Tại sao anh có nhiều thuộc địa , lãnh thổ lớn , có các nước đã xâm chiếm bóc lột cho mình nhưng lền kinh tế anh vào những năm 1929 - 1933 lại thua đức ( cả hai đều bịt tổn thất lớn sau hai cuộc chiến tranh thế giới )
Quảng cáo
4 câu trả lời 3550
Đế quốc Anh (tiếng Anh: British Empire) là một đế quốc cai quản các khu vực tự trị, các thuộc địa, các lãnh thổ bảo hộ, các lãnh thổ ủy thác và các khu vực khác do Anh cai trị và quản lý. Đế quốc Anh khởi nguồn với các thuộc địa và trạm mậu dịch hải ngoại do Anh thiết lập từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII. Vào giai đoạn đỉnh cao của nó, đây là đế quốc có diện tích lãnh thổ lớn nhất trong lịch sử và là thế lực đứng đầu toàn cầu trong hơn một thế kỷ.[1] Đến năm 1913, Đế quốc Anh cai trị khoảng 412,2 triệu người, chiếm 23% dân số thế giới lúc đó[2] và bao phủ diện tích hơn 35.500.000 km², gần một phần tư tổng diện tích toàn cầu[3][4](Đạt đỉnh năm 1919).Đế quốc Anh còn là đế quốc có lãnh thổ lớn nhất trong lịch sử thế giới, do vậy những di sản về văn hóa, ngôn ngữ, luật pháp của Đế quốc Anh được truyền bá rộng rãi. Vào thời điểm nó đạt tới đỉnh cao của quyền lực, Đế quốc Anh thường được ví von với câu nói bất hủ "Đế quốc mặt trời không bao giờ lặn" bởi vì sự mở rộng lãnh thổ ra toàn thế giới và mặt trời luôn tỏa sáng trên một phần Đế quốc của nó.
Trong suốt Thời đại Khám phá vào thế kỷ XV và XVI,Đế quốc Tây Ban Nha và Đế quốc Bồ Đào Nha là hai quốc gia châu Âu đi tiên phong trong đứng đầu phong trào thám hiểm thế giới và trong quá trình đó họ đã thiết lập các đế quốc hải ngoại lớn. Đố kỵ với sự thịnh vượng vô cùng lớn mà hai đế quốc thực dân này giành được nhiều lợi ích riêng, các nước Đế quốc Anh, Đế quốc Pháp và Đế quốc Hà Lan bắt đầu thiết lập các thuộc địa và các mạng lưới mậu dịch của họ tại châu Mỹ, châu Á và Châu Phi.[5] Một loạt cuộc chiến với Pháp và Hà Lan trong thế kỷ XVII và XVIII đã giúp Đế quốc Anh trở thành một cường quốc chi phối thống trị tại Bắc Mỹ và Ấn Độ. Nhưng đồng thời, uy thế của nước Anh (và cả Pháp[6]) bị hạn chế tại châu Âu sau năm 1763, trước sự phát triển lớn mạnh của các cường quốc phía Đông như Phổ, Áo và Nga.[7][8]
Sự kiện Mười ba thuộc địa tại Bắc Mỹ giành được độc lập vào năm 1783 sau cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ khiến cho nước Anh mất đi một số thuộc địa lâu đời nhất và đông dân nhất của mình. Ngay sau đó nước Anh nhanh chóng chuyển sự quan tâm sang châu Phi, châu Á và Thái Bình Dương. Sau thất bại của nước Pháp trong cuộc chiến tranh Cách mạng Pháp và chiến tranh Napoléon (1792 – 1815), nước Anh tận hưởng một thế kỷ thống trị hầu như không có đối thủ, và mở rộng phạm vi trên khắp toàn cầu.[9] Địa vị thống trị của Anh sau này được ca ngợi như là Pax Britannica (Thái bình Anh Quốc), một giai đoạn mà châu Âu và thế giới tương đối thái bình (1815 – 1914), đây là thời điểm mà nước Anh nắm quyền bá chủ toàn cầu và trở thành người canh giữ cho hoà bình thế giới.[10][11][12][13] Vào đầu thể kỷ 19, cuộc Cách mạng công nghiệp bắt đẩu biến đổi nước Anh; tại thời điểm di
Đế quốc Anh (tiếng Anh: British Empire) là một đế quốc cai quản các khu vực tự trị, các thuộc địa, các lãnh thổ bảo hộ, các lãnh thổ ủy thác và các khu vực khác do Anh cai trị và quản lý. Đế quốc Anh khởi nguồn với các thuộc địa và trạm mậu dịch hải ngoại do Anh thiết lập từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII. Vào giai đoạn đỉnh cao của nó, đây là đế quốc có diện tích lãnh thổ lớn nhất trong lịch sử và là thế lực đứng đầu toàn cầu trong hơn một thế kỷ.[1] Đến năm 1913, Đế quốc Anh cai trị khoảng 412,2 triệu người, chiếm 23% dân số thế giới lúc đó[2] và bao phủ diện tích hơn 35.500.000 km², gần một phần tư tổng diện tích toàn cầu[3][4](Đạt đỉnh năm 1919).Đế quốc Anh còn là đế quốc có lãnh thổ lớn nhất trong lịch sử thế giới, do vậy những di sản về văn hóa, ngôn ngữ, luật pháp của Đế quốc Anh được truyền bá rộng rãi. Vào thời điểm nó đạt tới đỉnh cao của quyền lực, Đế quốc Anh thường được ví von với câu nói bất hủ "Đế quốc mặt trời không bao giờ lặn" bởi vì sự mở rộng lãnh thổ ra toàn thế giới và mặt trời luôn tỏa sáng trên một phần Đế quốc của nó.
Trong suốt Thời đại Khám phá vào thế kỷ XV và XVI,Đế quốc Tây Ban Nha và Đế quốc Bồ Đào Nha là hai quốc gia châu Âu đi tiên phong trong đứng đầu phong trào thám hiểm thế giới và trong quá trình đó họ đã thiết lập các đế quốc hải ngoại lớn. Đố kỵ với sự thịnh vượng vô cùng lớn mà hai đế quốc thực dân này giành được nhiều lợi ích riêng, các nước Đế quốc Anh, Đế quốc Pháp và Đế quốc Hà Lan bắt đầu thiết lập các thuộc địa và các mạng lưới mậu dịch của họ tại châu Mỹ, châu Á và Châu Phi.[5] Một loạt cuộc chiến với Pháp và Hà Lan trong thế kỷ XVII và XVIII đã giúp Đế quốc Anh trở thành một cường quốc chi phối thống trị tại Bắc Mỹ và Ấn Độ. Nhưng đồng thời, uy thế của nước Anh (và cả Pháp[6]) bị hạn chế tại châu Âu sau năm 1763, trước sự phát triển lớn mạnh của các cường quốc phía Đông như Phổ, Áo và Nga.[7][8]
Sự kiện Mười ba thuộc địa tại Bắc Mỹ giành được độc lập vào năm 1783 sau cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ khiến cho nước Anh mất đi một số thuộc địa lâu đời nhất và đông dân nhất của mình. Ngay sau đó nước Anh nhanh chóng chuyển sự quan tâm sang châu Phi, châu Á và Thái Bình Dương. Sau thất bại của nước Pháp trong cuộc chiến tranh Cách mạng Pháp và chiến tranh Napoléon (1792 – 1815), nước Anh tận hưởng một thế kỷ thống trị hầu như không có đối thủ, và mở rộng phạm vi trên khắp toàn cầu.[9] Địa vị thống trị của Anh sau này được ca ngợi như là Pax Britannica (Thái bình Anh Quốc), một giai đoạn mà châu Âu và thế giới tương đối thái bình (1815 – 1914), đây là thời điểm mà nước Anh nắm quyền bá chủ toàn cầu và trở thành người canh giữ cho hoà bình thế giới.[10][11][12][13] Vào đầu thể kỷ 19, cuộc Cách mạng công nghiệp bắt đẩu biến đổi nước Anh; tại thời điểm di
Đế quốc Anh (tiếng Anh: British Empire) là một đế quốc cai quản các khu vực tự trị, các thuộc địa, các lãnh thổ bảo hộ, các lãnh thổ ủy thác và các khu vực khác do Anh cai trị và quản lý. Đế quốc Anh khởi nguồn với các thuộc địa và trạm mậu dịch hải ngoại do Anh thiết lập từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII. Vào giai đoạn đỉnh cao của nó, đây là đế quốc có diện tích lãnh thổ lớn nhất trong lịch sử và là thế lực đứng đầu toàn cầu trong hơn một thế kỷ.[1] Đến năm 1913, Đế quốc Anh cai trị khoảng 412,2 triệu người, chiếm 23% dân số thế giới lúc đó[2] và bao phủ diện tích hơn 35.500.000 km², gần một phần tư tổng diện tích toàn cầu[3][4](Đạt đỉnh năm 1919).Đế quốc Anh còn là đế quốc có lãnh thổ lớn nhất trong lịch sử thế giới, do vậy những di sản về văn hóa, ngôn ngữ, luật pháp của Đế quốc Anh được truyền bá rộng rãi. Vào thời điểm nó đạt tới đỉnh cao của quyền lực, Đế quốc Anh thường được ví von với câu nói bất hủ "Đế quốc mặt trời không bao giờ lặn" bởi vì sự mở rộng lãnh thổ ra toàn thế giới và mặt trời luôn tỏa sáng trên một phần Đế quốc của nó.
Trong suốt Thời đại Khám phá vào thế kỷ XV và XVI,Đế quốc Tây Ban Nha và Đế quốc Bồ Đào Nha là hai quốc gia châu Âu đi tiên phong trong đứng đầu phong trào thám hiểm thế giới và trong quá trình đó họ đã thiết lập các đế quốc hải ngoại lớn. Đố kỵ với sự thịnh vượng vô cùng lớn mà hai đế quốc thực dân này giành được nhiều lợi ích riêng, các nước Đế quốc Anh, Đế quốc Pháp và Đế quốc Hà Lan bắt đầu thiết lập các thuộc địa và các mạng lưới mậu dịch của họ tại châu Mỹ, châu Á và Châu Phi.[5] Một loạt cuộc chiến với Pháp và Hà Lan trong thế kỷ XVII và XVIII đã giúp Đế quốc Anh trở thành một cường quốc chi phối thống trị tại Bắc Mỹ và Ấn Độ. Nhưng đồng thời, uy thế của nước Anh (và cả Pháp[6]) bị hạn chế tại châu Âu sau năm 1763, trước sự phát triển lớn mạnh của các cường quốc phía Đông như Phổ, Áo và Nga.[7][8]
Sự kiện Mười ba thuộc địa tại Bắc Mỹ giành được độc lập vào năm 1783 sau cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ khiến cho nước Anh mất đi một số thuộc địa lâu đời nhất và đông dân nhất của mình. Ngay sau đó nước Anh nhanh chóng chuyển sự quan tâm sang châu Phi, châu Á và Thái Bình Dương. Sau thất bại của nước Pháp trong cuộc chiến tranh Cách mạng Pháp và chiến tranh Napoléon (1792 – 1815), nước Anh tận hưởng một thế kỷ thống trị hầu như không có đối thủ, và mở rộng phạm vi trên khắp toàn cầu.[9] Địa vị thống trị của Anh sau này được ca ngợi như là Pax Britannica (Thái bình Anh Quốc), một giai đoạn mà châu Âu và thế giới tương đối thái bình (1815 – 1914), đây là thời điểm mà nước Anh nắm quyền bá chủ toàn cầu và trở thành người canh giữ cho hoà bình thế giới.[10][11][12][13] Vào đầu thể kỷ 19, cuộc Cách mạng công nghiệp bắt đẩu biến đổi nước Anh; tại thời điểm di
Đế quốc Anh (tiếng Anh: British Empire) là một đế quốc cai quản các khu vực tự trị, các thuộc địa, các lãnh thổ bảo hộ, các lãnh thổ ủy thác và các khu vực khác do Anh cai trị và quản lý. Đế quốc Anh khởi nguồn với các thuộc địa và trạm mậu dịch hải ngoại do Anh thiết lập từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII. Vào giai đoạn đỉnh cao của nó, đây là đế quốc có diện tích lãnh thổ lớn nhất trong lịch sử và là thế lực đứng đầu toàn cầu trong hơn một thế kỷ.[1] Đến năm 1913, Đế quốc Anh cai trị khoảng 412,2 triệu người, chiếm 23% dân số thế giới lúc đó[2] và bao phủ diện tích hơn 35.500.000 km², gần một phần tư tổng diện tích toàn cầu[3][4](Đạt đỉnh năm 1919).Đế quốc Anh còn là đế quốc có lãnh thổ lớn nhất trong lịch sử thế giới, do vậy những di sản về văn hóa, ngôn ngữ, luật pháp của Đế quốc Anh được truyền bá rộng rãi. Vào thời điểm nó đạt tới đỉnh cao của quyền lực, Đế quốc Anh thường được ví von với câu nói bất hủ "Đế quốc mặt trời không bao giờ lặn" bởi vì sự mở rộng lãnh thổ ra toàn thế giới và mặt trời luôn tỏa sáng trên một phần Đế quốc của nó.
Trong suốt Thời đại Khám phá vào thế kỷ XV và XVI,Đế quốc Tây Ban Nha và Đế quốc Bồ Đào Nha là hai quốc gia châu Âu đi tiên phong trong đứng đầu phong trào thám hiểm thế giới và trong quá trình đó họ đã thiết lập các đế quốc hải ngoại lớn. Đố kỵ với sự thịnh vượng vô cùng lớn mà hai đế quốc thực dân này giành được nhiều lợi ích riêng, các nước Đế quốc Anh, Đế quốc Pháp và Đế quốc Hà Lan bắt đầu thiết lập các thuộc địa và các mạng lưới mậu dịch của họ tại châu Mỹ, châu Á và Châu Phi.[5] Một loạt cuộc chiến với Pháp và Hà Lan trong thế kỷ XVII và XVIII đã giúp Đế quốc Anh trở thành một cường quốc chi phối thống trị tại Bắc Mỹ và Ấn Độ. Nhưng đồng thời, uy thế của nước Anh (và cả Pháp[6]) bị hạn chế tại châu Âu sau năm 1763, trước sự phát triển lớn mạnh của các cường quốc phía Đông như Phổ, Áo và Nga.[7][8]
Sự kiện Mười ba thuộc địa tại Bắc Mỹ giành được độc lập vào năm 1783 sau cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ khiến cho nước Anh mất đi một số thuộc địa lâu đời nhất và đông dân nhất của mình. Ngay sau đó nước Anh nhanh chóng chuyển sự quan tâm sang châu Phi, châu Á và Thái Bình Dương. Sau thất bại của nước Pháp trong cuộc chiến tranh Cách mạng Pháp và chiến tranh Napoléon (1792 – 1815), nước Anh tận hưởng một thế kỷ thống trị hầu như không có đối thủ, và mở rộng phạm vi trên khắp toàn cầu.[9] Địa vị thống trị của Anh sau này được ca ngợi như là Pax Britannica (Thái bình Anh Quốc), một giai đoạn mà châu Âu và thế giới tương đối thái bình (1815 – 1914), đây là thời điểm mà nước Anh nắm quyền bá chủ toàn cầu và trở thành người canh giữ cho hoà bình thế giới.[10][11][12][13] Vào đầu thể kỷ 19, cuộc Cách mạng công nghiệp bắt đẩu biến đổi nước Anh; tại thời điểm di
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
101766 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
50437 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
42424 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
39107 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
38534 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
36092
