Quảng cáo
2 câu trả lời 1028
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là tác phẩm nổi bật nằm trong tập “Thơ Điên” đại diện cho hồn thơ mãnh liệt và luôn sáng tạo dẫu xa lạ với đời thực của Hàn Mặc Tử. Sự sáng tạo ấy thể hiện ngay ở phần mở đầu của bài thơ khi tác giả lại chọn một câu hỏi tu từ để dẫn dắt người đọc vào bức tranh thiên nhiên đầy tâm sự của Vĩ Dạ.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu thơ đầu là lời tự sự chạy theo dòng cảm xúc của chủ thể trữ tình. Đôi chút trách móc, giận hờn cũng là nghệ thuật để tôn lên nét duyên của người con gái. Hoặc có chăng đây chính là lời tự vấn khi từ "anh” được dùng như đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất thể hiện sự nuối tiếc muốn giãi bày. Chính vì giọng thơ rất duyên Đây thôn Vĩ Dạ cảm nhận được đượm chút buồn để rồi kết thúc bằng một dấu chấm hỏi lưng chừng.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ bắt đầu hiện lên rõ nét qua từng hình ảnh thơ cụ thể của tác giả. Từ “nắng” được lặp lại hai lần trong cùng một câu thơ khiến cả thôn Vĩ Dạ như được tắm mình trong màu nắng vàng ấm áp, ấm như chính lòng người nơi đây. Nhà thơ đã đặc biệt miêu tả về hình ảnh “nắng mới lên” như muốn gợi đến sự thanh khiết, tinh tươm của cảnh vật chốn quê nhà.
Bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ không chỉ có “nắng hàng cau” trải dài từng vệt ấm mà còn tươi mới với màu xanh của cây cối nơi đây. Màu xanh được so sánh với màu ngọc như một phép nghệ thuật khéo léo tôn lên vẻ trân quý của bức tranh thiên nhiên xứ mộng mơ. Câu thơ thứ ba nổi bật lên nhờ vào giọng thơ đầy sắc thái ngạc nhiên pha lẫn thích thú của tác giả. Chính vì thế mà người đọc như được bước vào không gian nghệ thuật mà nhà thơ xây lên.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Thiên nhiên dẫu đẹp đến đâu thì cũng sẽ trở nên vô hồn nếu thiếu đi bóng dáng con người. Do đó mà câu thơ cuối của khổ thơ thứ nhất đã làm sống dậy hồn của cả đoạn thơ khi vẻ đẹp con người được miêu tả hòa quyện cùng cảnh vật thiên nhiên.
Ở đây, tác giả đã vô cùng tinh tế khi đưa hình ảnh con người vào bức tranh thiên nhiên một cách thấp thoáng, vừa thực vừa ảo với gương mặt chữ điền vốn là biểu tượng của sự phúc hậu và vừa gần gần vừa xa bởi sự che ngang của lá trúc. Tại sao lại là lá trúc mà không phải bất kì loại lá nào, vì trúc với dáng lá thanh mảnh tượng trưng cho cái đẹp nhẹ nhàng của thiên nhiên.
Có thể nói, khổ thơ đầu chính là một bức tranh thiên nhiên đẹp đúng với vẻ mộng mơ của xứ Huế. Từ đó, gợi lên nỗi niềm nhớ thương về quê hương của nhà thơ.
Khổ thơ thứ hai là sự chuyển biến nội tâm hoàn toàn của nhân vật trữ tình thông qua tứ thơ vận động theo cảm xúc.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Hai câu thơ trên vốn tả cảnh nhưng lại nặng trĩu tâm tình khi tác giả mượn hình ảnh gió và mây để cụ thể hóa tâm sự nơi lòng mình. Gió và mây muôn đời vẫn quấn quýt bên nhau nhưng ở đây hai sự vật này lại chia đôi ngã “gió theo lối gió” để rồi bỏ lại “mây đường mây”. Tiếp đến là hình ảnh hoa rơi nước chảy càng khiến lòng người thêm não nề bởi cảnh vật sao mà vô tình thế khiến lòng người cũng chẳng mấy khá hơn. Đây thôn Vĩ Dạ cảm nhận được mối tình đơn phương của chính chủ thể, chưa gặp đã vội chia lìa:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Trăng với Hàn Mặc Tử là đôi bạn tri âm tri kỉ, trong thơ ông bao giờ cũng có cả một miền trăng như mượn hình ảnh đó để mà giải tỏa niềm đau, chất chứa tâm sự. Qua hình ảnh “sông trăng” độc đáo, dòng sông Hương được nhà thơ miêu tả với tất cả vẻ đẹp đằm thắm, thơ mộng. Bút pháp tả thực mà như ảo của nhà thơ đã khiến dòng sông quê hương không chỉ là một dòng nước mà đây chính là một dòng ánh trăng lấp lánh trải dài.
Kết thúc khổ thơ, Hàn Mặc Tử lại đặt một dấu chấm hỏi lưng chừng nhưng khắc khoải hi vọng. Từ “kịp” được tác giả sử dụng rất đắt, thể hiện tâm trạng lo âu của chính nhà thơ. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp vào tối nay thì sẽ còn những đêm khác, nhưng với nhân vật trữ tình này, đêm nào cũng có cảm giác là đêm cuối và nếu không kịp thì có lẽ ông sẽ ra đi mãi trong sự nuối tiếc.
Qua đó thể hiện rõ nét bi kịch của chính cuộc đời ông, đó là nỗi lòng khắc khoải tìm kiếm sự tri âm, thèm muốn được giao cảm với đời nhưng lại phải chống chọi với nỗi đau thể xác trong quỹ thời gian hạn hẹp còn lại của đời mình.
Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người, trước hết không gì bằng tình, đầu tiên không gì bằng lời, tha thiết không gì bằng thanh, sâu xa không gì bằng nghĩa. Vậy đối với thơ tình là gốc, lời là cảnh, thanh là họa, nghĩa là quả”. Có thể nói, tình cảm là yếu tố sinh mệnh của thơ ca, thiếu tình cảm thì chỉ có thể trở thành người thợ làm những câu có vần chứ không làm được nhà thơ. Đồng thời, thơ ca không bộc lộ tình cảm một cách bản năng, trực tiếp mà nó được ý thức, được siêu thăng, được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ gắn liền với ý thức về mình, về đời.
Hiện lên như một “ngôi sao chổi” xoẹt qua bầu trời thi đàn văn học với cái đuôi chói lòa, rực rỡ của mình, Hàn Mặc Tử đến với thơ, với đời bằng tình cảm tha thiết, chân thành của một kẻ sĩ đứng giữa hai bờ sinh tử, chơi vơi giữa cõi thực và cõi mộng. Gã làm thơ khi đã nếm trải đủ mùi vị đau thương trong chốn vốn chẳng có gì là vĩnh hằng.
Bao giờ cũng vậy, Hàn Mặc Tử luôn muốn thoát li hiện thực, tìm về một cõi xa xăm nào đấy để ôm ấp những nỗi sầu u oải, mơ hồ, và có lẽ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã bước ra từ sự quằn quại, đau đớn để góp vào vườn thơ Hàn “rộng không bờ không bến” một cõi hư vô rợn ngợp khiến thi nhân không khỏi thổn thức:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
....
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu, có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ Mới giai đoạn 1932 - 1945. Thế giới thơ ông đầy bí ẩn, phức tạp, luôn đan xen giữa những gì thân thuộc, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những gì ghê rợn, ma quái, cuồng loạn nhất. Trong đó hình ảnh trăng, hoa, nhạc luôn chan lẫn với hình ảnh hồn, máu, yêu ma nói như Hoài Thanh: “Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến, càng đi xa càng ớn lạnh…”.
Sự nghiệp thơ ca của Hàn là một tháp ngà kiêu sa, tráng lệ, ánh hào quang của nó tỏa sáng chói lòa nhân thế… vì vậy những hình tượng thơ của ông khiến người đọc khó đến gần, khó nắm bắt và có khi khó hiểu. Vườn thơ của ông có lẽ được xếp vào loại “siêu”: siêu thực, siêu thức và siêu thoát nhưng đọc thơ ông nào đã thoát, rốt cuộc vẫn lơ lửng, vẫn còn đó một câu hỏi lớn: “Hàn Mặc Tử, anh là ai?”. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được in trong tập “Thơ điên” (1938), toàn bộ thi phẩm là tiếng lòng vừa tha thiết mê đắm, vừa đau đớn tuyệt vọng của một thi nhân yêu đời da diết mà phải vĩnh vi
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
84494 -
Hỏi từ APP VIETJACK72851
-
56162
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
45723 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
40710 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
38029 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
36852 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
31883
