Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai đoạn thơ sau:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Nắng mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
( Trích “Tương tư”- Nguyễn Bính, SGK Ngữ văn 11, tập 2, NXBGD, tr. 49)
Nhớ bản sương giăng, nhứ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!
(Trích “Tiếng hát con tàu”- Chế Lan Viên, SGK Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD, tr. 142)
* Chú thích:
(1) Nguyễn Bính (1918-1966) được coi là “thi sĩ của đồng quê”. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyễn Bính đã đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương đất nước và tình người đằm thắm, thiết tha.
Bài thơ “Tương tư” rút trong tập “Lỡ bước sang ngang”, rất tiêu biểu cho phong cách thơ “chân quê” của Nguyễn Bính.
Tương tư: nỗi nhớ mong của trai gái khi yêu nhau; có khi được dùng để diễn tả nỗi nhớ đơn phương
Thôn Đoài: thôn ở phía Tây
(2) Chế Lan Viên (1920-1989) là nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Thơ Chế Lan Viên giàu chất suy tưởng triết lí với thế giới hình ảnh đa dạng, phong phú, đầy sáng tạo.
Bài thơ “Tiếng hát con tàu” rút từ tập “Ánh sáng và phù sa”, được gợi cảm hứng từ một sự kiện kinh tế - chính trị, xã hội: cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc vào những năm 1958-1960.
Quảng cáo
4 câu trả lời 1936
Trong kho tàng thơ ca hiện đại Việt Nam, Nguyễn Bính và Chế Lan Viên là hai thi sĩ với hai phong cách thơ rất riêng, nhưng đều để lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng bạn đọc. Nếu Nguyễn Bính chạm đến trái tim người đọc bằng cảm xúc chân chất, mộc mạc của tình yêu quê mùa thì Chế Lan Viên lại đánh thức tâm hồn bằng chiều sâu suy tưởng và lý tưởng cao đẹp. Hai đoạn thơ trích từ “Tương tư” của Nguyễn Bính và “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên là những lát cắt tiêu biểu, cho thấy sự khác biệt nhưng cũng là sự hòa quyện trong tình cảm với con người và đất nước.
Đoạn thơ của Nguyễn Bính mở ra một không gian thôn quê bình dị:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.”
Với ngôn ngữ mang đậm sắc thái dân gian, tác giả vẽ nên một nỗi nhớ da diết giữa hai con người sống cách nhau một con sông, một lũy tre. Đó là tình cảm đơn phương, lặng thầm nhưng vô cùng sâu sắc. Câu thơ “Một người chín nhớ mười mong một người” như lời thổ lộ chân tình mà tha thiết, gợi cảm giác chờ mong khắc khoải, không thành lời. Ở hai câu sau, Nguyễn Bính ví nỗi tương tư như một căn bệnh:
“Nắng mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.”
Cách ví von tự nhiên mà độc đáo, hóm hỉnh mà thấm đượm tình yêu. Cái “bệnh” ấy không làm khổ thân xác mà giày vò tâm hồn. Chính cái chất “chân quê” trong thơ Nguyễn Bính khiến nỗi nhớ trở nên gần gũi, dung dị mà đầy ám ảnh.
Ngược lại, đoạn thơ của Chế Lan Viên mang một cảm hứng lớn, một nỗi nhớ mang tầm vóc của lý tưởng và khát vọng sống:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?”
Nếu Nguyễn Bính nhớ một người, thì Chế Lan Viên nhớ cả một vùng đất. Đó là Tây Bắc – mảnh đất gắn liền với cuộc kháng chiến, với nhân dân cần cù và thiên nhiên hùng vĩ. Nỗi nhớ ấy không phải của riêng cá nhân mà là nỗi nhớ của cả một thế hệ từng gắn bó với đất nước trong những năm tháng gian khổ. Đặc biệt, hai câu thơ cuối mở ra một triết lý sâu sắc:
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
Tình yêu quê hương, đất nước không chỉ là cảm xúc mà còn là sự gắn bó máu thịt. Đó là quá trình từ nhận thức đến giác ngộ, từ lý trí đến cảm xúc. Chất suy tưởng triết lý cùng hình ảnh thơ mang tính biểu tượng khiến đoạn thơ trở nên sâu sắc và đầy tính khái quát.
So sánh hai đoạn thơ, có thể thấy Nguyễn Bính nghiêng về cái tôi trữ tình cá nhân, còn Chế Lan Viên hướng đến cái tôi công dân – cái tôi của một con người sống và cống hiến vì lý tưởng cộng đồng. Nguyễn Bính gợi sự thân thuộc, gần gũi với ngôn ngữ dân gian, còn Chế Lan Viên lại lôi cuốn bằng chất suy tưởng và hình ảnh giàu biểu tượng. Dù khác nhau về đề tài, cảm hứng và cách thể hiện, nhưng cả hai đoạn thơ đều cho thấy sự rung động chân thành, sâu sắc của những trái tim yêu – yêu người, yêu đất, yêu quê hương và Tổ quốc.
Qua hai đoạn thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn ngữ thi ca mà còn thấy được sự phong phú trong đời sống tâm hồn người Việt. Từ nỗi tương tư thầm lặng đến tình yêu đất nước sâu đậm, cả hai nhà thơ đã góp phần làm nên một nền thơ hiện đại Việt Nam vừa bình dị, vừa cao đẹp.
So sánh và đánh giá hai đoạn thơ trong “Tương tư” của Nguyễn Bính và “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên
Thơ ca là tiếng nói của tâm hồn, là nơi con người gửi gắm những cảm xúc chân thành và sâu lắng nhất. Trong kho tàng văn học Việt Nam hiện đại, hai đoạn thơ sau từ bài “Tương tư” của Nguyễn Bính và “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên không chỉ thể hiện hai phong cách nghệ thuật khác biệt mà còn khắc họa hai chủ đề lớn: tình yêu đôi lứa và tình yêu quê hương, đất nước.
Nguyễn Bính mở đầu đoạn thơ bằng một hình ảnh thôn quê rất đỗi quen thuộc:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.”
Chỉ với vài câu ngắn gọn, tác giả đã gợi lên cảnh vật và tâm trạng một cách tài tình. Cảm xúc tương tư được nhân hoá, cụ thể hoá qua hình ảnh hai thôn – như hai con người đang hướng về nhau trong nỗi nhớ mong tha thiết. “Chín nhớ mười mong” là lối nói dân gian giàu hình ảnh, đậm đà tính dân tộc, thể hiện tình cảm đơn phương mãnh liệt, chân thật và có chút xót xa. Nguyễn Bính còn ví von cảm xúc ấy với một “căn bệnh” đặc biệt – “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Lối ví ấy mộc mạc, dí dỏm nhưng cũng đầy da diết, thể hiện rõ nét phong cách “chân quê” mang đậm hơi thở làng quê Bắc Bộ.
Trong khi đó, Chế Lan Viên lại đưa người đọc vào một thế giới suy tưởng rộng lớn hơn, gắn với tình cảm sâu nặng với núi rừng Tây Bắc – một biểu tượng cho Tổ quốc:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
Nỗi nhớ ở đây không chỉ là cảm xúc riêng tư, mà là sự thăng hoa của lòng yêu nước. Đó là nỗi nhớ những bản làng sương mù, những đèo cao mây phủ – những biểu tượng của Tây Bắc gian khổ mà giàu tình người. Câu thơ mang tính triết lí “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn” thể hiện sự chuyển biến trong nhận thức: từ sự vô tình khi hiện diện đến sự trân trọng khi xa cách. Đây là một cách thể hiện tình cảm thâm trầm, sâu sắc và giàu tính khái quát, thể hiện phong cách thơ giàu suy tưởng triết lí của Chế Lan Viên.
Giữa hai đoạn thơ có sự khác biệt rõ rệt về không gian nghệ thuật và đối tượng trữ tình. Nếu thơ Nguyễn Bính tập trung vào nỗi nhớ trong tình yêu lứa đôi, một thứ tình cảm cá nhân, thì Chế Lan Viên hướng tới nỗi nhớ của con người với đất nước, với lý tưởng. Cách biểu đạt trong thơ Nguyễn Bính mộc mạc, gần gũi với đời sống thường ngày, còn thơ Chế Lan Viên lại khái quát, sâu xa và mang tính lý tưởng cao cả.
Tuy khác biệt về phong cách và đối tượng thể hiện, nhưng cả hai đoạn thơ đều chạm đến một điểm chung – đó là tình cảm chân thành và sâu sắc của con người. Nguyễn Bính thể hiện một tình yêu da diết, day dứt, còn Chế Lan Viên thể hiện tình cảm gắn bó giữa con người và quê hương, đất nước. Cả hai đều dùng nghệ thuật ngôn từ một cách tinh tế để lay động trái tim người đọc.
Tóm lại, qua việc so sánh hai đoạn thơ trên, ta có thể thấy được vẻ đẹp riêng của từng nhà thơ: Nguyễn Bính – chân quê, mộc mạc mà đầy da diết; Chế Lan Viên – trí tuệ, sâu sắc và đậm chất lý tưởng. Hai cách thể hiện khác nhau nhưng cùng góp phần làm giàu thêm bản sắc văn hóa và chiều sâu tâm hồn con người Việt Nam trong thơ ca hiện đại.
Công cụ
Tình yêu là đề tài muôn thuở của văn chương. Tình yêu là một loại tình cảm đặc biệt trong tâm hồn mỗi người. Sự sống của tình yêu là nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái và nhiều cung bậc. Những sắc thái và cung bậc ấy được thể hiện rất đẹp qua hai trích đoạn trong Tương tư của Nguyễn Bính và Việt Bắc của Tố Hữu. Nguyễn Bính thì bày tỏ nỗi nhớ nhung trong tình yêu đôi lứa, Tố Hữu thì bày tỏ nỗi niềm da diết khôn nguôi với quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình.
Cũng như các nhà thơ lãng mạn cùng thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu, nhưng tình yêu trong thơ Nguyễn Bính có một lối nói riêng. “Cái tôi” trong thơ Nguyễn Bính không nổi lên mà tan hòa vào không gian đồng quê bằng biện pháp ẩn dụ nhân hoá như trong ca dao:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Tâm trạng tương tư của chàng trai quê được bộc lộ trong bài thơ “Tương tư" thành những nhớ mong da diết, trĩu nặng. Nỗi niềm ấy được xem như một quy luật tự nhiên không thể cưỡng lại, một thứ “tâm bệnh” khó chữa của người đang yêu. Niềm mong nhớ gắn liền với khung cảnh làng quê khiến cho cả không gian như cũng nhuốm đầy nỗi tương tư.
Từ nỗi nhớ người yêu luôn thường trực, cháy bỏng trong lòng, cái tôi trữ tình suy ngẫm, liên tưởng, nhận diện nỗi nhớ. Người ta thường nói nỗi nhớ là sự sống của tình yêu, còn Nguyễn Bính thì quy kết thành bệnh. Cái bệnh kinh niên sinh ra từ tâm lí của con người, không ai nói mình yêu mà không nhớ, nhớ mà không yêu. Yêu là nhớ, đó là quy luật. Quy luật của lòng người cũng như quy luật của tự nhiên: “Gió mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Trời đất không thể không có gió mưa, sống không thể “không nhớ, không thương một kẻ nào”. Một sự thừa nhận thành thật, ý vị khẳng định tính tất yếu của thiên nhiên cũng như của tình yêu – lòng người.
Về nghệ thuật, nhà thơ sử dụng các hình ảnh sóng đôi: Đông - Đoài, gió - mưa, tôi - nàng… tô đậm khát vọng lứa đôi. Thể thơ lục bát cùng với các hình thức diễn đạt, cách dùng địa danh quen thuộc của ca dao dân ca khiến đoạn thơ có vẻ đẹp dung dị, duyên dáng dễ đi vào lòng người. Chất chân quê của hồn thơ Nguyễn Bính được biểu hiện rất tài tình, khiến đọc lên người ta cứ ngỡ ca dao chứ không phải thơ hiện đại, và mỗi người đều mượn nó để nói hộ lòng mình. Đó chẳng phải là những câu thơ bất hủ đó sao!
Thể thơ lục bát thấm đượm phong vị ca dao. Chất liệu ngôn từ trong bài “Tương tư" rất chân quê với những địa danh, thành ngữ gần gũi, cách tổ chức lời thơ độc đáo, sử dụng nhuần nhuyễn nhiều biện pháp tu từ: hoán dụ, nhân hoá, đối sánh, tăng tiến, khoa trương.
Như trên đã nói, tình yêu trong mỗi con người là một xúc cảm tuyệt vời, nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái, nhiều cung bậc. Nếu Nguyễn Bính giãi bày nỗi nhớ trong tình yêu đôi lứa thì Tố Hữu trong đoạn thơ này lại diễn tả niềm da diết khôn nguôi với Việt Bắc - quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đỉnh núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
Suốt mười lăm năm “Từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh” cho đến lúc cuộc kháng Pháp vĩ đại thắng lợi, cán bộ, chiến sĩ cách mạng đã gắn bó cùng đồng bào Việt Bắc đánh giặc “Bát cơm chấm muối, mối thù nặng vai… Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng’’, nay chiến thắng trở về xuôi làm sao có thể quên những kỉ niệm sâu nặng như thế!
Tố Hữu đã diễn tả nỗi niềm thương nhớ day dứt, khôn nguôi của người đi kẻ ở cũng thường trực, da diết như trong nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa vậy. Nhưng nỗi nhớ không dành riêng cho một đối tượng mà nỗi nhớ dành cho tất cả đồng bào và thiên nhiên Việt Bắc. Nỗi nhớ giăng mắc khắp không gian, lung linh bao kỉ niệm: Nhớ những đêm trăng treo trên đầu núi, những buổi chiều nắng toả vàng rộng khắp trên nương, những bản làng ảo mờ trong sương khói, đặc biệt là bóng dáng của “người thương đi về”quây quần bên bếp lửa mỗi đêm đông, cảnh – người quyện hoà thanh bình, yên ả, ấm áp.
“Việt Bắc" của Tố Hữu đã thể hiện nỗi nhớ đằm thắm, sâu nặng của người cán bộ kháng chiến dành cho Việt Bắc, trong đó chan hòa tình nghĩa riêng chung. Hiện lên trong nỗi nhớ ấy là hình ảnh chiến khu Việt Bắc thân thương, với cảnh vật bình dị mà thơ mộng, với nhịp sống đơn sơ mà êm đềm, đầm ấm. Thể thơ lục bát kết hợp nhuần nhuyễn chất cổ điển và chất dân gian, nhịp điệu linh hoạt uyển chuyển, âm hưởng tha thiết, ngọt ngào. Hình ảnh thơ giản dị mà gợi cảm, cách ví von quen thuộc mà vẫn độc đáo, cách tổ chức lời thơ với phép tiểu đối, phép điệp cân xứng, khéo léo đã khiến cho độc giả vô cùng ấn tượng bởi những giá trị mà bài thơ mang lại.
Tuy ra đời ở hai thời điểm khác nhau nhưng hai bài thơ đều đều thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng, sử dụng thể thơ lục bát điêu luyện.
Song, bên cạnh đó, dù viết cùng về một đề tài nhưng giữa hai bài thơ vẫn có những điểm khác biệt. Bài thơ “Tương tư” là nỗi nhớ của tình yêu lứa đôi, gắn với không gian làng quê Bắc Bộ, vừa bày tỏ vừa “lí sự” về tương tư, với cách đối sánh táo bạo còn nỗi nhớ được thể hiện trong bài “Việt Bắc” là nỗi nhớ của tình cảm cách mạng, gắn với không gian núi rừng Việt Bắc, nghiêng hẳn về bộc bạch tâm tình, với cách ví von duyên dáng.
Thơ là tiếng tơ lòng, mỗi khi rung động trước thiên nhiên, đất nước, con người, tiếng tơ ấy lại cất lên tiếng hát của tâm hồn làm xúc động biết bao người đọc. Cảm ơn các nhà thơ đã cho ta biết yêu, biết rung động trước cái đẹp của cuộc đời qua những trang thơ.
Đoạn thơ của Chế Lan Viên:
Đoạn thơ trích từ "Tiếng hát con tàu" của Chế Lan Viên mang tính chất suy tư, triết lý hơn. Tác giả sử dụng những hình ảnh mang tính biểu tượng cao như "bản sương giăng", "đèo mây phủ" để gợi lên vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của núi rừng Tây Bắc. Câu thơ "Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?" thể hiện tình yêu sâu sắc, gắn bó với quê hương, đất nước. "Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!" là câu thơ mang tính triết lý sâu sắc. Nó thể hiện sự gắn bó, hòa quyện giữa con người và đất đai, giữa cá nhân và cộng đồng. Khi con người sống ở một nơi, họ chỉ coi đó là nơi ở đơn thuần. Nhưng khi rời xa, mảnh đất đó đã trở thành một phần tâm hồn, một phần máu thịt. Chế Lan Viên đã thể hiện được lý tưởng cao đẹp, tình yêu quê hương đất nước gắn liền với sự nghiệp xây dựng và phát triển. Phong cách thơ của Chế Lan Viên trong đoạn thơ này là giàu chất suy tưởng, hình ảnh thơ đa dạng, phong phú, mang tính khái quát cao.
So sánh và đánh giá:
Hai đoạn thơ, tuy cùng viết về tình yêu quê hương, đất nước, nhưng lại thể hiện ở hai phương diện khác nhau. Nguyễn Bính tập trung vào tình yêu đôi lứa, tình cảm cá nhân, còn Chế Lan Viên hướng tới tình yêu quê hương rộng lớn, gắn liền với lý tưởng cách mạng.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
14734
-
6355
-
4903
