Nêu suy nghĩ của em về bút pháp nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du
Quảng cáo
3 câu trả lời 124
Bút pháp nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du là một trong những đặc điểm nổi bật làm nên vẻ đẹp riêng trong sáng tác của ông, đặc biệt là trong Truyện Kiều. Em xin nêu suy nghĩ của mình như sau:
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh rất tài tình và đầy tinh tế. Thiên nhiên trong thơ ông không chỉ là phông nền cho câu chuyện, mà còn có khả năng biểu cảm mạnh mẽ – “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”. Cảnh vật hiện lên sống động, có hồn, gợi cảm xúc sâu xa, giúp thể hiện tâm trạng, số phận con người.
Ví dụ, trong đoạn Kiều tiễn Kim Trọng, cảnh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp bỗng trở nên man mác, gợi buồn:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Đó là nghệ thuật lấy cảnh tả tình, mượn thiên nhiên để phản ánh tâm trạng nhân vật. Ngoài ra, Nguyễn Du còn sử dụng nhiều hình ảnh gợi tả giàu tính tượng trưng, như cánh hoa trôi, dòng nước chảy, ánh trăng, bóng chiều tà… – những chi tiết đầy chất thơ mà cũng hàm chứa ý nghĩa sâu xa về cuộc đời, số phận và nhân sinh.
Ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên của ông giản dị mà giàu sức gợi, vừa cổ điển lại vừa gần gũi với đời sống. Cách ông quan sát và cảm nhận thiên nhiên thấm đẫm sự nhạy cảm và lòng nhân đạo.
Tóm lại, bút pháp miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tả cảnh và tả tình, giữa hiện thực và lãng mạn, làm tăng chiều sâu nghệ thuật cũng như giá trị nhân văn trong tác phẩm. Đây là một nét đặc sắc đã góp phần làm nên tầm vóc thiên tài của ông trong nền văn học dân tộc.
Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" là một tác phẩm hay, độc đáo, rất tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên của đại thi hào Nguyễn Du. Đoạn trích nằm ngay sau đoạn tả tài, tả sắc của chị em Thúy Kiều. Qua đoạn thơ, Nguyễn Du dựng lên bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong tiết Thanh minh thật tươi sáng, sống động. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp bút pháp tả và gợi với những chi tiết mang tính ước lệ mà vẫn vô cùng chân thực, giàu tính chất tạo hình và biểu cảm, ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt để miêu tả khung cảnh ngày xuân.
Trước hết là bốn câu thơ đầu , với nghệ thuật chấm phá độc đáo tả ít gợi nhiều, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, giàu sức xuân:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu vừa có sức gợi về thời gian, lại vừa có sức gợi về không gian. Ngày xuân thấm thoát trôi qua thật nhanh như thoi đưa. Cả mùa xuân có chín mươi ngày thì nay đã qua tháng giêng, tháng hai và bước sang tháng thứ ba. Ánh sáng của ngày xuân nhẹ nhàng, trong veo, lan tỏa, trải dài khắp muôn nơi. Trên nền trời cao là những đàn chim én mùa xuân đang chao nghiêng bay lượn. Dưới mặt đất là một thềm cỏ xanh non bất tận chạy ra xa tít tắp. Động từ “tận” làm cho không gian mùa xuân như đang giãn nở, ngày càng mở rộng ra biên độ và bao trùm cả không gian xuân là một màu xanh biếc của cỏ lá. Trên nền cỏ xanh tươi ấy là những bông hoa lê điểm vài sắc trắng gợi lên sự tinh khôi, mới mẻ. Biện pháp đảo ngữ có tác dụng tô đậm thêm và làm nổi bật hơn sức trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân. Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn nhưng dưới ngòi bút và cách miêu tả thần tình, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh xuân tinh khôi, trong trẻo, thanh khiết và giàu sức sống, mang đậm hơi thở của hồn xuân đất Việt.
Đến sáu câu thơ cuối, bằng nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình", Nguyễn Du đã miêu tả thời điểm kết thúc của ngày hội xuân thấm đượm hồn người một chút buồn xao xuyến. Đây vừa là tả thực, lại vừa nhuốm màu tâm trạng nhân vật trữ tình trong thơ.
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Cảnh vẫn mang cái dịu nhẹ, êm đềm của ngày xuân nhưng bóng dương đã “tà tà ngả về tây”. Cảnh vật như trở nên nhạt dần đều, cái khung cảnh rộn rã, náo nức, tưng bừng lúc sáng sớm ngày xuân đã phải nhường chỗ cho sự tĩnh lặng, yên ả. Không gian xuân co gọn lại theo ánh sáng của bầu trời hoàng hôn chứ không mở ra rộng lớn, mênh mông, vô tận như ở bốn câu thơ đầu. Tất cả đều thu nhỏ trong bước chân của người ra về. Phong cảnh thì "thanh thanh" nhẹ nhàng, dòng nước tiểu khê thì uốn quanh "nao nao" và chiếc cầu "nho nhỏ" thì "bắc ngang" cuối ghềnh. Cảnh thực đẹp, rất giàu chất thơ, chất họa, phảng phất một nỗi buồn lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng của lòng người. Đồng thời gieo vào lòng người đọc những linh cảm về một điều sắp sửa xảy ra, như là sự dự báo trước cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và sự gặp gỡ của hai con người trai tài gái sắc: Thúy Kiều – Kim Trọng. Tóm lại, với bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với việc sử dụng hệ thống những từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã khắc họa bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân thấm đượm tâm trạng của con người nhân vật. Qua đó cho thấy được tài năng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và tâm trạng con người của Nguyễn Du.
Nếu như ở bốn câu thơ đầu, bức tranh thiên nhiên mùa xuân vào lúc sáng sớm hiện lên căng tràn, đầy nhựa sống, bao la, vô tận trong màu sắc xanh non, biếc rờn của cỏ cây thì đến sáu câu cuối, bức tranh xuân khép lại trong ánh sáng nhạt nhòa của ánh nắng chiều yếu ớt ngã về phía tây, co gọn lại thật nhỏ bé và nhuốm màu sắc tâm trạng con người. Cảnh chuyển rất tự nhiên và hợp lý.
Tóm lại, qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy được nghệ thuật miêu tả thiên nhiên rất độc đáo, giàu sức gợi của nhà thơ. Đó là một bức tranh mùa xuân giàu chất thơ, chất họa, rất sống động, nhịp nhàng.
1. Sử dụng ngôn ngữ tinh tế và giàu hình ảnh: Nguyễn Du lựa chọn từ ngữ một cách điêu luyện, gợi cảm, giàu chất tạo hình. Các từ láy được sử dụng một cách sáng tạo, không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn thể hiện được tâm trạng, cảm xúc của nhân vật. Ví dụ, trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân", những từ như "tà tà", "thanh thanh", "nao nao" không chỉ gợi tả vẻ đẹp êm đềm, tĩnh lặng của buổi chiều mà còn thể hiện sự bâng khuâng, xao xuyến trong lòng người.
2. Miêu tả thiên nhiên theo trình tự thời gian và không gian: Nguyễn Du thường miêu tả thiên nhiên theo một trình tự nhất định, từ khái quát đến cụ thể, từ xa đến gần, tạo nên một bức tranh sinh động và có chiều sâu. Trong "Truyện Kiều", cảnh thiên nhiên thường được miêu tả gắn liền với thời gian, từ buổi sáng tinh khôi đến buổi chiều tà, từ mùa xuân tươi đẹp đến mùa đông lạnh giá, thể hiện sự biến đổi của cảnh vật theo thời gian và sự thay đổi trong tâm trạng của nhân vật.
3. Bút pháp tả cảnh ngụ tình: Đây là một trong những đặc điểm nổi bật nhất trong bút pháp miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du. Cảnh vật thiên nhiên không chỉ đơn thuần là những hình ảnh khách quan mà còn là sự phản ánh tâm trạng, cảm xúc của nhân vật. Trong "Kiều ở lầu Ngưng Bích", cảnh biển cả mênh mông, sóng gió dữ dội không chỉ gợi tả sự cô đơn, lẻ loi của Thúy Kiều mà còn dự báo về những sóng gió, bão táp mà nàng sẽ phải đối mặt trong cuộc đời.
4. Sử dụng các biện pháp tu từ: Nguyễn Du sử dụng một cách nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa,... để làm cho cảnh vật trở nên sinh động, gần gũi và có hồn. Hình ảnh "hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh" trong đoạn tả Thúy Kiều không chỉ thể hiện vẻ đẹp tuyệt sắc của nàng mà còn dự báo về một cuộc đời đầy sóng gió, ghen ghét.
5. Yếu tố ước lệ, tượng trưng: Nguyễn Du cũng sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng trong văn học cổ điển để miêu tả thiên nhiên, tạo nên vẻ đẹp cổ điển, trang trọng. Ví dụ, hình ảnh "cành lê trắng điểm một vài bông hoa" trong "Cảnh ngày xuân" gợi tả vẻ đẹp thanh khiết, tinh khôi của mùa xuân.
Tóm lại, bút pháp nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du là sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, giữa cổ điển và hiện đại, giữa tả cảnh và ngụ tình. Thiên nhiên trong "Truyện Kiều" không chỉ là một phần của bức tranh hiện thực mà còn là một yếu tố quan trọng để thể hiện tư tưởng, tình cảm và nhân cách của tác giả, góp phần làm nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
1796
-
1532
-
1500
-
1267
-
-
-
-
-
-
