Ngôi nhà của mẹ nằm ở một xóm nhỏ, trước sân có cây mận sum suê lá. Nay tuổi đã trên tám mươi nhưng tròng mẹ còn nhanh nhẹn và khá tỉnh táo. Mỗi lần chúng tôi đến thâm nhà mẹ mừng lắm và kèo chúng tôi ngồi vào bộ bàn ghế gỗ, sai đứa cháu lấy nước rồi trò chuyện. Có điều, lần nào cũng giống lần nào, sau khi hỏi han tôi chuyện này, chuyện nọ, y như rằng, mẹ lại xoay qua nói về anh. Khuôn mặt già nhân nheo, đầy vết thâm đồi mồi, môi dính vết trầu đỏ, mẹ vừa nhai vừa nói: Hồi xưa...
Đúng vậy, bao giờ nói về anh, khuôn mặt mẹ cũng trầm ngâm rối bảo, hồi xưa...
- Mấy con biết không, hồi xưa, hồi thằng Toàn lên chín, lên mười, ai cũng bảo nó giống cha như đúc! Mẹ chỉ tay lên bàn thờ, kìa ảnh ông Tư, ba nó đó! Con thấy giống không? Tội nghiệp thằng nhỏ, đi chơi ngoài đường, nghe người ta nói, chạy về hỏi mẹ. Mẹ trả lời: Ừ, rất giống! Nó cười và nó đợi. Nó bảo, nhất định khi về ba sẽ thương con lắm. Nhưng ông Tư không về. Ông ấy hy sinh trong một trận đánh nhau với Pháp đúng vào năm nó lên bốn tuổi. Tội nghiệp, nó khóc, nó buồn. Cũng may, sau này, có người bạn cũ, là bạn học, cho một tấm ảnh của ông Tư. Tấm ảnh nhỏ xíu, mang đi họa lại để thờ. Nhìn hình, nó bảo: Ước gì ba còn sống trở về!
- Con biết không, hồi xưa, khi chưa lên đường đi bộ đội, nó ân nhiều lắm. Có bữa, trời mưa lụt, di thả là ngoài đồng về, mẹ nấu hai *** gạo, ghế thêm sần, vậy mà nó ăn một hơi gần hết nổi com...
- Con biết không, nhà dột, tự nó đi cắt tranh về đánh thành tấm, rồi nhờ hàng xóm cùng giúp lợp giùm. Nó siêng năng mà lại khéo tay, dan nong, đan nia cũng được. Trong xóm ai nhớ điều gì nó
cũng giúp...
- Con biết không, hồi nó lớn lên, mẹ bảo, con lấy vợ đi cho mẹ nhớ. Nhà còn có mình con, con di đâu mẹ còn có con dâu. Nó cười. Con chưa gập người nào hiến lành, kiếm vội biết đâu chỉ làm mẹ khố...
- Con biết không, có lẫn mẹ ốm nặng, lại đang lúc làm múa, một mình nó vừa lo chuyện cày cuốc rồi thuê người cấy hộ, vậy mà nhiều đêm thi thức canh chừng, sợ mẹ có bé nào...
Mỗi lần chúng tôi đến, mẹ lại kể thêm một số chi tiết về cuộc đời anh. Tôi với Toàn cùng chung một đơn vị chủ lực của tỉnh. Ngày quen nhau, chúng tôi chưa tròn hai mươi. Thiếu ân, thiếu mặc, gian khổ của bộ đội thời chống Mỹ làm sao kế hết. Hai đứa hứa với nhau, ngày hòa bình đứa nào còn sống sẽ đến thâm mẹ đứa kia. Anh mất cha và tôi cũng vậy. Hứa thì hứa vậy thôi, chứ đứa nào cũng nghĩ mình sẽ sống. Sau những trận đánh nhau ở đồng bằng, rút lên rừng, tôi với anh thường treo võng nằm bên nhau, thôi thì tỉa lìa đủ chuyện. Anh kể về quê mình, mẹ mình, thình thoảng lại thở dài với câu hỏi: Không biết bây giờ bà cụ ở quê ra sao? Nhiều lúc ruột gan tôi cùng cồn cào như anh, nhưng đành an ủi nhau, không sao đâu, hòa bình đến nơi rồi.
Rồi anh ra đi. Ra đi trong một trận mà đơn vị chúng tôi đánh nhau với một đại đội của địch đi cán, lấn chiếm vùng giải phòng sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, Máu anh đồ ướt cả áo tôi bên cái hầm công sự còn màu đất mới. "Nhờ nói với mẹ tôi rằng tôi thương mẹ lắm...". Anh tất thờ khi lời dặn dò chưa kết thúc.
Ngày hỏa bình, chúng tôi đã dưa anh về nghĩa trang quê nhà và may mắn tôi sống ở thị trấn không cách xa nơi mẹ anh sống là bao. Kỳ vật của anh tôi mang về cho mẹ là chiếc võng ni lông đã ố màu. Chống hy sinh. Đứa con duy nhất của mẹ là anh cũng không còn nên mẹ sống chung với gia đình đứa châu gọi dì. Mỗi lần chúng tôi rủ nhau đến thâm là một lần mẹ lại kể về anh.
- Con biết không, hồi sắp đi thoát ly, thằng Toàn cử đi quanh nhà rồi nhìn mẹ nói: "Cái hiên nhà mình mưa xuống rất dễ trợt. Đêm hôm mẹ đi phải cẩn thận".
Những câu chuyện mẹ kể về anh cứ đấy dần qua những lần chúng tôi đến thâm. Thời gian trôi đi, nay mẹ đã già nhiều. Lưng đã còng. Mắt đã mờ. Có những lần chúng tôi đến, mẹ khó nhọc mài ngồi dậy được, giọng mẹ cũng không còn rành rọt như ngày nào, nhưng vẫn như trước, nói lòng vòng vài câu, mẹ lại nhắc đến anh.
Vừa rồi, chúng tôi rủ nhau mua tí quà và ghé thăm mẹ. Biết chúng tôi đến mẹ mừng. Bàn tay gấy guộc của mẹ nắm chặt lấy tay tôi. Một lát, mẹ hỏi:
- Nói thiệt mẹ nghe, trước khi chết, thằng Toàn có được ăn no không con?
- Dạ, có! Tôi nói dối để mẹ yên lòng. Nhưng thực ra, hôm ấy chúng tôi đánh nhau từ sáng tới chiều, trận chiến diễn ra quá ác liệt, nước chúng tôi còn không có uống nói chi đến chuyện ân no...
CÂU 1:Nêu tác dụng biện pháp tu từ? Ngôi Kể thứ mấy?
Câu 2:nhân vật tôi và anh Toàn hứa với nhau điều gì?
CÂu 3:qua lời hỏi của mẹ và nhân vật tôi anh chị có snghi gì về chiến tranh?
CÂu 4:nêu tình cảm giữa người với người?
Câu 5:nêu suy nghĩ của anh chị về các anh hùng Việt Nam hi sinh vì nền độc lập?
Quảng cáo
3 câu trả lời 3469
**Câu 1: Nêu tác dụng biện pháp tu từ? Ngôi kể thứ mấy?**
- **Biện pháp tu từ**:
- Biện pháp **nhân hóa** và **ẩn dụ** trong những câu miêu tả về mẹ (như “mẹ mừng lắm”, “mẹ lại nhắc đến anh”) làm nổi bật sự lo lắng, yêu thương sâu sắc của người mẹ với con.
- **Điệp ngữ**: "Con biết không" được lặp lại nhiều lần, làm tăng sự nhấn mạnh và tạo ra sự gần gũi trong lời kể của mẹ, thể hiện nỗi nhớ nhung, trăn trở.
- **Ngôi kể**: Ngôi thứ nhất, nhân vật "tôi" là người kể chuyện, giúp người đọc tiếp cận câu chuyện một cách chân thực, sâu lắng.
**Câu 2: Nhân vật "tôi" và anh Toàn hứa với nhau điều gì?**
- Hai người hứa với nhau rằng, nếu đứa nào còn sống sau chiến tranh, sẽ về thăm mẹ của đứa kia.
**Câu 3: Qua lời hỏi của mẹ và nhân vật "tôi", anh/chị có suy nghĩ gì về chiến tranh?**
- **Chiến tranh** mang đến mất mát và đau khổ cho những người ở lại. Những người mẹ mất con, những người lính như anh Toàn không chỉ hy sinh cuộc đời mình mà còn để lại sự đau lòng cho gia đình. Cuộc chiến không chỉ tàn phá về thể chất mà còn để lại những vết thương tinh thần không bao giờ lành cho người thân.
**Câu 4: Nêu tình cảm giữa người với người?**
- Tình cảm giữa các nhân vật là sự gắn bó sâu sắc, đầy yêu thương và trách nhiệm. Nhân vật "tôi" giữ lời hứa đến thăm mẹ anh Toàn, sự nhớ thương của mẹ dành cho con trai mình luôn tồn tại qua những câu chuyện về anh. Đó là tình cảm mẹ con, tình đồng đội, tình người trong hoàn cảnh khó khăn.
**Câu 5: Nêu suy nghĩ của anh/chị về các anh hùng Việt Nam hy sinh vì nền độc lập?**
- Các anh hùng đã hy sinh cả mạng sống của mình để bảo vệ đất nước và dân tộc. Sự hy sinh của họ là biểu tượng cho lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm và tình yêu thương sâu sắc đối với Tổ quốc. Nhờ sự cống hiến của họ, thế hệ sau được sống trong hòa bình. Những anh hùng đã ngã xuống, như anh Toàn, sẽ luôn được ghi nhớ và tôn vinh.
Câu 1: Nêu tác dụng biện pháp tu từ? Ngôi kể thứ mấy?
Tác dụng biện pháp tu từ: Tác giả sử dụng biện pháp so sánh, hình ảnh và hồi tưởng để làm nổi bật nỗi nhớ thương và tôn vinh tình cảm gia đình, đặc biệt là tình mẫu tử. Những hình ảnh cụ thể về mẹ và anh Toàn giúp người đọc cảm nhận được sự hy sinh, tình cảm và nỗi đau mất mát trong chiến tranh.
Ngôi kể: Ngôi kể là ngôi thứ nhất (nhân vật "tôi") giúp tạo cảm giác gần gũi và chân thật, đồng thời thể hiện cảm xúc và suy nghĩ sâu sắc của nhân vật.
Câu 2: Nhân vật tôi và anh Toàn hứa với nhau điều gì?
Nhân vật "tôi" và anh Toàn hứa với nhau rằng, khi hòa bình đến, người nào còn sống sẽ về thăm mẹ của người kia. Đây là một lời hứa thể hiện tình bạn và lòng tri ân đối với gia đình, cũng như sự tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
Câu 3: Qua lời hỏi của mẹ và nhân vật tôi, anh chị có suy nghĩ gì về chiến tranh?
Qua lời hỏi của mẹ, đặc biệt là câu hỏi về việc anh Toàn có được ăn no không trước khi hy sinh, ta thấy rõ nỗi lo lắng và tình yêu thương vô bờ bến của mẹ dành cho con. Điều này cũng cho thấy chiến tranh đã tước đoạt đi nhiều thứ, không chỉ là sự sống mà còn là niềm vui, hạnh phúc. Chiến tranh để lại những mất mát đau thương, làm cho con người sống trong nỗi lo lắng và tiếc nuối.
Câu 4: Nêu tình cảm giữa người với người?
Tình cảm giữa người với người trong đoạn văn này rất sâu sắc. Đó là tình mẹ con thiêng liêng, tình bạn bè gắn bó và lòng biết ơn. Mẹ luôn nhớ về con trai, thể hiện sự hy sinh và nỗi đau mất mát. Nhân vật "tôi" cũng thể hiện sự tôn trọng và chia sẻ nỗi buồn với mẹ, cho thấy sự đồng cảm và gắn kết giữa những người đã trải qua chiến tranh.
Câu 5: Nêu suy nghĩ của anh chị về các anh hùng Việt Nam hy sinh vì nền độc lập?
Các anh hùng Việt Nam hy sinh vì nền độc lập xứng đáng được tôn vinh và ghi nhớ. Họ là những người đã dũng cảm chiến đấu, chịu đựng gian khổ và mất mát để mang lại tự do cho dân tộc. Sự hy sinh của họ không chỉ là một phần lịch sử mà còn là bài học về lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý chí kiên cường. Thế hệ hôm nay cần ghi nhớ và tri ân công lao của họ, đồng thời phát huy những giá trị mà họ đã để lại, xây dựng đất nước ngày càng phát triển.
4o mini
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
14628
-
6234
-
4845