có thể thu được số khung hình lên tới 200 hình/giây (FPS). Tuy nhiên trong chuyển động, con số hạ xuống 13 hình. Và dù mắt chúng ta có thể thu được hình ảnh ở tốc độ cao, thậm chí là rất cao, nhưng não lại không thể xử lý toàn bộ số ảnh đó, mà chỉ được khoảng 10 - 15 FPS.
Vậy số ảnh còn lại thì làm thế nào? Não bộ đơn giản chỉ "điền vào chỗ trống". Với trường hợp của bánh xe, não sẽ lấy ngẫu nhiên một vài hình ảnh trong chuyển động, và đó là lý do vì sao bạn nhìn thấy bánh xe đứng yên, hoặc quay chậm, hoặc thậm chí là quay ngược lại so với chiều di chuyển.
Hiện tượng này cũng xuất hiện với những cánh quạt quay quá nhanh. Ví dụ như trong hình ảnh dưới đây, chiếc trực thăng bay lên nhờ một thế lực đặc biệt nào đó, chứ không phải lực quay từ cánh quạt.
Câu trả lời của bạn: 08:43 10/03/2024
chúc bạn học giỏi
Câu trả lời của bạn: 08:40 10/03/2024
ko bt hỏi chị gg đi bạn ê
Câu trả lời của bạn: 08:39 10/03/2024
b)Ta có: - Vì AB = AF nên F là điểm trung điểm của tia đối với tia AB. - Do đó, EF song song với BC và kẻ qua D thì EF cắt AD thành hai đoạn bằng nhau. Vậy E,D,F thẳng hàng.
Câu trả lời của bạn: 08:37 10/03/2024

Câu trả lời của bạn: 20:54 06/03/2024
Câu trả lời của bạn: 20:52 06/03/2024
a) PT: MgO + 2HCl →→ MgCl2 + H2O
--------0,2------0,4-------------------------
b) nMgO =840=0,2(mol)=840=0,2(mol)
Đổi 200ml = 0,2l
CM=n/V=0.04/0,2=0,2(M)
/ là trên ( phân số )
Câu trả lời của bạn: 20:48 06/03/2024
S quét vôi = 62,36 m vuông
Hên xui nhé bn !!!
Câu trả lời của bạn: 18:39 01/03/2024
Chào mừng quý vị và các bạn đến với buổi thuyết trình về biến đổi khí hậu!
Trước khi chúng ta bắt đầu, hãy cùng nhau tìm hiểu về tình trạng khí hậu hiện nay của Việt Nam. Đất nước chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức do biến đổi khí hậu gây ra. Hiệu ứng nhà kính, tăng nhiệt độ toàn cầu, và biến đổi thời tiết đang ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Giải pháp giảm biến đổi khí hậu là một phần quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và duy trì sự cân bằng của hệ sinh thái. Dưới đây là một số giải pháp mà chúng ta có thể áp dụng:
Tiết kiệm năng lượng: Cách đơn giản nhất để giảm lượng khí thải là tiết kiệm năng lượng. Chúng ta có thể sử dụng các thiết bị tiết kiệm điện, như bóng đèn compact, để giảm tiêu thụ năng lượng.
Sử dụng phương tiện công cộng và xe điện: Thay vì sử dụng phương tiện cá nhân, hãy xem xét việc sử dụng phương tiện công cộng hoặc xe điện. Điều này giúp giảm lượng khí thải từ giao thông vận tải.
Hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch: Đốt than, dầu và khí thiên nhiên góp phần tạo ra lượng khí thải lớn. Chúng ta cần tìm kiếm các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời hoặc gió để giảm tác động của biến đổi khí hậu.
Bảo vệ rừng và đại dương: Rừng và đại dương đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thụ khí CO2. Bảo vệ và tái tạo các khu vực này giúp giảm biến đổi khí hậu.
Hạn chế rác thải nhựa: Nhựa là một trong những tác nhân gây ô nhiễm môi trường và tác động đến khí hậu. Chúng ta cần hạn chế sử dụng và tìm kiếm các giải pháp thay thế.
Hãy cùng nhau chung tay bảo vệ môi trường và giảm biến đổi khí hậu để để lại một hành tinh xanh cho thế hệ tương lai!
Câu trả lời của bạn: 18:39 01/03/2024
Quyền bầu cử và quyền ứng cử là những quyền dân chủ cơ bản của công dân trong lĩnh vực chính trị. Nhờ vào những quyền này, nhân dân có thể thực hiện hình thức dân chủ gián tiếp ở từng địa phương và trong phạm vi cả nước .
Ứng cử là gì?Ứng cử là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo đảm. Đây là quyền cho phép một công dân tự ghi tên vào danh sách ứng cử viên để có thể được bầu trong cuộc bầu cử làm đại biểu của cơ quan dân cử hoặc là làm lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã hội.
Khi muốn ứng cử và đáp ứng đủ điều kiện theo quy định, công dân có thể nộp hồ sơ ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân chậm nhất là 70 ngày trước ngày bầu cử.
Có những điều kiện và hạn chế về việc ứng cử, ví dụ như không được ứng cử nếu chưa đủ tuổi, đang bị tước quyền ứng cử, đang chấp hành hình phạt tù, và nhiều trường hợp khác .
Quyền bầu cử:Bầu cử là quyền của công dân thực hiện quyền lựa chọn người đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước.
Công dân có quyền đề cử, giới thiệu người ứng cử và bỏ phiếu, tức là quyền chủ động trong lựa chọn người đại diện cho mình .
Những quyền này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy dân chủ và đảm bảo sự tham gia của công dân trong quản lý và quyết định về chính trị và xã hội.
Câu trả lời của bạn: 18:38 01/03/2024
ở trong sách gv có mà với lại sách lớp mấy
Câu trả lời của bạn: 18:37 01/03/2024
Từ trước cuộc xâm lăng của quân Tần, giữa vua Hùng và họ Thục đã xảy ra một cuộc xung đột kéo dài chưa phân thắng bại. Trong bối cảnh đó, cuộc xâm lăng của quân Tần xảy ra ồ ạt. Đứng trước tình hình mới, hai bên chấm dứt xung đột, cùng chiến đấu chống ngoại xâm. Kháng chiến thắng lợi, Thục Phán với tư cách người chỉ huy chung đã được thay thế Hùng Vương làm vua, đặt tên nước mới là Âu Lạc. Quốc gia Âu Lạc ra đời khoảng đầu thế kỷ III tr.CN.
Nước Âu Lạc là bước kế tục và phát triển cao hơn của nước Văn Lang và trên một phạm vi rộng lớn hơn của người Việt và người Tây Âu. Tổ chức bộ máy nhà nước và các đơn vị hành chính dưới thời Âu Lạc vẫn chưa có gì thay đổi khác với thời Văn Lang của các Vua Hùng. Đứng đầu nhà nước là Thục An Dương Vương. Dưới đó, trong triều vẫn có các Lạc hầu giúp vua cai quản đất nước. Ở các địa phương (bộ) vẫn do các Lạc tướng đứng đầu quản lý. Đơn vị hành chính cấp cơ sở vẫn là các công xã nông thôn (kẻ, chiềng, chạ).
Mặc dù nước Âu Lạc tồn tại không lâu, chỉ trong khoảng từ năm 208 đến năm 179 tr.CN, nhưng về các mặt vẫn tiếp tục được phát triển trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được thời Văn Lang, nhất là trên lĩnh vực quân sự.
Theo tài liệu khảo cổ thì An Dương Vương xây dựng được một đạo quân khá mạnh sử dụng thành thạo cung tên. Các loại vũ khí phong phú, đa dạng và hơn vạn mũi tên đào được ở chân thành Cổ Loa đã chứng tỏ điều đó. Âu Lạc còn có thuỷ quân và được luyện tập khá thường xuyên. Sau khi nước Âu Lạc ra đời, Thục An Dương Vương đã chọn Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) làm Kinh đô và cho xây dựng thành Cổ Loa kiên cố, trở thành trung tâm của nước Âu Lạc và là một căn cứ quân sự vững chắc, lợi hại.
Thành Cổ Loa nằm ở vị trí trung tâm đất nước vàlà đầu mối của các hệ thống giao thông đường thuỷ. Ở đây có sông Hoàng chảy qua thuận lợi cho việc đi lại quanh vùng, rồi toả đi các nơi, theo sông Hồng, sông Đáy xuôi về đồng bằng rồi ra biển cả hoặc xuôi sông Cầu qua sông Thương, sông Lục Nam lên vùng rừng núi Đông Bắc v.v...
Thành Cổ Loa gồm có 3 vòng thành chính khép kín (thành nội, thành trung, thành ngoại). Thành nội (vòng trong cùng) hình chữ nhật, có chu vi 1650 mét, cao khoảng 5 mét, mặt thành rộng từ 6 đến 12 mét, chân rộng từ 20 đến 30 mét. Thành nội chỉ có 1 cửa thành. Trên mặt thành có 18 ụ đất nhô ra ngoài để làm vọng gác. Những vọng gác này được đắp cao hơn mặt thành từ 1 mét đến 2 mét. Thành trung có 5 cửa. Ở đây cũng có một số ụ đất đắp cao hơn để làm vọng gác. Thành ngoại (vòng ngoài cùng) dài 8 km, cao từ 4 đến 9 mét. Chân thành rộng từ 12-20 mét. Thành có 3 cửa ra vào. Cả 3 vòng thành đều có hào ở phía ngoài. Cả ba hào được nối liền với nhau và nối với sông Hoàng để bảo đảm quanh năm đều có nước, và làm tăng thêm sự hiểm yếu của Kinh thành Cổ Loa. Giữa các vòng thành và phía ngoài thành ngoại có nhiều ụ đất và luỹ chắc chắn.
Với vị trí kiên cố và lợi hại đó, thành Cổ Loa đã góp phần vào chiến thắng vẻ vang của nhân dân Âu Lạc chống các cuộc xâm lược của quân Triệu (trước năm 179 tr.CN).
Quốc gia Văn Lang-Âu Lạc tồn tại trên dưới 500 năm tr.CN. Bằng sức lao động sáng tạo và đấu tranh kiên cường, bền bỉ, người Việt cổ đã xây dựng được cho mình một đất nước phát triển với nhiều thành tựu kinh tế và văn hóa làm nền tảng cho một nền văn minh bản địa đậm đà bản sắc dân tộc.
Trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước và kết cấu xóm làng bền chặt, cư dân Văn Lang-Âu Lạc tiến hành khai hoang, làm thuỷ lợi, chống ngoại xâm và các hoạt động khác. Cũng từ đó, người Việt cổ bấy giờ đã định hình cho mình một lối sống, cách ứng xử, tâm lý, tôn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật, toát lên những đặc điểm của đời sống văn hóa vật chất và tinh thần đặc sắc.
Về đời sống vật chất, thóc gạo là nguồn lương thực chủ yếu của cư dân Văn Lang - Âu Lạc, chủ yếu là gạo nếp. Người bấy giờ dùng gạo nếp để thổi cơm, làm bánh chưng, bánh giầy. Nhiều tài liệu đã ghi lại sự việc trên. Sách Lĩnh nam chích quái ghi rằng ở thời Hùng Vương sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Rất nhiều chiếc chõ gốm dùng để thổi xôi đã tìm thấy ở các địa điểm thuộc văn hóa Đông Sơn.
Ngoài thóc gạo là nguồn lương thực chính, cư dân Văn Lang-Âu Lạc còn sử dụng các loại cây có củ cung cấp chất bột như củ từ, khoai lang, sắn, củ mài, khoai sọ, rau quả. Lúc thiếu thốn người ta còn dùng các loại cây có bột khác như cây quang lang, búng, báng.
Thức ăn cũng khá phong phú gồm các loại cá, tôm, cua, ốc, hến, ba ba, các loại rau củ (bầu, bí, cà, đậu…). Thức ăn được chế biến bằng nhiều cách khác nhau theo sở thích từng vùng, từng gia đình (đun nấu, nướng, muối, ăn sống…). Nghề chăn nuôi và săn bắn phát triển đã cung cấp thêm nguồn thức ăn có nhiều chất đạm cho mỗi gia đình. Cư dân bấy giờ đã biết chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm ở mỗi nhà (trâu, bò, lợn, gà, chó…). Trong số đồ ăn quen thuộc của cư dân Văn Lang –Âu Lạc còn có nhiều loại hoa quả vùng nhiệt đới như vải, nhãn, mơ, mận, chuối, dưa hấu, cam, quýt… Nguồn lương thực và thực phẩm của người Việt cổ thực phong phú, đa dạng, rất giàu chất bột, chất đạm và nhiều chất bổ khác, trong đó lúa gạo là chính. Đây là một biểu hiện của cuộc sống vật chất được nâng cao, cũng là một biểu hiện của sự phát triển kỹ thuật canh tác nông nghiệp của cư dân bấy giờ.
Thời Hùng Vương, người ta cũng đã biết sử dụng nhiều thứ gia vị có nguồn gốc thực vật như gừng, hẹ, riềng, tỏi.
Trong tập quán ăn uống của người Việt cổ bấy giờ phải kể đến tục uống rượu và ăn trầu. Rượu được nhắc nhiều trong các thư tịch cổ, truyện dân gian. Người Văn Lang có thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen. Dấu tích hạt cau, quả cau được tìm thấy ở Đông Sơn.
Trang phục của cư dân Văn Lang- Âu Lạc đã phản ánh một phần trình độ phát triển, đầu óc thẩm mỹ và bản sắc văn hóa của người Việt cổ. Do nghề dệt rất phát triển, người Việt cổ đã sản xuất được nhiều loại vải khác nhau từ sợi đay, gai, tơ tằm, bông, nên đã đáp ứng được nhu cầu may mặc của nhân dân. Trong sinh hoạt đời thường, nam thường đóng khố, nữ mặc váy. Khố của nam giới có loại quấn đơn và loại quấn kép. Váy của nữ giới có loại váy quấn và loại váy chui được làm từ một mảnh vải dài, rộng. Nhiều tượng người đàn ông thổi khèn ngồi trên cán đèn Việt Khê hay các tượng người mặc váy dài trên thạp đồng Đào Thịnh đã phản ánh kiểu mặc đó. Phụ nữ ngoài mặc váy còn có yếm che kín ngực, áo xẻ giữa, thắt lưng quấn ngang bụng và khăn quấn đầu.
Vào các ngày lễ hội, trang phục của nam nữ đẹp đẽ hơn: Có mũ lông chim, váy xoè kết bằng lông chim hoặc lá cây và mang nhiều đồ trang sức đẹp (Khuyên tai, hạt chuỗi, nhẫn, vòng tay, vòng ống chân bằng đá, đồng). Sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của nghề thủ công và kỹ thuật luyện kim đã tạo điều kiện làm phong phú, đa dạng các đồ trang sức. Mặt khác, sự phong phú và dùng phổ biến nhiều loại đồ trang sức đẹp cũng chứng tỏ đời sống vật chất cư dân Văn Lang-Âu Lạc được nâng cao rõ rệt. Về đầu tóc của người bấy giờ có 4 kiểu: Kiểu tóc cắt ngắn, búi tó, tết bím và quấn tóc ngược lên đỉnh đầu. Trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) có tượng nam tóc cắt ngắn ngang vai để xoã. Ở trống đồng Cổ Loa cũng có hiện tượng tương tự. Lối cắt tóc ngắn đến ngang lưng để xõa khá phổ biến ở nam giới thời bấy giờ. Búi tóc cũng rất phổ biến ở cả nam giới và nữ giới. Nhiều người còn có kiểu chít một dải khăn nhỏ giữa trán và chân tóc, hoặc có đuôi khăn thả dài phía sau.
Có thể nghĩ rằng, kiểu tóc cắt ngắn buông xõa sau lưng và búi tóc cao là hai kiểu tóc phổ biến nhất của người thời Văn Lang.
Nhà ở có nhiều kiểu cách như nhà sàn, nhà mái cong làm bằng gỗ, tre, nứa. Trên trống đồng Đông Sơn ta thấy có 2 kiểu nhà: nhà sàn mái cong hình thuyền và mái tròn hình mui thuyền, sàn thấp, mái rũ xuống như mái tranh đến tận sàn, có cầu thang lên xuống. Mỗi công xã nông thôn bao gồm một số nhà sàn quần tụ bên nhau trong một địa vực, hình thành những xóm làng định cư lâu dài mà thời đó thường gọi là kẻ, chạ, chiềng.
Trong sinh hoạt gia đình, các vật dụng rất phong phú gồm rất nhiều loại khác nhau như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát bằng đồ gốm hay bằng đồng. Ngoài ra, có những đồ đựng làm bằng tre, nứa, mây, vỏ bầu v.v…
Phương tiện giao thông chủ yếu là thuyền bè trên các con sông, rạch. Thuyền có thuyền độc mộc, thuyền ván với các kiểu loại khác nhau: thuyền chiến, thuyền tải, thuyền bơi trải. Trên bộ còn sử dụng súc vật như voi, trâu, bò, ngựa.