Đề bài: Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu trong đoạn trích "Tức nước vỡ bờ"
Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2021 môn Ngữ văn lớp 8 gồm dàn ý, 5 bài phân tích mẫu và sơ đồ tư duy, giúp học sinh lớp 8 có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2021 - bài văn mẫu 1
“Tắt đèn” là một tác phẩm đặc sắc của nhà văn Ngô Tất Tố phản ánh về đời sống của nông dân Việt Nam trong những năm bị thực dân Pháp đay nghiến xâm lược. Tuy chịu nhiều khổ đau vì bị áp bức, bóc lột nhưng người nông dân dưới con mắt của Ngô Tất Tố vẫn sẵn sàng đứng lên để chống lại cường hào áp bác. Và điều đó được thể hiện rõ qua đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” mà tiêu biểu là với hình ảnh của nhân vật chị Dậu.
Nhân vật chị Dậu trong “Tức nước vỡ bờ” đã lột tả bộ mặt của xã hội lúc bấy giờ vô cùng tàn ác. Một mùa sưu cao thuế nặng, bóc lột tới tận xương tủy của người nông dân khiến họ không còn lối thoát phải vùng lên đấu tranh đòi sự sống cho mình. Bởi mọi sự nhẫn nhịn, chịu đựng lúc này đều là vô nghĩa, buộc lòng người dân phải vùng lên để phản kháng lại sự bóc lột của chế độ lúc bấy giờ. Mở đầu trích đoạn “Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu đón anh Dậu chồng mình về nhà sau bao ngày bị giam cầm ngoài đình làng vì không có tiền nộp thuế thân. Người anh Dậu sau những trận đòn roi chỉ còn da bọc xương xanh xao vàng vọt. Giữa thời kỳ đói khổ nghèo khó đó người phụ nữ như chị Dậu phải biến thành người trụ cột cho gia đình vừa lo cho chồng, chăm sóc ba đứa con thơ. Chị Dậu chạy vạy khắp nơi để lo cho đủ xuất thuế thân của chồng mình, lo cho anh được về nhà thuốc thang.
Những tưởng thế là thoát tội nhưng than ôi bọn quan lại đó lại tới nhà đòi bắt anh Dậu đi vì suất thuế của người em trai chồng chết từ tháng giêng nhưng vẫn phải nộp thuế. Không chỉ bóc lột người sống bọn quan lại, đại diện của tầng lớp bóc lột mất tính người đó còn định ăn của cả người chết. Vì người chết mà người sống phải khốn đốn, cùng cực khốn khổ. Nhân vật chị Dậu cho chúng ta suy nghĩ là người phụ nữ vô cùng chịu thương chịu khó, chị thương chồng thương con, mong muốn tìm đủ mọi cách để cứu chồng. Trong gia đình có gì đáng giá chị đều bán đi để lo suất thuế thân cho anh Dậu những mong cứu anh qua cảnh khốn cùng này. Chị Dậu bán chó mẹ và một đàn chó con chỉ được hơn một đồng, rồi chị không còn cách nào khác chị Dậu buộc lòng bán đứa con gái đầu lòng của mình mới có 6-7 tuổi cho người ta làm giúp việc kiếm thêm tiền chuộc chồng khỏi cảnh tù tội, bị đánh đập mỗi ngày. Lòng người mẹ thật xót xa khi phải mang con mình đi bán cho người ta. Khi nghe những lời con bé van xin mình, chị chỉ biết khóc, bởi chị đã bị dồn tới đường cùng. Chị van xin con bé “Con có thương thầy thương u?” con bé chỉ mới 6-7 tuổi thôi nhưng nó dường như già trước tuổi. Nó biết mình không thể nào thoát cảnh bị bán nên chỉ cam phận đi theo mẹ sang nhà Nghị Quế.
Lo chạy vạy khắp nơi bán cả đàn chó, bán cả con mới đủ tiền cho chồng về nhà vậy mà giờ đây chị Dậu phải đối diện với việc anh Dậu lại bị trói bắt đi vì suất thuế của người em đã chết. Chị van xin chúng tha cho chồng chị, chị xưng ông- con với chúng nó, thể hiện một cái nhìn nhún nhường, xuống nước của một người dân thấp cổ bé họng trong xã hội. Nhưng chúng không có tính người cũng không có lòng thương, chúng vẫn nhăm nhe bắt anh Dậu đi. Chị Dậu không còn cách nào chị đã lên giọng xưng hô Tôi - Ông thể hiện sự ngang hàng của mình với chúng. Chị Dậu muốn đòi quyền làm người của mình “Chồng tôi đau ốm các người không có quyền” Nhân vật chị Dậu trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã thay đổi thái độ của mình, thể hiện sự vùng lên của người nông dân. Khi mà “con giun xéo mãi cũng quằn” chị càng van xin chúng càng lấn tới thì còn có cách chị phải vùng lên mà thôi. Vùng lên đòi quyền làm người, quyền sống cho mình và người thân trong gia đình.
Trước thái độ công kích đó của chị Dậu, bọn binh lính càng tức tiết chúng lao tới định trói tay anh Dậu mang đi. Chị Dậu xắn tay áo nói “Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem” một thái độ đanh thép, xưng hô đã thay đổi rất nhiều giờ đây chị Dậu cho mình cái quyền được ở trên bọn binh lính, chị xưng bà với bọn chúng, thể hiện sự cương quyết trong việc bảo vệ chồng của mình. Cùng với lời nói chị Dậu đã sấn tới lôi cổ một tên lính đẩy ra ngoài cửa khiến cho tên lính ngã chỏng gọng chúng lồm cồm bò dậy rồi đi mất. Sự phản ứng mạnh mẽ của chị Dậu khiến cho bọn chúng sợ mà không dám bắt anh Dậu đi nhưng đây chỉ là sự phản ứng nhất thời mang tính bộc phát không phải là sự phản kháng có đường lối chủ đích. Nhưng nó cho thấy sự phản kháng của người nông dân khi bị xô đẩy tới đường cùng.
Như vậy, có thể nói, nhân vật chị Dậu trong “Tức nước vỡ bờ” tuy là người phụ nữ yếu đuối nhưng có tình yêu thương chồng con vô cùng mãnh liệt chính vì tình yêu đó mà chị không ngại vùng lên bảo vệ người thân của mình. Cho thấy rằng người dân dù nghèo khổ, nhút nhát nhưng khi tới đường cùng họ cũng có những sức mạnh vô cùng to lớn có thể phát huy. Chị Dậu trong trích đoạn “Tức nước vỡ bờ” là người phụ nữ tiêu biểu cho những người phụ nữ, người nông dân lao động nghèo khổ trong thời kỳ trước khi cách mạng tháng Tám diễn ra. Khi đọc tác phẩm ta hiểu hơn về hoàn cảnh sống và những khốn khổ mà người nông dân như chị Dậu phải đối mặt trong thời kỳ phong kiến thực dân cũ.
Quảng cáo
7 câu trả lời 459
Dàn ý Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2021:
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật cần phân tích: Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc viết về đề tài người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám. Những tác phẩm của ông được giới phê bình đánh giá cao, vừa giàu giá trị nội dung và đặc sắc về nghệ thuật viết truyện. Trong đoạn trích " Tức nước vỡ bờ" trong tiểu thuyết " Tắt đèn", nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu.
II. Thân bài
a. Hoàn cảnh sáng tác
- Tác phẩm "Tắt đèn" viết năm 1936, xã hội bấy giờ là thực dân nửa phong kiến, người nông dân phải chịu nhiều tầng áp bức. Đời sống nhân dân đói khổ, bần cùng, đất nước lầm than, nô lệ.
- Nhân vật chị Dậu đã góp một mảng màu chân thực vào hiện thực bấy giờ, đồng thời còn thể hiện chiều sâu tư tưởng và nhân đạo của nhà văn.
b. Phân tích nhân vật chị Dậu
* Số phận
- Có hoàn cảnh đáng thương.
- Là người nông dân nghèo, vì gánh nặng sưu thuế mà phải bán hết gánh khoai, ổ chó và đứa con gái là cái Tý cho ông Nghị Quế nhưng chỉ đủ nộp sưu cho chồng. Chú Hợi là anh ruột của anh Dậu chết từ năm ngoái nhưng cũng không tránh khỏi nộp sưu.
- Anh Dậu đang ốm nặng, bọn cường trói anh suốt ngày đêm sai tay chân vác anh về như cái xác chết rũ rượi. Mọi gánh nặng đổ dồn lên vai chị.
- Gánh nặng sưu thuế đã dồn người nông dân vào cuộc sống lầm than cơ cực. Đó là giai đoạn với bao nỗi kinh hoàng khi bọn thực dân phong kiến ra sức bóc lột nông dân với đủ mọi thứ thuế. Chị Dậu cũng như bao người nông dân bấy giờ là nạn nhân trong xã hội ấy.
* Phẩm chất
- Người vợ, người mẹ giàu tình yêu thương
+ Trong cơn nguy kịch, chị Dậu tìm đủ mọi cách để cứu chồng. Khi chồng ốm, trước hàng loạt những tiếng trống thúc thuế, chị vẫn khẩn khoản, thiết tha mời chồng: " Thầy em cố gắng ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột". Hành động ấy chứa đựng biết bao tình yêu thương vỗ về.
+ Dũng cảm chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng
+ Bán đi đứa con mình đứt ruột đẻ ra, lòng người mẹ nào không đau cho được. Lòng chị chắc hẳn luôn quặn thắt luôn nhói đau.
- Người phụ nữ đúng mực có cương có nhu.
+ Lúc đầu khi bọn cường hào tới chị hạ mình van xin, lúc thì run run xin khất, lúc thì thiết tha xin chúng xem lại
+ Tên cai lệ " Rút dây thừng trong tay anh hậu cần lý trưởng, hắn chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu để bắt trói điệu anh ra đình". Tức nước vỡ bờ, để bảo về chồng cũng như nhân phẩm chị đã kiên quyết chống cự: " Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem". Cách xưng hô thay đổi. Từ chỗ nhún mình chị đã vùng lên. Tên cai vệ bị chị Dậu túm cổ ấn dúi ra cửa, ngã chỏng queo trên mặt đất.Tên hậu cận lý trưởng bị chị túm túc lăng cho một cái, ngã nhào ra thềm. Chị nói " Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được. Con giun xéo mãi cũng quằn, bị dồn tới bước đường cùng người nông dân phải tự giải thoát cho mình.
* Đánh giá
Với nghệ thuật xây dựng nhân vật, sử dụng vốn từ ngữ giàu có sinh động, Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, qua đó thể hiện chiều sâu nhân đạo cũng như triết lý: Có áp bức thì sẽ có đấu tranh.
III. Kết bài
Cảm nhận của em về nhân vật: Chị Dậu đã để lại trong ta những ấn tượng sâu sắc. Qua đó ta thêm hiểu hơn về cuộc sống của người nông dân trong xã hội cũ đồng thời ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2021 - bài văn mẫu 2
Trong nền văn học hiện thực phê phán thời kì 1930-1945 không thể không nhắc tới những cái tên các tác gia nổi bật như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố,… Và có lẽ chúng ta không thể nào quên được hình ảnh chị Dậu - điển hình của người phụ nữ thời kì đó. Đó là hình ảnh một người phụ nữ luôn hết lòng vì chồng con, mang nặng đức hi sinh nhưng không còn sự yếu đuối nhu nhược của người phụ nữ thời kì phong kiến mà đã có sự phản kháng mạnh mẽ chống lại những thế lực luôn chèn ép, bắt buộc những người nông dân thời kì bấy giờ, do đó có lẽ đoạn văn “Tức nước vỡ bờ” là một trong những đoạn văn đắt giá nhất trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố mang nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc để lại trong lòng người đọc cho tới tận hôm nay.
Bối cảnh trong tác phẩm là hình ảnh của làng Đông Xá trong những ngày đang bị bọn lí chủ, cường hào đi thúc giục sưu thuế cho bọn chúng. Mà nhà chị Dậu lại là một trong những gia đình khó khăn nhất trong làng. Vì không thể trả nổi mức thuế cao vô lí mà anh Dậu đã bị bọn chúng bắt trói lại, đánh đập dã man. Cực chẳng đã, chị Dậu đã phải bán đi đàn chó mẹ, chó con cùng đứa con gái lớn nhất cho nhà Nghị Quế với mứa giá rẻ mạt để có tiền cứu chồng ra khỏi tay của bọn cường hào. Qua đây, chúng ta có thể thấy được hình ảnh của một người phụ nữ nông dân tuy thất học nhưng luôn hết lòng vì chồng, phải cáng đáng công việc mà đáng lẽ ra dành cho người đàn ông trong gia đình.
Mở đầu đoạn trích là hình ảnh anh Dậu bị trói trên cây cột giữa sân đình, đang thoi thóp, kiệt quệ, không thể chống đỡ được sự đau đớn, mỏi mệt cả về thể xác và tinh thần. Khó khăn lắm, chị Dậu mới có được chút tiền bạc để nộp sưu. Ấy vậy mà bọn cường hào, tay sai của “ông Lý” lại lôi anh Dậu ra vứt ở ngoài sân, trao trả lại cho chị và đòi chị phải nộp thêm thuế đinh của người em trai chồng đã mất từ năm ngoái. Đó là một điều đòi hỏi vô lí, thế nhưng chị vẫn phải nhẫn nhục. Đau khổ là thế, lo lắng là thế nhưng chị vẫn cố dặn lòng, cố gắng đưa cho chồng bát cháo loãng, dù chính mình còn chưa có gì ăn, Chị chỉ nhẹ nhàng bảo với chồng : “Thầy em cố gắng dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột” . Lời của người đàn bà nhà quê tuy mộc mạc nhưng lại mang biết bao tâm tư, tình cảm mà ít ai sánh được. Thậm chí, chị còn bế cái Tửu ngồi cạnh chồng để nhìn xem anh ăn có được hay không, có ngon miệng không . Tình cảm của chị phải son sắt, giàu đức hi sinh như thế nào mới có thể được như vậy trong lúc hoàn cảnh khó khăn, đầy ngang trái như vậy. và có lẽ chính tình yêu thương bao la ấy đã tạo cho chị sức mạnh phi thường chống lại bọn tay sai khi chúng tiến vào, định cưỡng ép tới bước đường cùng hoàn cảnh của anh chị.
Đám tay sai khi tiến vào cùng roi da, gậy gộc, điều làm đầu tiên của chị là nghĩ tới người chồng đáng thương của mình. Chị lo lắng anh không thể chịu nổi bất cứ trận đánh nào nữa. anh đã hoàn toàn kiệt sức sau đêm qua. Chị chỉ có thể cầu xin bằng giọng nói run run, đầy hèn mọn, nài nỉ:” hai ông làm phúc nói với ông Lý xin cho cháu khất”. chị cư xử như vậy là bởi vì chị biết hoàn cảnh của mình bấy giờ, vì chị chỉ là một người phụ nữ nông dân như bao con người khác mà thôi. Lúc này chị không còn nghĩ được gì ngoài ý chí sôi sục phải bảo vệ gia đình của mình, bảo vệ người chồng đau ốm cũng những đứa con thơ dại. thế nhưng, những tên tay sai ấy đâu còn chút tình người nào. Chúng bỏ ngoài tai lời van xin của chị, chúng gạt chị ra, định tiếp tục trói anh Dậu dẫn đi, lúc này đây, chị đã phải quỳ xuống cầu xin :” cháu xin ông, nhà cháu mới tình được một lúc”. Nhưng hắn lại tát chị và một mực đòi xông về phía anh Dậu vừa mới tỉnh lại trong chốc lát. Tới đây, chị đã không thể nín nhịn được nữa. Sự phản kháng của chị đi theo mức độ tăng dần lên. Đầu tiên, chị ngăn bọn chúng lại và nói “ chồng tôi đau ốm, các ông không được phép hành hạ”. chỉ một câu nói thôi nhưng đã như một lời cảnh cáo của chị về hành động của bọn chúng. Thế nhưng càng nhẫn nhịn thì bọn chúng lại càng lấn tới. Hắn “ bịch luôn vào ngực chị mấy bịch” rồi “ tát vào mặt chị một cái đánh bốp” rồi vẫn xông về phía anh Dậu. đến lúc này, chị Dậu đã không còn giữ được bình tĩnh nữa, chị lao về phía chồng, gạt bọn tay sai ra, hai tay chống nạnh nói “ mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem”. Đúng như câu nói “Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu từ cách xưng hô đầy nhỏ bé, hèn kem, xưng cháu gọi ông, sau đó chị xưng là “tôi”, và cuối cùng là “bà - mày”. Có thể có người cho rằng chị Dậu là một người phụ nữ đanh đá thế nhưng có thể nói rằng, ít ai có thể hành động được như chị. Chị lao vào những tên muốn bắt chồng chị rồi đánh nhau với chúng. Sức mạnh thật sự của người phụ nữ trỗi dậy khi họ bắt buộc phải bảo về những người thân yêu xung quanh mình,, và cũng có lẽ do chị đã không thể nín nhịn được thêm nữa, chị đã bị buộc vào bức đường cùng. Thậm chí dù chồng chị có khuyên, chị cũng vẫn đanh thép làm theo bản năng của chị, chị thà ngồi tù chứ quyết không để bị chèn ép, bị ép buộc. cũng như nhà Nguy
Sơ đồ tư duy Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2021:

Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2021 - bài văn mẫu 3
Ngô Tất Tố được coi là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông đều tập trung khai thác cuộc sống nghèo khổ của người nông dân trước cách mạng qua đó bộc lộ được tâm lí và vẻ đẹp của người nông dân. Một trong số những tác phẩm nổi tiếng của ông chính là tiểu thuyết “ Tắt đèn” đặc biệt là đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã làm sáng rõ hình ảnh chị Dậu- một người phụ nữ mạnh mẽ kiên cường.
Trước tiên chị Dậu hiện lên là một người phụ nữ có cuộc sống vô cùng khổ cực, bị đày đọa bởi sưu cao thuế nặng. Gia đình chị vì không nộp đủ thuế của người em chồng đã chết từ năm ngoái nên anh Dậu bị bắt đi và bị hành hạ đánh đập dã man. Người phụ nữ ấy đã phải bán hết mọi thứ trong gia đình, bán cả đàn chó mới sinh để lo tiền chạy cho anh Dậu. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ và chị Dậu phải nuốt nước mắt để bán đứa con mà mình đứt ruột đẻ ra cho nhà phú ông. Hình ảnh chị Dậu là hiện thân cho những người phụ nữ trước cách mạng có cuộc sống khổ đau, bị xã hội đày đọa đến bước đường cùng. Chúng bắt người nông dân phải nộp thuế cao ngất ngưởng và đầy vô lí, nếu không nộp đủ sẽ bị lôi ra đình chịu trận. Đồng thời qua đây ta cũng thấy hình ảnh chị Dậu hiện lên là một người thương chồng thương con hết mực, người phụ nữ của gia đình với biết bao lo toan trong cuộc sống.
Đặc biệt, hình ảnh chị Dậu hiện lên trong đoạn trích là một người phụ nữ mạnh mẽ mang trong mình sức sống tiềm tàng sức phản kháng và tấm lòng dũng cảm chống lại cái ác. Đúng như nhan đề của đoạn trích “ Tức nước vỡ bờ”, khi con người bị đẩy đến bước đường cùng, không thể chịu đựng được nữa thì sẽ vùng lên đấu tranh quyết liệt. Nhà văn đã miêu tả rất tinh tế từng cử chỉ, lời nói, hành động của nhân vật chị Dậu khi phản kháng lại bọn cai lệ và lí trưởng. Khi thấy chồng chị bị chúng hành hạ, chị từ việc xưng hô “ ông- cháu” đã chuyển thành “ tôi” và cuối cùng là “ bà- mày” . Chỉ cách xưng hô đấy thôi cũng đã cho thấy chị đã có tinh thần phản kháng, không chịu nhu nhược để yên cho chúng bắt nạt. Rồi người phụ nữ mạnh mẽ ấy chỉ trong chốc lát đã đánh trả được hết bọn cai lệ khiến chúng sợ hãi và bỏ chạy…
Như vậy, hình ảnh chị Dậu hiện lên thật đẹp thật đáng ngưỡng mộ và trân trọng. Mặc dù có cuộc sống nghèo khổ nhưng ở người phụ nữ này vẫn luôn toát lên tình thương yêu gia đình, sự nhẫn nhịn chịu đựng và đặc biệt là tinh thần phản kháng mãnh liệt chống lại thế lực bạo tàn. Chính những người nông dân như chị Dậu này sẽ làm tiền đề để cho cuộc cách mạng tháng Tám mở ra và thành công vang dội.
Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2021 - bài văn mẫu 4
“Tắt đèn” là bản tố khổ chân thật, sâu sắc, chan hòa nước mắt và lòng căm phẫn của người nông dân nghèo bị bóc lột, đàn áp. Có lẽ chính nhà văn Ngô Tất Tố cũng không cầm được nước mắt. Cái đáng quý ở nhà văn này là thái độ phẫn nộ với giai cấp bóc lột và lòng thương người mênh mông!
“Tức nước vỡ bờ” vốn là câu tục ngữ mang tính quy luật tự nhiên (nước đã dâng lên cao thì bờ ngoài vỡ nhưng cũng có ý nghĩa xã hội sâu sắc..., Người ta đã vận dụng câu tục ngữ này làm tiêu đề, tên gọi của một đoạn trích hết sức điển hình trong tiểu thuyết Tắt đèn.
Tình huống dẫn đến cảnh “Tức nước vỡ bờ” có ngay ở giữa nhà Lí trưởng, chị Dậu, nạn nhân trực tiếp của cái thuế thân quái gở kia đã uất nghẹn kêu lên:
“Ối trời ơi! Tôi bán cả con lẫn chó và hai gánh khoai mới được hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đủ tiền nộp sưu cho chồng, thì chồng khỏi bị hành hạ đêm nay. Ai ngờ lại còn suất sưu của người chết nữa! Khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tôi chết rồi còn phải đóng sưu hở trời?...”
Như thế là hoàn cảnh đưa đến cảnh “tức nước” là do những trận bão tố từ cái chính sách thuế thân quái gở của bọn thực dân Pháp và những thủ đoạn bóc lột trắng trợn của gia đình Nghị Quế, và hành động đánh trói dã man của bọn lính tráng, tuần đinh, người nhà tên Lí trưởng dội xuống đầu chị Dậu!
Chúng dồn chị đến con đường cùng, khi anh Dậu bị ném ở đình về nằm khóc con, khóc em, khóc số phận mình. Nhưng chị Dậu đã khuyên giải “Thịt người tanh không ai ăn được, thầy em cứ yên tâm nằm nghỉ không phải lo lắng gì cả”.
Như vậy là mức nước đã dâng lên rất cao, cái thời điểm “vỡ bờ” chỉ còn chờ đợi từng giây phút. Người đàn bà ấy đã phải chịu nỗi đau đứt ruột vì phải bán đàn chó và bán con đi mà vẫn không giải quyết được nạn sưu thế. Nhất là khi bọn chúng vất anh Dậu về nhà chỉ còn như cái xác chết, người hàng xóm cho bát gạo, chị nấu cháo vội để “cứu chồng” (bát cháo lúc này vừa là bát cơm vừa là chén thuốc). Nỗi lo của chị như vừa lắng dịu xuống một chút, vì anh Dậu vừa tỉnh lại, run rẩy cất bát cháo vào miệng định ăn thì chúng sầm sập tiến vào nhà, trong tay là roi song, dây thừng, hình ảnh chúng như bọn quỷ dữ từ âm phủ hiện về chúng hét “Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!”.
Thế là cái giọng khàn khàn chỉ hút xác thuốc phiện đã dập tắt ngay sự yên ổn của chị Dậu và hơi tàn của anh Dậu! Anh “lăn đùng ra đó, không nói được câu gì”. Trước tình cảnh ấy, chúng chẳng có chút gì mủi lòng mà còn quát mắng, chửi bới, đe dọa chị Dậu. Chúng gọi chị là “mày” xưng “cha” rồi xưng “ông” với chị. Chúng dọa “dỡ nhà” và “trói cổ anh Dậu điệu ra đình”! Cuối cùng tên cai lệ giật phắt cái dây thừng trong tay người nhà Lí trưởng sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu. Đểu cáng và tàn ác hơn nữa, hắn “bịch vào ngực chị mây bịch” và tát vào mặt chị. Thái độ của chị Dậu đã căm giận lắm, nhưng để bảo vệ chồng, chị van xin, ngăn cản, đỡ đòn cho chồng. Mỗi lần chị lùi lại van xin, tên cai lệ càng hung hăng thêm. Vừa đánh, vừa chửi hắn nhảy đến cạnh anh Dậu. Hành động và cử chỉ của tên tay sai mạt hạng chính là ngọn gió gây nên cảnh “tức nước vỡ bờ”. Bão táp đã đến độ con bờ phải “vỡ”. Sau cái tát vào mặt chị và thêm những lời nói thô lỗ, khốn nạn của hắn như: “mày định nói cha mày nghe đấy à”, “trói cổ thằng chồng lại”. Chị không chịu được nữa bèn túm lấy cổ hắn dúi ra cửa, hắn “ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng lảm nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu”!
Như vậy, chị Dậu là biểu tượng cho những đợt sóng cồn, nước cả có sức mạnh công phá con bờ. Và bọn lính tráng, tay sai chỉ cậy sức mạnh ở cường quyền, bạo lực, còn bản chất của chúng thì hèn yếu, từ cái dáng hình bề ngoài đến lòng dạ bên trong!
Tình huống xảy ra như không thể ngờ chị Dậu lại chống cự mạnh mẽ đến như thế! Lúc đó chị đang tập trung nói ý nghĩ và cử chỉ là an ủi chồng. “Thầy em cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột” thì bọn cai lệ dẫn xác vào. Mặc cho chúng quát tháo chị vẫn dịu dàng van xin chúng bằng những lời có tình, có lí: “Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu cho chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bê tiền sưu của nhà nước đâu”... Nếu những con người có lương tri nhìn cái gia cảnh ấy, con người ấy ai nỡ đầy đọa đến bước đường cùng? Nhưng bọn này là tay sai, ở chúng không có khái niệm “tình thương người” nên chúng chỉ biết ăn nói thô tục, quát tháo ầm ĩ, đánh người bừa bãi, chúng có biết đâu rằng có giết vợ chồng chị đi thì cũng không còn đồng xu nào nộp suất sưu vô lí nữa. Chị gọi chúng là “ông” và tự xưng là “cháu” và đã hai lần chị xin chúng: “Hai ông làm phúc cho nhà cháu khất”... “Nhà cháu đã không có, xin ông xem lại... “ Như vậy một bên là cố gắng kìm nén, một bên cứ cậy thế chính quyền, luật pháp mà mắng chửi, xô người đến con đường cùng.
Cho nên tình huống đã trở nên không thể nào khác là “cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng”. Sau khi bị tên cai lệ đánh và hắn đe dọa không tha anh Dậu, chị Dậu vùng lên trở thành người đàn bà đanh đá, quyết liệt chống lại bọn chúng: từ chỗ xưng “cháu” với “ông” chị gọi chúng là “mày” và xưng “bà” nói những câu áp đảo lại chúng: “Ông không được phép”, “Mày trói ngay chồng bà đi bà cho mày xem”. Nói là làm, chị đã đánh ngã cả hai thằng cả hai tên “đại diện” cho sự thống trị khốn nát nhất.
Khi nghe chồng than thở và can ngăn chị đã nói một câu chứng tỏ lòng căm thù của những người bị áp bức bóc lột đã lên đến tột đỉnh: “Thà ngồi tù. Để cho chúng làm tình, làm tội mãi, không chịu được”. Câu nói là sự thách thức tất cả, không còn sợ gì nữa!
Qua đoạn trích trên đây ta thấy nhà văn đã cắt nghĩa bằng hành động của chị Dậu một quy luật xã hội “ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh”. Vì vậy như trên đã nói, câu tục ngữ “tức nước vỡ bờ” có ý nghĩa về mặt quy luật tự nhiên, và cũng có ý nghĩa sâu sắc về mặt xã hội.
Vì thế nhà văn Nguy
Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2021 - bài văn mẫu 5
Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc trong dòng văn học hiện thực 1930-1945. Viết về nạn sưu thuế dã man đã bần cùng hóa nhân dân ta, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân, tiểu thuyết “Tắt đèn" của Ngô Tất Tố là một thành công đặc sắc. Nhân vật chị Dậu đã được khắc họa thành một nhân vật điển hình về người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ.
Bình luận về tác phẩm “Tắt đèn”, nhà văn Nguy
Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ năm 2021 - bài văn mẫu 3
An-đéc-xen là nhà kể chuyện cổ tích nổi tiếng của thế giới phương Tây. Ngoài việc sưu tầm ông còn sáng tạo. Cô bé bán diêm là một sáng tác độc đáo, một câu chuyện cổ tích về thời hiện đại, thể hiện tài năng kể chuyện bậc thầy của ông. Thời hiện đại ở đây chính là thời đại mà tác giả sống, thời đại mà con người đã biết chế tạo và sử dụng diêm, con người biết đi lại bằng những cỗ xe song mã, biết tổ chức đón giao thừa với những cây thông Noel lộng lẫy. Câu chuyện Cô bé bán diêm kể về xã hội ấy, kể lại cái chết thương tâm của một cô bé nghèo khổ.
Mở đầu câu chuyện, tác giả giới thiệu một bối cảnh khắc nghiệt và khác thường. Khắc nghiệt bởi vì "trời đã tối hẳn" mà "tuyết rơi" không ngừng, và "rét dữ dội". Khác thường là vì: "Đêm nay là đêm giao thừa" nghĩa là một thời điểm đặc biệt đối với mỗi gia đình và đối với mỗi người. Đêm giao thừa ở đâu cũng vậy, đều là thời điểm mà năm cũ với những buồn vui lẫn lộn lùi vào quá khứ và một năm mới với những hi vọng tràn trề đang chờ đợi mọi người được mở ra. Nhưng đêm giao thừa ở phương Tây rất rét, vì lúc này đang giữa mùa đông. Khắp nơi đầy tuyết phủ, khắp nơi đầy giá lạnh. Ấy thế mà trong cái giá lạnh đó, trong cái đêm giao thừa đó "một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối". Em bé đi đâu vậy? Em phải đi bán diêm vì "nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào" thì "em không thể nào về nhà", bởi lẽ khi đó "nhất định là cha em sẽ đánh em". Bởi vì từ khi "Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tan, và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa". Hơn nữa "ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác sát mái nhũ vã mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở lớn trên vách, gió vẫn thổi ríu vào trong nhà". Như vậy em bé bán diêm này là một em bé có hoàn cảnh nghèo khổ.
Em bé đáng thương không tên tuổi này giống như kẻ lạc loài, bơ vơ trên mặt đất đầy tuyết phủ. "Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em cả". Vì thế "suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương vẫn bụng đói cật rét lang thang trên đường". Em đi dưới trời mưa tuyết tới mức: "bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý" và những người qua đường cũng không ai để ý đến một đứa trẻ đang bị tuyết phủ dần dần. Chắc chắn là em đã đi trong mưa tuyết như vậy rất lâu. Giờ đây em không còn đi được nữa. "Em ngồi nép vào một góc tường giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi vào chút ít", Đó là một nơi mà ai đi qua cũng phải tránh nhưng cũng buộc mọi người phải chú ý. Em bé ngồi chỗ đó với hy vọng sẽ có người chú ý đến em, sẽ có người mua diêm cho em. Xung quanh em "cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay". Mùi ngỗng quay nhắc em "đêm nay là đêm giao thừa". Mùi ngỗng quay còn nhắc em nhớ tới thời kỳ đầm ấm của gia đình em trước đây. Còn hiện tại em đang ngập chìm trong tuyết lạnh. "Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn". "Lúc này đôi bàn tay của em bé bán diêm tội nghiệp "đã cứng đờ ra". Em bé nghĩ tới việc đánh diêm để "hơ ngón tay". Và "em đánh liều một que". Ngọn lửa bùng lên trong đêm giao thừa giá lạnh, mang lại cho em một niềm vui. "Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt". Em bé hơ bàn tay giá lạnh trên ánh lửa nhỏ nhoi của que diêm mà tưởng tượng rằng em đang ngồi trước một cái lò sưởi nơi đó đang "tỏa ra một hơi nóng dịu dàng". Nhưng đây chỉ là một điều mong ước chỉ là một điều mộng tưởng. Bởi lẽ "em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất". "Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em bán diêm". Thật đặng buồn biết bao vì giữa ước mơ và hiện thực là một khoảng cách xa vời. Một cái lò sưởi trong đêm đông giá rét một mái nhà ấm cũng mãi mãi là ước mơ, là khát vọng của em bé.
Cùng với cái rét, cái đói cũng hiện về. Que diêm thứ hai "cháy và sáng rực lên". Que diêm cho em thấỵ: "bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé". Thật hấp dẫn biết bao. Một bữa ăn vừa ngon vừa sang dành cho em bởi vì em đói lắm rồi, song bữa ăn đó cũng chỉ là ước mơ, mộng tưởng. Vì thế khi que diêm vừa tắt thì "thực tế đã thay cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm êm vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm". Bên cạnh em giờ đây chỉ có đói và rét, và để chống lại em dùng ánh sáng và hơi ấm của que diêm. Trong ánh sáng ngắn ngủi của que diêm, em tưởng tượng ra những thứ mình cần, em tạo ra thế giới cho riêng em, bởi lẽ gió rét ngăn cản mọi người đến với em, cái đói cũng ngăn cản những người khác đến với em, trước mặt em cũng như sau lưng em chỉ còn lại "những bức tường dày đặc và lạnh lẽo". Những bức tường câm lặng, những bức tường không biết nói do chính con người tạo ra để che chở cho người này và để tạo ra sự cách ngăn với người khác.
Em bé còn lại một mình trong cái thế giới của em, thế giới đó bị tuyết trắng và đêm đen bao phủ. Để xua đi màn đêm và giá rét, "em bé quẹt que diêm thứ ba". "Em thấy hiện ra một cây thông Nô en", "cây này lớn và trang trí lộng lẫy" với "hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi, và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ"... Cây thông Noel gợi nhớ một truyền thông tặng quà và quan tâm đến trẻ em của phong tục phương Tây, nhưng có lẽ câu chuyện về ông già Nô en cũng chỉ là một huyền thoại xa vời còn trong thực tại em bé bán diêm còn đang ngập chìm trong tuyết lạnh. Em cũng chẳng cần đến những món quà của ông già Tuyết nữa bởi lẽ tuyết và giá rét quanh em đã quá thừa rồi. Que diêm thứ ba cũng tắt. Sự sống của nó cũng quá ngắn ngủi. Nó không xua đi được màn đêm, nhưng màn đêm không thắng nổi nó. Que diêm tắt thì tất cả những ngọn nến mà cô bé bán diêm thấy trên cây thông Nô en cũng "bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời". Khi đó em nghĩ tới cái chết, vì bà em, "người hiền hậu độc nhất đối với em" thường nói: "Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế". Nhưng thật buồn vì bà em đã chết từ lâu. Nhưng cũng chẳng hề gì bởi những người đang sống không ai nghĩ về em, không ai nghĩ đến em thì em đi tìm nguồn an ủi nơi người bà yêu quý. Và thế là em quẹt diêm. "Em thấy rõ ràng là bà em đang cười với em", "em reo lên" và van xin bà "cho cháu đi với", "cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân, cho cháu về với bà. Chắc người không từ chối đâu.
Thật đau đớn xiết bao khi em bé bán diêm bị xã hội bỏ rơi, bỏ quên trong tuyết phủ đã quyết khước từ cuộc sống, quyết tâm tìm về thế giới bên kia. Trong thế giới của những người sống em không có chỗ đứng, không có điều kiện để sống. Bởi lẽ chỉ cần bán được vài bao diêm thôi cũng đủ mang lại cho em cuộc sống, nhưng cả cái thế giới đi xe song mã ấy, cả cái thế giới nấp sau những cánh cửa sổ sáng rực ánh đèn ấy "chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em". Không giao tiếp được với thế giới những người đang sống, em bé bán diêm tìm cách xác lập mối quan hệ giao tiếp với bà em "Em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao để níu bà em lại". Kết quả là "Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn nào đe dọa họ nữa".
Em bé đã chết một cách thê lương như vậy trong đêm giao thừa. Cái chết mang trong nó sức mạnh tố cáo xã hội. Cho dù người ta nhìn thấy trong xó tường "một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Bên cạnh "một bao diêm đã đốt hết nhẵn" thì những người đang sống cũng không thể nào biết được "những cái kỳ diệu mà em bé đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm'. Bởi vì những người đó ngoài việc sử dụng cái đói, cái rét để tạo sự ngăn cách của họ với em bé thì họ còn xây dựng những bức tường hoặc hữu hình hoặc vô hình để tạo ra sự ngăn cách mới giữa họ và em bé. Họ không có quyền được nhìn thấy, được tận hưởng những gì do mộng tưởng của em tạo ra. Bởi vì em thuộc về một thế giới khác. Cái chết của em bé còn là sự phê phán lối sống ích kỷ, có cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà kể chuyện thiên tài.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
4265
-
2862
-
2021
-
1953
-
1572
-
1334
-
1280
-
1236
