Quảng cáo
2 câu trả lời 380
* Về hệ thống báo hiệu đường bộ
Hệ thống báo hiệu đường bộ gồm hiệu lệnh của người điều khiển giao thông; tín hiệu đèn giao thông, biển báo hiệu, vạch kẻ đường, cọc tiêu hoặc tường bảo vệ, rào chắn.
Riêng tín hiệu đèn giao thông có ba mầu, quy định như sau:
a) Tín hiệu xanh là được đi.
b) Tín hiệu đỏ là cấm đi.
c) Tín hiệu vàng là phải dừng lại trước vạch dừng, trừ trường hợp đã đi quá vạch dừng thì được đi tiếp; trong trường hợp tín hiệu vàng nhấp nháy là được đi nhưng phải giảm tốc độ, chú ý quan sát, nhường đường cho người đi bộ qua đường.
* Về chấp hành báo hiệu đường bộ
1. Người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh và chỉ dẫn của hệ thống báo hiệu đường bộ.
2. Khi có người điều khiển giao thông thì người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển giao thông.
3. Tại nơi có biển báo hiệu cố định lại có báo hiệu tạm thời thì người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh của báo hiệu tạm thời.
Về người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp (Điều 30, 31)
1. Người điều khiển xe mô tô hai bánh, xe gắn máy chỉ được chở một người, trừ những trường hợp sau thì được chở tối đa hai người:
a) Chở người bệnh đi cấp cứu;
b) Áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật;
c) Trẻ em dưới 14 tuổi.
2. Người điều khiển xe đạp chỉ được chở một người, trừ trường hợp chở thêm một trẻ em dưới 7 tuổi thì được chở tối đa hai người.
Như vậy, để bảo đảm an toàn giao thông, tạo cơ sở thống nhất cho việc ban hành các văn bản dưới luật về xử phạt vi phạm hành chính, căn cứ vào tình hình thực tế, Luật Giao thông đường bộ đã quy định cụ thể về độ tuổi của trẻ em được chở thêm trên xe mô tô, xe gắn máy là dưới 14 tuổi và xe đạp là dưới 7 tuổi (Luật năm 2001 không quy định độ tuổi cụ thể).
Như vậy, người điều khiển xe mô tô hai bánh, xe gắn máy, xe đạp chỉ được chở tối đa 2 người và ít nhất một trong hai người đó phải là trẻ em dưới 14 tuổi (đối với xe mô tô, xe gắn máy) hoặc trẻ em dưới 7 tuổi (đối với xe đạp). Các trường hợp chở từ 2 người lớn trở lên (trừ trường hợp xe mô tô hai bánh, xe gắn máy chở người bệnh đi cấp cứu hoặc áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật) đều là hành vi vi phạm, không phụ thuộc vào tuổi của người được chở (kể cả chở 03 trẻ em vẫn bị coi là hành vi vi phạm).
3. Người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy, xe đạp máy phải đội mũ bảo hiểm có cài quai đúng quy cách.
Việc bổ sung quy định đội mũ bảo hiểm “có cài quai đúng quy cách” để làm căn cứ xử phạt những hành vi đội mũ bảo hiểm mang tính hình thức, không cài quai hoặc cài quai ngược, làm mất tính chất bảo vệ của mũ bảo hiểm, mất ý nghĩa bảo đảm an toàn cho người tham gia giao thông của điều luật.
Một điểm đáng chú ý là ngoài quy định người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy phải đội mũ bảo hiểm có cài quai đúng quy cách, Luật GTĐB năm 2008 còn bổ sung quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm đối với người điều khiển, người ngồi trên xe đạp máy. Mặc dù theo quy định tại Điều 3, xe đạp máy được xếp vào loại xe thô sơ do có tốc độ thiết kế chỉ khoảng 25-30km/h, loại xe này không phải đăng ký để cấp biển số, người điều khiển không cần có giấy phép lái xe và khi tham gia giao thông trên đường phải đi vào làn xe thô sơ nhưng với tốc độ như trên vẫn nguy hiểm nên để bảo vệ tính mạng của người điều khiển, người ngồi trên xe, Luật quy định người điều khiển loại xe này phải đội mũ bảo hiểm.
Trong quá trình xây dựng Luật GTĐB năm 2008, cũng có ý kiến cho rằng nên cân nhắc quy định việc đội mũ bảo hiểm đối với một số chức sắc tôn giáo, người dân tộc có thói quen đội khăn, phụ nữ một số dân tộc búi tóc ở đỉnh đầu khi tham gia giao thông…Tuy nhiên, Hiến pháp đã quy định mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, nên Luật không thể quy định trường hợp ngoại trừ, hơn nữa, việc đội mũ bảo hiểm là nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ cho người tham gia giao thông.
4. Người điều khiển xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy, xe đạp và xe thô sơ không được thực hiện các hành vi sau đây:
a) Đi xe dàn hàng ngang;
b) Đi xe vào phần đường dành cho người đi bộ và phương tiện khác;
c) Sử dụng ô, điện thoại di động, thiết bị âm thanh, trừ thiết bị trợ thính;
d) Sử dụng xe để kéo, đẩy xe khác, vật khác, mang, vác và chở vật cồng kềnh;
đ) Buông cả hai tay hoặc đi xe bằng một bánh đối với xe hai bánh, bằng hai bánh đối với xe ba bánh;
e) Hành vi khác gây mất trật tự, an toàn giao thông.
4. Người ngồi trên xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy, xe đạp khi tham gia giao thông không được thực hiện các hành vi sau đây:
a) Mang, vác vật cồng kềnh;
b) Sử dụng ô;
c) Bám, kéo hoặc đẩy các phương tiện khác;
d) Đứng trên yên, giá đèo hàng hoặc ngồi trên tay lái;
đ) Hành vi khác gây mất trật tự, an toàn giao thông.
4. Hàng hóa xếp trên xe thô sơ phải bảo đảm an toàn, không gây cản trở giao thông và che khuất tầm nhìn của người điều khiển.
Nhiều quy định về quy tắc giao thông đường bộ khác cũng được bổ sung như:- “Không đu bám vào phương tiện giao thông đang chạy; khi mang vác vật cồng kềnh phải bảo đảm an toàn và không gây trở ngại cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ.”
//tham khỏa //
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
23653 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
16508 -
Hỏi từ APP VIETJACK13569
-
Hỏi từ APP VIETJACK11773
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
10725
