Dương Thị Vân Anh
Đồng đoàn
285
57
Câu trả lời của bạn: 14:53 13/04/2021
B/ Tìm hiểu về bài thơ Sang thu
1. Tác giả
- Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguy
Câu trả lời của bạn: 14:51 13/04/2021
E/ Bài văn mẫu phân tích bài thơ Viếng lăng Bác
Có những tình cảm trong cuộc sống có ý nghĩa vô cùng với tâm hồn mỗi người. Đó là tình yêu ruột thịt, là tình bạn bè, anh em, đồng chí. Những tưởng không có sợi dây nào gắn kết những con người tưởng chừng xa lạ, nhưng luôn ấm áp tình thương. Ấy là người con miền Nam- Vi
Câu trả lời của bạn: 14:50 13/04/2021
D/ Sơ đồ tư duy tác phẩm Viếng lăng Bác
Câu trả lời của bạn: 14:50 13/04/2021
C/ Đọc hiểu bài thơ Viếng lăng Bác
1. Cảm xúc khi đến lăng Bác
Câu thơ đầu tiên giản dị như một lời thông báo → tâm trạng xúc động, sau bao năm mong mỏi mới được ra viếng Bác
+ Cách xưng hô “con - Bác” theo phong cách Nam Bộ → vừa gần gũi, thân thương, vừa trân trọng, thành kính như tình cảm của người con với cha lâu ngày gặp lại.
+ Cách nói giảm, nói tránh “thăm” thay cho “viếng” → giảm nỗi đau thương mất mát, đồng thời khẳng định Bác còn sống mãi trong tâm tưởng của mọi người.
- “Hàng tre bát ngát” là hình ảnh thực, hết sức quen thuộc, thân thương của làng quê đất nước Việt Nam.
- Hàng tre “xanh xanh Việt Nam/ Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng của dân tộc Việt Nam với vẻ đẹp thanh cao và sức sống bền bỉ, kiên cường.
+ Thành ngữ “bão táp mưa sa”: những khó khăn, gian khổ nhân dân ta đã vượt qua trong hành trình dựng nước và giữ nước
+ “đứng thẳng hàng”: tinh thần đoàn kết, phẩm chất kiên cường, vững vàng vượt qua mọi thử thách
+ “Ôi!”: từ cảm thán, biểu thị niềm xúc động tự hào trước hình ảnh hàng tre, trước vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam.
→ Hàng tre ấy như đội quân danh dự bảo vệ giấc ngủ cho Người.
=> Thể hiện những xúc cảm chân thành của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác.
2. Cảm xúc khi hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác
Có hai cặp câu với những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi độc đáo:
- Hình ảnh thực “mặt trời trên lăng” được nhân hóa “ngày ngày đi qua” chiêm ngưỡng “mặt trời trong lăng”.
+ Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng”: Nếu mặt trời tự nhiên vĩ đại, bất diệt, mang lại sự sống cho muôn loài thì với dân tộc Việt Nam, Bác đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc, là vị lãnh tụ vĩ đại sống mãi trong trái tim mọi người.
+ “rất đỏ”: là ẩn dụ cho phẩm chất cách mạng cao đẹp của Bác, cả một đời vì nước vì dân.
- Hình ảnh thực “dòng người đi trong thương nhớ”: ngày ngày dòng người vào lăng viếng Bác trong lòng tiếc thương kính cẩn.
+ Đó còn là hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác gợi một không gian tràn ngập nỗi nhớ thương.
+ Hình ảnh ẩn dụ độc đáo: “dòng người - tràng hoa” → không chỉ là tràng hoa được kết nên bởi dòng người vào lăng viếng Bác, còn là hoa của lòng nhớ thương, biết ơn, thành kính… hoa của cuộc đời đã nở dưới ánh sáng của Bác… tất cả đang thành kính dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”
+ Hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” lại chứa đựng bên trong một hình ảnh ẩn dụ đẹp (mùa xuân) → Cuộc đời của Bác đẹp như những mùa xuân.
+ Phép ẩn dụ, điệp ngữ “ngày ngày” vừa gợi ấn tượng về cõi trường sinh, vừa gợi tấm lòng biết ơn, thành kính không nguôi nhớ Bác.
=> Khổ thơ vừa là lời ngợi ca sự vĩ đại, bất tử của Bác Hồ vừa thể hiện lòng ngưỡng mộ, tôn kính và biết ơn vô hạn của nhân dân, đối với Bác.
3. Cảm xúc khi ở trong lăng
Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào.
- Hai câu đầu: khung cảnh, không khí trang nghiêm, thanh tĩnh
+ Cách nói giảm: “giấc ngủ bình yên” gợi sự bất tử của Bác và lòng kính yêu Người.
+ Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền”: di
Câu trả lời của bạn: 14:49 13/04/2021
B/ Tìm hiểu về bài thơ Viếng lăng Bác
1. Tác giả
- Vi
Câu trả lời của bạn: 14:48 13/04/2021
D/ Sơ đồ tư duy tác phẩm
Câu trả lời của bạn: 14:46 13/04/2021
E/ Bài văn mẫu phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Thanh Hải là nhà thơ tiêu biểu của mảnh đất cố đô xinh đẹp, ông nổi tiếng với những vần thơ mượt mà, sâu lắng mang đậm văn hóa con người xứ Huế. Mùa xuân nho nhỏlà một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ được ông viết vào năm 1980, trong khung cảnh hòa bình, trong công cuộc xây dựng đất nước. Một hồn thơ trong trẻo. Một điệu thơ ngân vang đất nước vào xuân vui tươi rộn ràng.
Sáu câu thơ đầu như tiếng hát reo vui đón chào một mùa xuân đẹp đã về. Trên dòng sông xanh của quê hương mọc lên, một bông hoa tím biếc”. Động từ "mọc" nằm ở vị trí đầu câu thơ gợi tả sự ngạc nhiên vui thú, một niềm vui hân hoan đón chào tín hiệu mùa xuân:
Mọc giữa dòng sông xanh,
Một bông hoa tím biếc.
"Bông hoa tím biếc" ấy chỉ có thể là hoa lục bình, hoặc hoa súng mà ta thường gặp trên ao hồ, sông nước làng quê:
Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông...
(Trở về quê nội - Lê Anh Xuân)
Màu xanh của nước hòa hợp với màu "tím biếc" của hoa đã tạo nên bức tranh xuân chấm phá mà đằm thắm. Ngẩng nhìn bầu trời, nhà thơ vui sướng lắng tai nghe chim chiền chiện hót. Chim chiền chiện còn gọi là chim sơn ca, bạn thân của nhà nông. Từ "ơi" cảm thán biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe chim hót:
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Hai tiếng ''hót chi" là giọng điệu thân thương của người dân Huế được tác giả đưa vào di
Câu trả lời của bạn: 14:46 13/04/2021
C/ Đọc hiểu bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
1. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước (3 khổ thơ đầu)
a. Khổ 1
- Chỉ qua sáu câu thơ đầu của bài thơ, tác giả Thanh Hải vẽ nên một bức tranh xuân xứ Huế tươi đẹp, tràn đầy sức sống.
- Màu sắc, đường nét trong tranh tươi tắn, hài hòa: “Mọc giữa dòng sông xanh / Một bông hoa tím biếc”
+ Màu tím biếc nổi bật trên sắc xanh hiền hòa trải dài đến vô tận của dòng sông tạo nên một bức tranh hài hòa, đậm đà chất Huế.
+ Động từ “mọc” di
Câu trả lời của bạn: 14:45 13/04/2021
B/ Tìm hiểu về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
1. Tác giả
- Thanh Hải (1930 – 1980) tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Thanh Hải là cây bút có công lớn trong việc xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.
2. Tác phẩm
a, Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” sáng tác tháng 11 năm 1980 khi tác giả đang nằm trên giường bệnh và không lâu sau, nhà thơ qua đời.
b. Thể thơ: 5 chữ
c. Phương thức biểu đạt
Biểu cảm + Miêu tả
d. Bố cục
2 phần
- Phần 1 (3 khổ thơ đầu): Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước.
- Phần 2 (3 khổ cuối): Ước nguyện tha thiết, chân thành của nhà thơ trước mùa xuân.
e. Ý nghĩa nhan đề
- Mùa xuân nho nhỏ là một nhan đề độc đáo, sáng tạo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ.
- Mùa xuân là một khái niệm chỉ thời gian, từ nho nhỏ lại làm hình ảnh mùa xuân hiện lên có hình khối rõ ràng, cụ thể, gợi một mùa xuân với vẻ đẹp riêng. Sự kết hợp hai khái niệm đã tạo một ẩn dụ đẹp, biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc đời mỗi con người.
- Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân - nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng lại rất khiêm nhường chỉ là một mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn của đất nước, của cuộc đời chung. Khát vọng đó làm đẹp thêm lên mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cái riêng với cái chung, giữa nhỏ bé với to lớn, giữa mỗi người với mọi người
- Nhan đề đã định hướng cảm xúc của tác giả, định hướng cách xây dựng hình tượng mùa xuân bao trùm tác phẩm.
g. Giá trị nội dung
- Tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời.
- Ước nguyện được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của đất nước, của dân tộc.
h. Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ năm tiếng.
- Nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca.
- Nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm.
- Phép so sánh và ẩn dụ sáng tạo.
Câu trả lời của bạn: 14:44 13/04/2021
E/ Bài văn mẫu phân tích bài thơ Con cò
Chế Lan Viên (1920 – 1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê gốc Quảng Trị, lớn lên ở Bình Định. Ông là nhà thơ xuất sắc đã có những đóng góp quan trọng cho nền văn học dân tộc ở thế kỉ XX. Nhà nước đã truy tặng ông Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. Phong cách thơ Chế Lan Viên rất độc đáo, vừa sắc sảo tính trí tuệ, triết lí, vừa đậm đà chất trữ tình. Hình ảnh trong thơ ông phong phú, đa dạng, kết hợp giữa các yếu tố thực và ảo, được sáng tạo bằng trí tưởng tượng phong phú, do đó mà chứa đựng nhiều bất ngờ, thú vị.
Bài thơ Con cò nhắc lại hình ảnh con cò quen thuộc trong ca dao nhưng nhà thơ không dừng ở những ý tứ có sẵn mà mở rộng, nâng cao thành biểu hiện cao quý của tình mẹ, lòng mẹ lớn lao, sâu nặng, lâu dài đối với cuộc đời của mỗi đứa con.
Bài thơ Con cò được viết theo thể tự do, các câu thơ dài ngắn không đều, nhiều câu thơ được lặp lại, nhịp điệu biến đổi linh hoạt. Mỗi đoạn đều bắt đầu bằng vài câu thơ ngắn, sau đó là những câu thơ dài mở ra sự liên tưởng phong phú hoặc suy ngẫm có tính triết lí sâu xa.
Khai thác hình ảnh con cò trong những lời hát ru đã có tự ngàn năm, bài thơ Con cò của Chế Lan Viên ngợi ca tình mẹ thiêng liêng và khẳng định ý nghĩa to lớn của lời ru đối với đời sống tâm hồn của mỗi con người.
Hình ảnh con cò quen thuộc trong ca dao được Chế Lan Viên lấy làm hình tượng chủ đạo của bài thơ. Con cò là ẩn dụ về người nông dân đặc biệt là người phụ nữ trong cuộc sống lam lũ, nhọc nhằn nhưng giàu lòng nhân ái và đức hi sinh. Chế Lan Viên khai thác hình ảnh con cò ở ý nghĩa biểu trưng cho tấm lòng người mẹ:
Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay:
“Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ,
Con cò Đồng Đăng…"
Những câu thơ trên gợi cho chúng ta nhớ tới câu ca dao đã trở thành lời ru quen thuộc của bà, của mẹ;
Con cò bay lả, bay la,
Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng…
Con cò bay lả, bay la
Bay từ cửa phủ bay về Đồng Đăng…
Tác giả chỉ lấy ra vài chữ trong mỗi câu ca dao để góp phần thể hiện sự phong phú về ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò.
Không gì bằng hạnh phúc của người mẹ ru con ngủ trong khung cảnh thanh bình. Sung sướng thay những đứa trẻ được lời ru ngọt ngào của mẹ đưa vào giấc ngủ say nồng:
Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn,
Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.
“Con cò ăn đêm,
Con cò xa tổ,
Cò gặp cành mềm,
Cò sợ xáo măng…”
Ngày xưa, cò phải vất vả kiếm ăn nơi đồng sâu, đồng cạn. Còn ngày nay, con đã có mẹ nuôi dưỡng, bế bồng nên chơi rồi lại ngủ. Thấp thoáng trong lời ru của mẹ là những nỗi cực nhọc của cuộc mưu sinh. Nhưng con không phải sợ vì đã có mẹ luôn ở kề bên. Mẹ là chỗ dựa đáng tin cậy, là lá chắn che chở suốt đời cho con:
Ngủ yên! Ngủ yên!
Cò ơi, chớ sợ!
Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân,
Con chưa biết con cò, con vạc.
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát,
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.
Qua lời ru thắm thiết nghĩa tình của mẹ, hình ảnh con cò đã đến với tâm hồn tuổi âu thơ một cách nhẹ nhàng mà thấm thía. Lời ru của mẹ chính là sự khởi đầu con đường đi vào thế giới tâm hồn của mỗi con người, ở tuổi nằm nôi, đứa trẻ chưa thể hiểu nội dung, ý nghĩa của những lời ru nhưng chúng cảm nhận được sự vỗ về, âu yếm trong âm điệu ngọt ngào, êm dịu. Chúng đón nhận tình yêu thương, che chở của người mẹ bằng trực giác.
Đoạn thơ thứ nhất khép lại bằng hình ảnh rất đáng yêu: Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.
Ở đoạn thơ thứ hai, cánh cò từ trong lời ru đã in sâu vào tiềm thức của tuổi thơ, trở nên gần gũi, thân thiết và sẽ theo con suốt cả cuộc đời. Hình ảnh con cò trong ca dao tiếp tục sự sống của nó trong tâm hồn của mỗi chúng ta bởi nó đã được xây dựng bằng sự chiêm nghiệm và trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ. Hình ảnh con cò mang ý nghĩa tượng trưng cho lòng mẹ, cho sự dìu dắt, nâng đỡ dịu dàng và bền bỉ của mẹ đối với con.
Với trái tim chan chứa yêu thương, người mẹ hiền ru con, đưa con vào giấc ngủ êm đềm:
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên !
Cho cò trắng đến làm quen,
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ.
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.
Cánh cò trở thành bạn đồng hành của con từ tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành:
Mai khôn lớn, con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.
Lớn lên, lớn lên, lớn lên…
Con làm gì ?
Con làm thi sĩ!
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn.
Đến đoạn thơ thứ ba thì hình ảnh con cò lại được khai thác ở ý nghĩa tượng trưng cho tấm lòng người mẹ lúc nào cũng theo sát bên con. Lời ru của mẹ sao mà thiết tha, xúc động:
Dù ở gần con,
Dù ở xa con
Lên rừng xuống bể,
Cò sẽ tìm con,
Cò mãi yêu con.
Từ sự thấu hiểu tấm lòng người mẹ, nhà thơ đã khái quát thành một quy luật tình cảm có tính chất vĩnh hằng:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ,
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.
Câu thơ trên là sự khẳng định: Con dù lớn vẫn là con của mẹ. Câu thơ dưới: Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con nhấn mạnh tình mẹ bao la, không bao giờ vơi cạn.
Từ xúc cảm chân thành, tác giả đã mở rộng, nâng cao ý nghĩa của hình tượng thơ và khái quát thành triết lí. Đó là đặc điểm thường thấy và cũng là ưu thế của thơ Chế Lan Viên.
Phần cuối bài thơ trở lại với âm hưởng nhịp nhàng, chậm rãi của lời ru và tác giả đã đúc kết ý nghĩa phong phú của hình tượng con cò trong những lời ru ấy:
À ơi!
Một con cò thôi,
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Ngủ đi ! Ngủ đi !
Cho cánh cò, cánh vạc,
Cho cả sắc trời
Đến hát quanh nôi
Bài thơ “Con cò” được xây dựng bằng bút pháp nghệ thuật độc đáo. Trước hết, về thể thơ, tác giả sử dụng thể thơ tự do bởi nó có thể biểu hiện nhiều cung bậc của cảm xúc một cách tự nhiên, linh hoạt. Tuy tác giả không sử dụng thể lục bát quen thuộc nhưng bài thơ vẫn mang âm hưởng nhẹ nhàng, tha thiết của lời ru. Bài thơ không đơn thuần là một lời hát ru mà còn là những triết lí về cuộc đời. Nó hướng tâm trí người đọc vào sự suy ngẫm về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
Bài thơ còn thể hiện sự vận dụng ca dao một cách sáng tạo của Chế Lan Viên. Hình ảnh con cò trong ca dao chỉ là điểm xuất phát, khơi nguồn cho cảm xúc và những liên tưởng phong phú của tác giả. Hình ảnh con cò trong bài thơ này thiên về ý nghĩa biểu tượng mà ý nghĩa biểu tượng không phải lúc nào cũng rành mạch, rõ ràng. Tuy hình ảnh con cò trong bài thơ gần gũi, quen thuộc nhưng nó vẫn hàm chứa những ý nghĩa mới mẻ và có giá trị biểu cảm cao.
Tình mẫu tử là đề tài có từ xa xưa và là nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn của các nhà thơ. Người ta cũng đã nói nhiều về ý nghĩa và vai trò của hát ru đối với tuổi thơ và với cả cuộc đời con người. Hát ru vốn rất quen thuộc và tự nhiên đối với các bà mẹ ngày xưa, nhưng ngày nay, nó đã trở thành một việc khó khăn đối với không ít những người mẹ trẻ. Không được nghe lời mẹ ru, đó là điều thiệt thòi đáng kể đối với tuổi ấu thơ. Bài thơ Con cò của Chế Lan Viên được viết từ giữa thế kỉ XX nhưng giờ đây, nó vẫn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà thấm thía về tình mẹ con và khẳng định vai trò tạo dựng nhân cách, nâng đỡ tâm hồn của hát ru đối với đời sống tinh thần của con người. Đúng như nhà thơ Nguy
Câu trả lời của bạn: 14:42 13/04/2021
D/ Sơ đồ tư duy tác phẩm Con cò
Câu trả lời của bạn: 14:41 13/04/2021
C/ Đọc hiểu bài thơ Con cò
1. Hình ảnh con cò qua những lời ru đến với tuổi ấu thơ
- Tác giả chỉ lấy vài chữ trong mỗi câu ca dao mà gợi nhớ cả câu. Qua đó thể hiện sự phong phú trong ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò:
+ Hình ảnh con cò gợi ra không gian và khung cảnh quen thuộc của làng quê với cuộc sống thanh bình, yên ả:
“Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ,
Con cò Đồng Đăng...”
+ Hình ảnh con cò tượng trưng cho người phụ nữ, người nông dân nhọc nhằn, vất vả lam lũ kiếm sống nhưng vẫn nỗ lực giữ gìn phẩm giá:
“Con cò ăn đêm
Con cò xa tổ,
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng…”
- Qua những lời ru của mẹ, hình ảnh con cò đến với tâm hồn tuổi thơ một cách vô thức. Đây là sự khởi đầu đi vào thế giới, tâm hồn con người:
+ Ở tuổi ấu thơ, đứa trẻ chưa thể hiểu và cũng chưa cần hiểu nội dung, ý nghĩa của những lời ru này. Chúng chỉ cần được vỗ về những trong âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của những lời ru để đón nhận bằng trực giác, vô thức tình yêu và sự che chở của người mẹ:
Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay
+ Đoạn thơ đầu khép lại bằng hình ảnh thanh bình của cuộc sống. Tác giả so sánh con cò trong câu ca của mẹ với hình ảnh đứa con bé bỏng, ngây thơ. Con được mẹ ôm ấp, chăm bẵm, sống trong tình yêu thương vô bờ của mẹ nên thật thanh thản vô tư. 6 câu thơ cuối đoạn, tác giả đã mượn lời của người mẹ và trực tiếp bộc lộ cảm xúc:
“Ngủ yên! ngủ yên! cò ơi, chớ sợ!
Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân.
Con chưa biết con cò, con vạc.
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát”,
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân
Hai biểu tượng, Con cò yếu đuối và đứa con bé bỏng đã ngợi ca tình yêu thương vô bờ bến của mẹ. Mẹ luôn nhân từ, rộng mở với những gì nhỏ bé, đáng thương, cần được che chở. Cách ngắt nhịp 2/2/2/2 đều đặn, kết hợp với điệp từ "ngủ yên" được nhắc lại hai lần và các dấu chấm cảm liên tiếp xuất hiện, làm cho nhịp thơ trở nên ngọt ngào, nhẹ nhàng, thiết tha, rất phù hợp với lời hát ru con của người mẹ: vỗ về, ầu ơ, chăm chút....
- Không chỉ vậy, khi em bé ngon giấc, người mẹ còn gửi tới em những tâm tình của mình. Trong lời ru của mẹ, tác giả đã sử dụng rất nhiều hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa: “cành mềm mẹ đã sẵn tay nâng”, “lời ru của mẹ thấm hơi xuân” hay “sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân”. Những hình ảnh ẩn dụ ấy nói lên tình yêu thương dạt dào vô bờ bến mẹ dành cho con.
- Trong lời ru của mẹ, còn như có cả sắc trời, đất nước, quê hương: “thấm hơi xuân”. Hơi xuân không chỉ là cái không khí mùa xuân, cái vẻ đẹp của đất trời thiêng liêng mà đó còn là tình cảm dịu êm, tha thiết, ngọt ngào, là cái tươi mát sáng trong từ những điệu ru của mẹ dành cho con.
=> Mẹ muốn con được hưởng trọn vẹn sự ngọt ngào, yên ấm của tuổi thơ. Lời ru của mẹ như hơi xuân ấm áp, tốt lành.
2. Hình ảnh con cò gắn bó với con qua từng chặng đường đời
- Trong đoạn thơ 1, hình tượng cánh cò trong lời ru của mẹ là điểm khởi đầu, điểm xuất phát. Đến đoạn đoạn thơ 2, cánh cò đã trở thành người bạn tuổi ấu thơ, theo cùng con người trên mỗi chặng đường đi, trở thành bạn đồng hành của con người trong suốt cuộc đời. Hình ảnh con cò được xây dựng bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú của nhà thơ. Cánh cò như được bay ra từ những câu ca dao để sống trong tâm hồn con người, theo và cùng nâng đỡ con người trong mỗi chặng đường. Như thế, hình ảnh con cò đã gợi ý nghĩa biểu tượng về lòng mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ dịu dàng và bền bỉ của người mẹ.
- Cánh cò đã trở thành bạn đồng hành của con người trên suốt đường đời. Từ cánh cò của tuổi ấu thơ thật ngộ nghĩnh và đầm ấm, cò đến bên nôi, cò ngủ với con:
“Con ngủ yên thì cò cũng ngủ,
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi”
- Đến khi cò đi học cùng với con, cánh cò quấn quýt bước chân con:
“Mai khôn lớn, con theo cò đi học,
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.”
Và sau này cánh cò bay vào câu thơ khi con làm thi sĩ.
“Lớn lên! Lớn lên! Lớn lên!
Con làm gì? Con làm thi sĩ!
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn”
Điệp ngữ “lớn lên”, “con” khiến nhịp thơ nhanh hơn, dồn dập hơn thể hiện niềm háo hức, mong chờ của người mẹ vào tương ai tươi sáng của đứa con.
=> Hình ảnh thơ lung linh một vẻ đẹp bất ngờ, di
Câu trả lời của bạn: 14:39 13/04/2021
B/ Tìm hiểu về bài thơ Con cò
1. Tác giả
- Chế Lan Viên (1920- 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
- Ông nổi tiếng trong phong trào thơ mới, là một trong những tên tuổi hàng đầu của thơ Việt Nam thế kỉ XX.
- Năm 1996 được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ được sáng tác năm 1962 in trong tập Hoa ngày thường- Chim báo bão (1967).
b. Thể thơ: Tự do
c. Phương thức biểu đạt
Biểu cảm kết hợp với tự sự và miêu tả
d. Bố cục
3 đoạn:
+ Đoạn 1: Hình ảnh con cò qua lời ru của mẹ thời thơ ấu.
+ Đoạn 2: Hình ảnh con cò gắn bó với con qua từng chặng đường đời.
+ Đoạn 3: Suy ngẫm và triết lí về ý nghĩa lời ru.
e. Ý nghĩa nhan đề
- Con cò là hình ảnh tượng trưng cho người nông dân, người phụ nữ trong cuộc sống nhiều vất vả, nhọc nhằn nhưng giàu đức tính tốt đẹp.
- Từ hình ảnh trong ca dao qua các lời hát ru: “con cò cổng phủ”, "con cò Đồng Đăng” nay đã hóa thân vào hình bóng của người mẹ gầy lam lũ trọn đời lo lắng cho con. Hình ảnh con cò trong ca dao là nơi xuất phát, là điểm tựa cho những liên tưởng sáng tạo rộng mở của tác giả. Nó đã trở thành hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng nhưng lại rất gẫn gũi, rất quen thuộc mà do đó có khả năng hàm chứa những ý nghĩa mới giàu giá trị biểu cảm.
g. Giá trị nội dung
Khai thác hình tượng con cò trong những câu hát ru, bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên đã ca ngợi tình mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc sống con người.
h. Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ tự do, ngôn ngữ thơ giản dị, giàu hình ảnh.
- Giọng thơ gợi sự suy ngẫm, triết lí.
- Vận dụng sáng tạo hình ảnh con cò trong ca dao.
Câu trả lời của bạn: 14:37 13/04/2021
E/ Bài văn mẫu phân tích tác phẩm Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten
Nghệ thuật trong văn học là nơi thăng hoa của hiện thực, nhìn thấu đời sống nội tâm của mỗi nhân vật. Khác với nó, văn bản khoa học lại đi sâu vào nghiên cứu tự nhiên rồi rút ra nhận định về sự vật. Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten là một công trình nghiên cứu nổi tiếng của Hi-pô-lít Ten, bằng cách so sánh và khám phá nhà văn đã chỉ ra sự khác nhau giữa hai loại văn bản khoa học và nghệ thuật. Dưới từng góc nhìn khác nhau chó sói và cừu lại bật lên một nét tính cách đối lập. Chó sói loài bạo chúa độc ác, quỷ quyệt nhưng có khi lại đáng thương vô cùng. Cừu một “thần dân”, hèn nhát yếu đuối nhưng ẩn sâu là một con vật thân thương, tốt bụng.
Hi-pô-lít Ten (1828-1893) là một nhà triết gia, sử gia và là nhà nghiên cứu văn học lừng danh của Pháp, viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp. La-phông-ten và thơ ngụ ngôn của ông là một công trình nghiên cứu nổi tiếng của H. Ten viết năm 1853. Văn bản Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten được trích từ chương II, phần thứ hai của công trình trên. Đoạn trích so sánh hình tượng chó sói và cừu trong cách nhìn của hai tác giả La-phông-ten và Buy-phông, từ đó H. Ten đã làm nổi bật đặc trưng của nghệ thuật là in đậm dấu ấn cách nhìn, cách cảm nhận của người nghệ sĩ.
H. Ten đã mượn lời bài thơ ngụ ngôn Chó sói và cừu của La-phông-ten để làm chủ đề nghiên cứu cho tác phẩm của mình. Nhân vật chó sói và cừu trong bài thơ đại diện cho hai thế lực đối lập. Một bên là tên bạo chúa, hung ác, tàn bạo, xảo quyệt. Một bên là cừu con yếu ớt, đáng thương, tội nghiệp.
Tác giả Buy-phông trong công trình nghiên cứu Vạn vật học nổi tiếng của mình đã chỉ ra rõ những đặc tính tự nhiên của loài cừu là “ngu ngốc và sợ sệt”. Chính vì vậy mà loài cừu thường tập trung thành bầy, không bao giờ dám tách đàn, chỉ một tiếng động nhỏ xíu phát ra cũng làm cho bầy cừu co rúm lại với nhau. Ông nói loài cừu đã “sợ sệt như thế lại còn hết sức đần độn”, bởi vì thế “chúng không biết trốn tránh nỗi nguy hiểm”. Loài cừu với sự ngu ngốc của mình chúng d
Câu trả lời của bạn: 14:37 13/04/2021
D/ Sơ đồ tư duy tác phẩm Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten
Câu trả lời của bạn: 14:36 13/04/2021
C/ Đọc hiểu văn bản Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten
1. Hình tượng cừu dưới ngòi bút của La Phông-ten và Buy – phông
Theo Buy- Phông | Theo La Phông Ten |
- Ngu ngốc và sợ sệt - Thụ động, không biết trốn tránh nguy hiểm, đần độn. => Nhận xét, nêu ra đặc tính cơ bản của loài vật một cách chính xác dưới con mắt của nhà vạn vật học. | - Thân thương, dịu dàng, tốt bụng, nhút nhát. - Có tình mẫu tử thật cảm động.
|
2. Hình tượng chó sói dưới ngòi bút của La Phông-ten và Buy-phông.
Theo La Phông Ten | Theo Buy- Phông |
- Là bạo chúa của cừu. - Là tên trộm cướp, khốn khổ và bất hạnh. - Là gã vô lại, luôn bị ăn đòn. - Dựng một vở hài kịch về sự ngu dốt. =>Dựa trên đặc tính cơ bản của loài sói , xây dựng con sói cụ thể, đói meo, có dã tâm, lập luận và nói năng như con người. | - Bộ mặt lấm lét, dáng vẻ hoang dã, tiếng hú rùng rợn, mùi hôi gớm ghiếc, bản tính hư hỏng, thù ghét kết bạn. - Thật đáng ghét, lúc sống thì có hại, lúc chết rồi thì vô dụng. - Dựng vở bi kịch về sự độc ác.
|
c. sự sáng tạo của nhà nghệ sĩ
Thủ pháp so sánh, đối chiếu, vừa chỉ ra sự tương đồng, vừa chỉ ra sự khác biệt căn biệt căn bản giữa cách đánh giá sự việc của nhà thơ và nhà khoa học.
+ Nhà khoa học: tả chính xác, khách quan dựa trên sự quan sát, nghiên cứu, phân tích để khái quát những đặc tính cơ bản của từng loài.
+ Nhà nghệ sĩ: dựa trên đặc điểm cơ bản của từng loài, kết hợp trí tưởng tượng và tình yêu loài vật. Chú ý đến đời sống tâm hồn, trí tuệ của loài vật, từ đó đem đến cho người đọc một ý nghĩa triết lí nào đó về cuộc đời, về con người.
=> Nêu bật đặc trưng của sáng tác nghệ thuật: in đậm dấu ấn cách nhìn, cách nghĩ riêng của nhà văn.
Câu trả lời của bạn: 14:34 13/04/2021
B/ Tìm hiểu về tác phẩm Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten
1. Tác giả
Hi-pô-lít Ten (1828-1893) là triết gia, sử gia người Pháp, nghiên cứu văn học, viện sĩ viện Hàn lâm Pháp.
+ Tác giả công trình nghiên cứu văn học nổi tiếng “La Phông-ten và thơ ngụ ngôn của ông” (1853).
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
Văn bản “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten” trích từ chương II, phần thứ hai công trình nghiên cứu khoa học nổi tiếng “La Phông- ten và thơ ngụ ngôn của ông” xuất bản lần đầu năm 1853.
b. Bố cục
- Phần 1: (từ đầu đến “Tốt bụng như thế”): Hình tượng cừu.
- Phần 2: (còn lại): Hình tượng chó sói.
c. Ý nghĩa nhan đề
Văn bản “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten” là nhan đề văn bản do người biên soạn sách giáo khoa đặt. Tên ấy nêu được nội dung chính của văn bản: bình luận về chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten.
d. Giá trị nội dung
Bằng cách so sánh hình tượng con cừu và con sói trong thơ ngụ ngôn La phông-ten với những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy-phông, H. Ten nêu bật đặc trưng của sáng tác nghệ thuật là in đậm dấu ấn cách nhìn, cách nghĩ của nhà văn.
e. Giá trị nghệ thuật
Cách trình bày và sắp xếp luận điểm chặt chẽ giàu thuyết phục, dẫn chứng khoa học, lối viết hấp dẫn
Câu trả lời của bạn: 14:31 13/04/2021
E/ Bài văn mẫu phân tích tác phẩm Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới
"Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới" là bài báo của Vũ Khoan, lần đầu được giới thiệu trên báo Tia sáng năm 2001. Tác giả là một trong những gương mặt mới của bộ phận lãnh đạo đất nước ta trong thời kì đổi mới, hội nhập. Đối tượng đối thoại là "lớp trẻ Việt Nam", những chủ nhân của đất nước ta trong thế kỉ XXI, thế hệ nối bước ông cha, gánh trên đôi vai mình sứ mệnh lịch sử vô cùng nặng nề là xây dựng Việt Nam trở nên giàu mạnh cường thịnh. Có thể xem câu văn đầu bài luận đã nêu lên ý tưởng chủ đạo của bài luận văn: "Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào nền kinh tế mới".
Tác giả đặt vấn đề và khẳng định: chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất trong những hành trang mà đất nước ta phải có và cần có. Bởi lẽ con người, từ cổ chí kim "vẫn là động lực phát triển của lịch sử", "vai trò con người lại càng nổi trội" trong thế kỉ XXI khi nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh mẽ. Phải chuẩn bị những cái cần thiết trong hành trang mang vào thế kỉ mới khi mà "sự phát triển như huyền thoại của khoa học và công nghệ...", khi mà "dưới tác động của những tiến bộ về khoa học và công nghệ, sự giao thoa, hội nhập giữa các nền kinh tế chắc chắn sẽ sâu rộng hơn nhiều!". Vấn đề thời cơ và thách thức được Vũ Khoan nêu lên và giải thích một cách khúc chiết, sáng tỏ.
Tiếp theo, tác giả nêu lên 3 nhiệm vụ: một là, thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp; hai là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ba là phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức. Và Vũ Khoan chỉ rõ: "Làm nên sự nghiệp ấy đương nhiên là những con người Việt Nam với những điểm mạnh và điểm yếu của nó". Có thể nói: Ý chí tự lực tự cường, tinh thần đổi mới hội nhập, và cái nhìn tỉnh táo là tư tưởng bao trùm phần đầu bản luận văn này. Phần thứ hai, tác giả lần lượt nêu lên, giải thích và bình luận những điểm mạnh, những điểm yếu của con người Việt Nam.
Cái mạnh của con người Việt Nam là "sự thông minh sáng tạo", bản chất tốt đẹp ấy "rất có ích" trong xã hội mới, khi mà "sự sáng tạo là một yêu cầu hàng đầu". Trong cái mạnh đó, dân trí ta lại có "những lỗ hổng kiến thức cơ bản", "khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế". Nguyên nhân là do "thiên hướng chạy theo những môn học thời thượng", "do lối học chay học vẹt nặng nề". Nếu "không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này", khắc phục những điểm yếu này "thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy tri thức cơ bản và biến đổi không ngừng".
Cái mạnh nữa của dân ta là "sự cần cù sáng tạo" nhưng trong cái mạnh ấy, "lại ẩn chứa những khuyết tật" của con người sản xuất nhỏ như "thiếu đức tính tỉ mỉ", hành động theo phương châm "nước đến chân mới nhảy " (thiếu nhìn xa trông rông, còn bị động), "liệu cơm gắp mắm" (làm ăn kiểu cò con, d
Câu trả lời của bạn: 14:31 13/04/2021
D/ Sơ đồ tư duy tác phẩm Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới
Câu trả lời của bạn: 14:29 13/04/2021
C/ Đọc hiểu văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới
1. Ý nghĩa ra đời của bài viết
- Bài viết ra đời vào đầu năm 2001, thời điểm chuyển giao giữa 2 thế kỉ, hai thiên niên kỉ - thời điểm bắt đầu một chặng đường mới.
- Luận điểm cơ bản của bài viết được nêu ra ngay trong câu mở đầu: Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào nền kinh tế mới.
Vấn đề ấy không chỉ có ý nghĩa thời sự trong thời điểm chuyển giao thế kỉ, mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với quá trình đi lên của đất nước. Bởi vì, nhận rõ điểm mạnh, điểm yếu, phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu là điều kiện hết sức cần thiết để phát triển đối với mỗi người và mọi dân tộc. Điều đó lại càng cần thiết với dân tộc ta khi thực sự đi vào công cuộc xây dựng, phát triển trong xu thế hội nhập, trong nền kinh tế có xu hướng toàn cầu hóa hiện nay.
Vấn đề nêu trực tiếp, rõ, ngắn gọn, có ý nghĩa thời sự và lâu dài trong quá trình đi lên của đất nước.
Trình tự lập luận của bài viết
a) Luận cứ 1: Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới thì quan trọng nhất là sự chuẩn bị của bản thân con người
Đây là luận cứ quan trọng mở đầu cho cả hệ thống luận cứ của văn bản. Nó có ý nghĩa đặt vấn đề, mở ra hướng lập luận của toàn văn bản. Luận cứ này dựa trên hai lí lẽ:
+ Từ cổ chí kim, bao giờ con người cũng là động lực phát triển của lịch sử.
+ Trong thế kỉ tới mà ai ai cũng thừa nhận rằng nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh mẽ thì vai trò con người lại càng nổi trội.
Con người sáng tạo ra lịch sử, những phát minh, sáng kiến vĩ đại, kì diệu đều là của con người... Vì vậy, trong thế kỉ mới – thế kỉ chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sự hội nhập kinh tế toàn cầu, chủ nhân vẫn là con người nên sự chuẩn bị bản thân con người lại càng trở nên cần thiết và quan trọng hơn.
=> Bằng lí lẽ sắc sảo, logic, tác giả đã cho ta thấy vai trò, vị trí của con người trong quá trình tiến hóa của nhân loại và dân tộc Việt Nam. Quan điểm xác đáng được tác giả rút ra trên cơ sở khoa học, thực ti