NGÔ QUYỀN ĐẠI PHÁ QUÂN NAM HÁN NĂM 938
[...] Tháng Ba năm Đinh Dậu (937), Dương Đình Nghệ bị con nuôi là Kiều Công Tiễn giết chết.
Tháng Chạp năm ấy, Ngô Quyền kéo quân từ Ai Châu ra hỏi tội Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn
sợ, sai sứ sang cầu cứu quân Nam Hán (Trung Quốc). Vua Nam Hán muốn nhân nước ta có loạn mà
đem quân đánh chiếm, bèn sai con út là Hoằng Thao đem thật nhiều chiến thuyền, theo sông Bạch
Đằng tiến vào nước ta.
Nghe tin Hoằng Thao sắp đến, Ngô Quyền nói với các tướng: - Hoằng Thao bất quá chỉ là một đứa trẻ dại khờ, phải đem quân từ xa tới, đã mỏi mệt lại nghe tin
Kiều Công Tiễn bị giết chết, hẳn mất kẻ nội ứng thì hồn vía sẽ chẳng còn. Ta lấy sức đang khoẻ để địch
với quần mỏi mệt thì tất sẽ phá được. Nhưng bọn chúng hơn ta ở chỗ nhiều chiến thuyền. Nay, nếu ta
sai người đem cọc lớn vạt nhọn, đầu thì bịt sắt, ngầm đóng xuống trước ở cửa biển, dụ cho thuyền của
chúng theo nước triều lên mà vào phía trong của hàng cọc thì ta hoàn toàn có thể chế ngự chúng, quyết
không cho chiến thuyền nào tẩu thoát.
Định đoạt mưu kế xong, Ngô Quyền bèn sai đem cọc đóng xuống hai bên bờ cửa sông. Khi nước
triều lên, Ngô Quyền sai quân đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến rồi giả thua để dụ địch đuổi theo. Quả
nhiên Hoằng Thao trúng kế. Khi chiến thuyền của chúng lọt vào vùng cắm cọc, đợi đến khi nước triều
rút, cọc nhô dần lên, Ngô Quyền bèn tung quân, liều chết mà đánh. Quân Hoằng Thao bị rối loạn, nước
triều lại xuống gấp, thuyền vướng cọc mà lật úp, quân sĩ chết đến quá nửa. Ngô Quyền thừa thắng đuổi
đánh, bắt và giết được Hoằng Thao. Vua Nam Hán được tin, thương khóc mãi rồi thu nhặt tàn quân
của Hoằng Thao còn sót lại và rút về.
Chi bằng những đội quân mới của nước Việt, Ngô Quyền đã đánh tan cả trăm vạn quân của Hoằng
Thao, dựng nước và xưng vương, khiến giặc phương Bắc phải khiếp sợ, không dám bén mảng đến nước
ta.
(Theo Nguyễn Khắc Thuần, Việt sử giai thoại)
Câu 1. Xác định thể loại và phương thức biểu đạt chính của văn bản.
Câu 2. Theo em, vì sao trong văn bản “giặc phương Bắc phải khiếp sợ, không dám bén mảng đến nước
ta”?
Câu 3. Từ nội dung văn bản trên, em hãy viết đoạn văn (khoảng 7-10 câu) nêu cảm nhận về nhân vật
Ngô Quyền, trong đó có sử dụng câu khẳng định dùng để phủ định.
Câu 4.
a. Xác định thành phần biệt lập trong các câu văn sau:
Tháng Ba năm Đinh Dậu (937), Dương Đình Nghệ bị con nuôi là Kiều Công Tiễn giết chết.
Tháng Chạp năm ấy, Ngô Quyền kéo quân từ Ai Châu ra hỏi tội Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn
sợ, sai sứ sang cầu cứu quân Nam Hán (Trung Quốc).
b. Xác định kiểu câu theo mục đích giao tiếp của câu văn sau:
Hoằng Thao bất quá chỉ là một đứa trẻ dại khờ, phải đem quân từ xa tới, đã mỏi mệt lại nghe tin
Kiều Công Tiễn bị giết chết, hẳn mất kẻ nội ứng thì hồn vía sẽ chẳng còn.
Câu 5. Từ văn bản, em có suy nghĩ gì về truyền thống đánh giặc cứu nước của dân tộc ta. (trình bày
5-7 câu).
Quảng cáo
2 câu trả lời 40
Câu 1:
Thể loại của văn bản là truyền thuyết lịch sử, vì nó kể lại một sự kiện lịch sử có tính chất huyền thoại, có yếu tố kỳ ảo và nhân vật lịch sử, trong trường hợp này là Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng.
Phương thức biểu đạt chính là kể chuyện, qua đó người viết thuật lại sự kiện lịch sử và những hành động của nhân vật.
Câu 2:
Trong văn bản, "giặc phương Bắc phải khiếp sợ, không dám bén mảng đến nước ta" là kết quả của chiến thắng vẻ vang của Ngô Quyền trước quân Nam Hán. Chiến thắng này không chỉ là một trận đánh thắng lợi về mặt quân sự, mà còn là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử, khẳng định sự độc lập, tự chủ của dân tộc. Sau chiến thắng này, quân phương Bắc nhận thức được sức mạnh và sự kiên cường của quân và dân Việt Nam, từ đó không dám xâm phạm nước ta nữa.
Câu 3:
Ngô Quyền là một người lãnh đạo tài ba, dũng cảm và sáng suốt. Ông không chỉ giỏi về chiến lược, mà còn rất mưu lược. Trận đánh tại sông Bạch Đằng chính là minh chứng rõ ràng nhất cho tài năng quân sự của Ngô Quyền. Ông không hành động một cách hấp tấp, mà suy tính kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định. Nếu nói Ngô Quyền chỉ là một tướng giỏi chiến đấu thì không đúng. Ông là một nhà chiến lược xuất sắc, biết dùng mưu kế để đánh bại quân thù, dù chúng đông và mạnh. Điều này đã giúp dân tộc ta duy trì nền độc lập và tự chủ. Ngô Quyền không chỉ là người chiến thắng trên chiến trường, mà còn là người xây dựng nền móng vững chắc cho quốc gia, bảo vệ đất nước khỏi sự xâm lược của phương Bắc.
Câu 4:
a. Thành phần biệt lập trong các câu:
"Tháng Ba năm Đinh Dậu (937), Dương Đình Nghệ bị con nuôi là Kiều Công Tiễn giết chết."
→ Thành phần biệt lập: "Tháng Ba năm Đinh Dậu (937)" (chỉ thời gian).
"Tháng Chạp năm ấy, Ngô Quyền kéo quân từ Ai Châu ra hỏi tội Kiều Công Tiễn."
→ Thành phần biệt lập: "Tháng Chạp năm ấy" (chỉ thời gian).
"Kiều Công Tiễn sợ, sai sứ sang cầu cứu quân Nam Hán (Trung Quốc)."
→ Không có thành phần biệt lập.
b. Kiểu câu theo mục đích giao tiếp:
Câu văn: "Hoằng Thao bất quá chỉ là một đứa trẻ dại khờ, phải đem quân từ xa tới, đã mỏi mệt lại nghe tin Kiều Công Tiễn bị giết chết, hẳn mất kẻ nội ứng thì hồn vía sẽ chẳng còn."
→ Đây là một câu khẳng định, mục đích là để thể hiện sự tự tin và nhận định của Ngô Quyền về đối phương.
Câu 5:
Truyền thống đánh giặc cứu nước của dân tộc ta là một trong những truyền thống vẻ vang, phản ánh tinh thần kiên cường, bất khuất và lòng yêu nước nồng nàn. Trong lịch sử, dân tộc ta đã nhiều lần phải đối mặt với các thế lực xâm lược, nhưng mỗi lần như vậy, tinh thần đoàn kết, sáng tạo trong chiến đấu lại càng được phát huy. Chính nhờ vào sự lãnh đạo tài ba của những anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, chúng ta đã đánh bại những kẻ xâm lược, bảo vệ được độc lập, tự do cho đất nước. Đây là minh chứng sống động cho sức mạnh của ý chí và lòng quyết tâm bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống này luôn là nguồn sức mạnh vô cùng quan trọng, không chỉ trong quá khứ mà còn đối với thế hệ hôm nay.
Câu 1:
Thể loại: Văn bản lịch sử - hư cấu.
Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận.
Câu 2:
Trong văn bản, câu “giặc phương Bắc phải khiếp sợ, không dám bén mảng đến nước ta” cho thấy sự quyết tâm, trí tuệ và tinh thần tự tôn của dân tộc Việt. Ngô Quyền không chỉ là một vị tướng tài ba mà còn đại diện cho một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc, nơi chống ngoại xâm trở thành trách nhiệm thiêng liêng của mỗi người dân. Khi Ngô Quyền thắng trận, đó không chỉ là chiến thắng của quân đội mà còn là sự khẳng định bản lĩnh và sức mạnh không thể nào bị khuất phục của dân tộc Việt, tạo ra một rào cản tâm lý mạnh mẽ cho các thế lực bên ngoài.
Câu 3:
Ngô Quyền là một nhân vật kiệt xuất trong lịch sử dân tộc, nổi bật với trí thông minh và lòng dũng cảm. Không thể phủ nhận, Ngô Quyền đã có những quyết định táo bạo giúp bảo vệ đất nước khỏi sự xâm lăng của quân Nam Hán. Ông không chỉ biết dựa vào sức mạnh quân sự mà còn chứng tỏ tài năng chiến lược thông qua việc đóng cọc gỗ và dụ địch. Ngô Quyền không phải là người chỉ dựa vào lực lượng đông đảo mà biết sử dụng trí tuệ để đối phó với quân thù. Những phẩm chất này đã khiến ông trở thành một tượng đài của lòng yêu nước, một tấm gương cho thế hệ sau này.
Câu 4:
a. Thành phần biệt lập:
“Tháng Ba năm Đinh Dậu (937), Dương Đình Nghệ bị con nuôi là Kiều Công Tiễn giết chết.” (Thành phần chỉ thời gian: “Tháng Ba năm Đinh Dậu (937)”)
“Tháng Chạp năm ấy, Ngô Quyền kéo quân từ Ai Châu ra hỏi tội Kiều Công Tiễn.” (Thành phần chỉ thời gian: “Tháng Chạp năm ấy”)
“Kiều Công Tiễn sợ, sai sứ sang cầu cứu quân Nam Hán (Trung Quốc).” (Không có thành phần biệt lập rõ rệt)
b. Kiểu câu theo mục đích giao tiếp: Câu văn “Hoằng Thao bất quá chỉ là một đứa trẻ dại khờ, phải đem quân từ xa tới, đã mỏi mệt lại nghe tin Kiều Công Tiễn bị giết chết, hẳn mất kẻ nội ứng thì hồn vía sẽ chẳng còn” là câu khẳng định, bởi vì nó đưa ra thông tin và phân tích về tình hình kẻ thù.
Câu 5:
Truyền thống đánh giặc cứu nước của dân tộc ta thể hiện ở nhiều khía cạnh quan trọng. Đầu tiên, đó là tinh thần đoàn kết, thống nhất của dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Bất kể khó khăn hay hiểm nguy, người dân đều luôn đồng lòng, cùng nhau bảo vệ quê hương, tổ quốc. Thứ hai, sự thông minh và sáng tạo trong chiến lược quân sự, như cuộc chiến của Ngô Quyền với mưu kế đóng cọc gỗ, luôn cho thấy chúng ta không chỉ có sức mạnh mà còn có trí tuệ để đối đầu với kẻ thù. Cuối cùng, truyền thống này còn phản ánh lòng yêu nước sâu sắc của mỗi người dân Việt Nam, bởi họ luôn ý thức rõ ràng về giá trị tự do, độc lập của dân tộc. Qua các cuộc kháng chiến lịch sử, tinh thần đó vẫn còn sống mãi trong tâm hồn người Việt nam ngày nay.
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
8 228960
-
1 64186
-
Hỏi từ APP VIETJACK2 56879
-
Hỏi từ APP VIETJACK11 46681
-
6 43407