Châu Huy
Sắt đoàn
60
12
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 14:14 12/01/2022
Bằng hình thức nhân hóa, câu lục ngữ khẳng định "Cái nết đánh chết cái đẹp". "Cái nết" là tính nết, đức hạnh, tư tưởng, tình cảm của con người. "Nết" ở đây là nết xấu, tính xấu cho nên có thể "đánh chết" làm hại đến nhan sắc, cái đẹp hình thức bên ngoài cửa mỗi người.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 14:14 12/01/2022
Điều kiện tự nhiên Châu Phi ở phía Tây Nam đại lục Á – Âu, nằm trên trục đường giao thông quốc tế từ phía Đông sang phía Tây, là cầu nối của ba lục địa châu Á, châu Âu và châu Mỹ, nối liền Đại Tây Duơng với Ấn Độ Dương. Châu Phi được bao bọc đa phần bởi các đại dương lớn với độ dài của đường bờ biển là 26.000km. Ở phía Bắc, châu Phi tiếp giáp với Địa Trung Hải, phía Tây với Đại Tây Dương, phía Đông là Ấn Độ Dương và ở phía Đông Bắc, châu Phi tiệm cận với khu vực Trung Đông, tách với bán đảo Ả – rập bởi Hồng Hải. Châu Phi là lục địa lớn thứ ba trên thế giới, sau châu Á và châu Mỹ, với diện tích trên 30 triệu km². Do có vị trí khá đối xứng nhau về hai bán cầu Bắc và Nam, khí hậu của châu Phi có thể được chia làm sáu vùng chính.Trước tiên là khu vực trung tâm gần xích đạo và Ma-đa-gat-xca có khí hậu đặc trưng nhiệt đới nóng ẩm, với lượng mưa lớn và nhiệt độ cao quanh năm. Tiếp đó là hai vành đai nhiệt đới ở phía Bắc và Nam với khí hậu savan, nhiệt độ cao và lượng mưa phân bố chủ yếu vào mùa hè. Tiến về hai cực là vùng khí hậu thảo nguyên nửa sa mạc, với lượng mưa cũng tập trung về mùa hè nhưng hạn chế hơn. Giáp với hai khu vực này là vùng khí hậu sa mạc đặc trưng với sa mạc Xa-ha-ra ở phía Bắc và sa mạc Kalahari ở phía Nam. Tận cùng của hai vùng sa mạc này là vành đai khí hậu thảo nguyên bán sa mạc với lượng mưa tập trung về mùa đông. Cuối cùng ở hai cực Bắc và Nam của châu lục là những dải dất hẹp có khí hậu cận nhiệt đới kiểu Địa Trung Hải với thời tiết ôn hòa. Do có sự phân chia của điều kiện tự nhiên và các vùng khí hậu theo khu vực địa lý như vậy đã ảnh hưởng phần nào đến sự phân hóa về kinh tế của các nước trong mỗi khu vực, dẫn đến có nước có nhiều thuận lợi để phát triển các ngành nông nghiệp, thủy sản… nhưng đồng thời cũng tồn tại nhiều quốc gia không thể tự đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của mình về lương thực thực phẩm. Châu Phi có nguồn tài nguyên tự nhiên rất phong phú với nhiều nguyên liệu quan trọng có trữ lượng lớn trên thế giới. Trong 50 loại khoáng sản chủ yếu của thế giới thì châu Phi có trữ lượng đứng đầu thế giới đến 17 loại: 90% kim cương (tập trung ở Cộng hòa Dân chủ Công-gô, Nam Phi, Namibia, Ăng-gô-la, Ghana), 87% cobalt (Cộng hòa Dân chủ Công-gô), 67% vàng, hơn 70% mangan và photphat, 37% uranium, 87% lithium, 54% crom, 21% đồng và boxit….Ngoài ra, châu Phi còn có trữ lượng lớn về dầu mỏ và khí đốt ở An-giê-ri, Ni-giê-ri-a, Ăng-gô-la, Li-bi, Ga-bông, Cộng hòa Công-gô… Hơn nữa, với hệ thống sông hồ dày đặc, châu Phi còn có tiềm năng rất dồi dào về thủy điện, chiếm 35,4% tiềm năng toàn thế giới. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên phân bố không đồng đều, một số nước rất giàu tài nguyên khoáng sản chiến lược như kim cương, vàng, uranium tập trung ở các nước phía Nam châu Phi, dầu mỏ ở khu vực Bắc Phi và Tây Phi. Ngược lại, những nước ở Trung và Đông Phi lại rất nghèo, nguồn tài nguyên nghèo nàn, thậm chí không có đường ra biển nên gặp nhiều khó khăn trong giao lưu buôn bán. Với những điều kiện tự nhiên phong phú, các quốc gia châu Phi hoàn toàn có khả năng phát triển nền kinh tế nếu biết kết hợp và sử dụng một cách hợp lý các lợi thế của mình. 2. Đặc điểm văn hoá xã hội - Về lịch sử Châu Phi là lục địa có lịch sử lâu đời và các vùng cao nguyên miền Nam châu Phi đuợc coi là nơi sinh sống đầu tiên của loài người trên Trái Đất cách đây 2 – 5 triệu năm. Thế kỷ 16 – 17, người châu Âu bắt đầu công cuộc khai phá châu Phi. Năm 1482, người Bồ Đào Nha đã thiết lập trạm thương mại đầu tiên dọc theo bờ biển Ghi-nê ở Elmina (thuộc lãnh thổ Ghana) với các hàng hóa được trao đổi chính là vàng, ngà voi và hồ tiêu. Trong các thế kỷ 18 – 19, do nhận thấy nguồn tài nguyên giàu có của lục địa này, các nước châu Âu bắt đầu đẩy mạnh các cuộc khai phá châu Phi, đến cuối thế kỷ 19, hầu như toàn bộ châu Phi đã bị làn sóng thực dân châu Âu đô hộ, trong đó hai thực dân lớn nhất là Pháp và Anh. Pháp đô hộ chủ yếu ở phía Tây và Tây Bắc lục địa, chinh phục các nước như châu Phi xích đạo, Ca-mơ-run, An-giê-ri, Ma-rốc và Tuy-ni-di… Anh chủ yếu đô hộ khu vực Đông và Nam châu Phi, bao gồm các nước như Xu-đăng, Xô-ma-li, Uganda, Kê-ni-a…và một số nước ở Tây Phi như Găm-bia, Sierra Leon, Ni-giê-ri-a… Tuy xuất hiện ở châu Phi sớm nhất nhưng người Bồ Đào Nha chỉ đô hộ một phần nhỏ ở châu Phi là các nước Ghi-nê, Ăng-gô-la, Mô-dăm-bích và một số đảo ở bờ biển Tây Phi; Bỉ chiếm giữ Công-gô, Ru-an-đa và Bu-run-di; Tây Ban Nha chiếm một phần Ghi-nê, một phần sa mạc Xa-ha-ra, lập chế độ bảo hộ một phần lãnh thổ Ma-rốc. Ngoài ra Đức, Italia cũng chiếm cho mình một số vùng đất ở khu vực Tây, Nam và Đông châu lục. Chính cách chính sách áp đặt phân chia biên giới lãnh thổ, áp bức bóc lột, chia để trị mà chủ nghĩa thực dân để lại là nguyên nhân sâu xa dẫn đến các tranh chấp, xung đột ở châu Phi mà hậu quả nặng nề của nó còn để lại cho đến ngày nay. Thế kỷ XX là thời kỳ của quá trình đấu trành giành độc lập của các quốc gia Châu Phi. Một vài quốc gia đã bắt đầu độc lập từ đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, chỉ đến sau chiến tranh Thế giới thứ hai, cùng với sự hình thành của phe xã hội chủ nghĩa, sự suy yếu của chủ nghĩa thực dân, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, thì các nước châu Phi mới thực sự bắt đầu quá trình giành lại độc lập từ tay các đế quốc thực dân châu Âu. Nhờ quá trình đấu tranh giành độc lập, đến nay, tất cả 53 nước châu Phi đều là các quốc gia độc lập. - Về dân cư Dân cư châu Phi rất đa dạng, bao gồm trên 1.000 nhóm nhỏ khác nhau. Ở Bắc Phi chủ yếu là người A-rập, ở phía Nam Sahara chủ yếu là các tộc người Phi da đen. Ngoài ra còn có một bộ phận người gốc châu Âu và châu Á sống ở các nước có khí hậu cận nhiệt đới. Năm 2007, dân số châu Phi ước tính đạt trên 973 triệu người, chiếm 14% dân số thế giới, đứng thứ hai sau châu Á, mật độ dân số là 32,27 người/km². Dân số châu Phi tăng trưởng nhanh, hiện nay đạt khoảng 1,8% năm và được dự đoán sẽ tiếp tục tăng nhanh trong thời gian tới. Ước tính đến năm 2015, dân số châu Phi sẽ đạt khoảng 1.050 triệu người.Về ngôn ngữ Về mặt ngôn ngữ, các bộ tộc châu Phi đều có thổ ngữ riêng, nhưng về chữ viết thì chỉ có chữ Ả - rập ở Bắc Phi, Amharique ở Ethiopia, Swahili ở Đông Phi và Africaner của người Boer tại Nam Phi. Các ngôn ngữ châu Âu cũng có ảnh hưởng đáng kể: tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha được coi là ngôn ngữ chính thức tại một số nước do kết quả của quá trình thực dân hóa. - Về tôn giáo Tính chất đa dạng về văn hóa của các bộ tộc đã dẫn đến các hình thức tín ngưỡng ở châu Phi cũng rất phong phú, bắt rễ lâu đời trong đời sống của các dân tộc và còn ảnh hưởng sâu rộng đến ngày nay. Từ thế kỷ thứ 15, đạo Hồi bắt đầu xâm nhập vào châu Phi từ phía Bắc, đến thế kỷ thứ 16 là sự xuất hiện của đạo Tin lành và đạo Thiên chúa cùng với quá trình bành trướng của chủ nghĩa thực dân châu Âu. Hiện nay có khoảng 40% dân số châu Phi theo đạo Hồi, tập trung phần lớn ở khu vực Bắc Phi, 40% theo đạo Tin lành và đạo Thiên chúa, còn lại 20% dân số chủ yếu theo các tôn giáo châu Phi bản địa, đuợc gọi là đạo Cổ truyền hay Vật kinh giáo, là những tôn giáo có xu hướng tiến hóa quanh thuyết vật kinh và tục thờ cúng tổ tiên. Chính các đặc điểm đa dạng về dân cư, văn hóa, tôn giáo này của châu Phi đã khiến cho châu lục này có một sự đa dạng hóa về nhu cầu tiêu dùng, có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế chung của toàn châu lục và tạo nên một sức hấp dẫn đặc biệt đối với phần còn lại của thế giới. Ngược lại, các đối tác bên ngoài cũng cần phải nghiên cứu rất kỹ các đặc điểm nói trên để có thể đáp ứng nhu cầu của một thị trường vô cùng rộng lớn nhưng lại hết sức phức tạp này. - Chính trị - xã hội Bước vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX, các xung đột khu vực ở châu Phi đã dần được hòa dịu. Tuy nhiên, một số điểm nóng mới đã xuất hiện, các xung đột nội bộ, mâu thuẫn sắc tộc – tôn giáo, tranh giành quyền lực lại bùng nổ ở nhiều nơi. Từ năm 1990 đến nay đã có hơn 40 quốc gia châu Phi thực thi chế dân chủ đa đảng, thông qua việc sửa đổi Hiến pháp, điều chỉnh cơ cấu lãnh đạo, tiến hành các cuộc bầu cử tự do. Việc chuyển đổi này có mặt tích cực là giảm thiểu được chế độ độc tài quân phiệt tại các nước châu Phi, phát huy các tiềm năng sẵn có, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, việc áp đặt những giá trị dân chủ theo mô hình phương Tây vào các quốc gia kém phát triển, trình độ dân trí thấp, tập quán chính trị lạc hậu với những đặc thù văn hóa riêng không những mang lại kết quả khả quan mà còn đẩy nhiều nước châu Phi vào tình trạng bất ổn định hơn. Sau nhiều thập kỷ dưới chế độ độc tài, khi chuyển sang dân chủ đa nguyên đa đảng, ở châu Phi đã xuất hiện hàng loạt các đảng phái hoạt động theo tiêu chí địa phương, tôn giáo, bộ tộc. Những mâu thuẫn, thù địch giữa các bộ tộc, tôn giáo và tranh chấp lãnh thổ, biên giới quốc gia lại được dịp bùng phát. Nhiều cuộc nội chiến, xung đột sắc tộc, tôn giáo và các cuộc chiến tranh đã nổ ra tại Xu-đăng, Xô-ma-li, Ethiopia, Trung Phi, Ăng-gô-la, Burundi, Li-bê-ria, khủng hoảng vùng Hồ lớn….đã một lần nữa tàn phá nền kinh tế các nước này, tác động tiêu cực đến tình hình chính trị và môi trường phát triển kinh tế của châu Phi. Bên cạnh đó, vẫn xuất hiện một số quốc gia có những bước đi thận trọng, khôn khéo trong cải cách, tránh được vòng xoáy của bạo lực, xung đột và duy trì được ổn định, tăng trưởng như Cộng hòa Nam Phi, Namibia, Ma-rốc, Tuy-ni-di, Xê-nê-gan, Ai Cập….
Câu trả lời của bạn: 21:11 17/03/2021
Dàn bài
I. Mở bài
Giới thiệu chung về sự việc và nhân vật. Thời vua Hùng Vương thứ mười tám có con gái tên là Mị Nương, vua truyền lệnh kén rể.
II. Thân bài
Kể lại di
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 21:10 17/03/2021
Cứ mỗi sáng thứ 2 đầu tuần, em lại háo hức mong chờ được đến trường để tham dự buổi l
Câu trả lời của bạn: 21:03 17/03/2021
Kí ức tuổi thơ như dòng thác mạnh mẽ, cuốn tôi về với miền cổ tích. Kỉ niệm tuổi thơ tôi gắn với lời kể của mẹ, của bà, với nàng tiên, ông bụt. Tuổi thơ tôi là những lần vấp ngã ngồi khóc rưng rức, mong chờ ông tiên hiện ra, ban cho một điều ước diệu kì. Và bây giờ, trong mơ tôi đang trôi về cái ngày trẻ con ấy để được gặp ông tiên hiền từ của tôi.
Giấc ngủ bồng bềnh, êm ái đưa tôi bay lên cao, cao hơn cả những nóc nhà, hàng cây im lìm bên dưới, chạm tới một tầng mây mềm và ấm: "Chào mừng con đến với thế giới của những ước mơ". Một giọng trầm ấm vang lên. Tôi ngước mắt nhìn.
Ồ, kia chẳng phải là ông Tiên sao? Làm sao tôi nhầm được hình bóng thân thương mà mẹ và bà vẫn thường hay kể. Ông cao và trông gầy gầy nhưng nước da hồng hào, khoẻ mạnh, gương mặt phúc hậu. Mái tóc trắng như cước được búi cao gần sát đỉnh đầu. Chòm râu cũng trắng hệt như mái tóc, dài tới tận đầu gối, trông xa như một dòng nước bạc. Ông vận một bộ quần áo màu vàng, có những đường vân trắng kéo thành vệt như sương và đi một đôi hài mũi hếch vàng, nhạt hơn bộ quần áo. Một dáng vẻ nhàn nhã, thanh tao.
Ông bước lại gần tôi, dáng đi nhanh nhẹn.
Tôi ngước lên để nhìn ông rõ hơn. Ánh mắt ông ấm áp, trìu mến. Đôi mắt nâu hiền từ. Đôi lông mày trắng và dài rủ xuống. Ông mỉm cười, để lộ hàm răng đen nhánh.
"Ông ơi, sao ông chỉ giúp đỡ người gặp khó khăn, bất hạnh thôi ạ? Sao con ngã đau, khóc mà ông không hiện lên?" – Tôi hỏi. Ông lại cười, nụ cười của ông sao giống nụ cười của ông ngoại tôi đã mất thế cơ chứ? Ông đưa ngón tay dài khẽ gạt sợi tóc con ra khỏi mặt tôi. Bàn tay ấm áp của ông vuốt má tôi "Tại vì ông hay bất cứ thần thánh nào khác cũng đều bước ra từ ước mơ và hi vọng của con người".
Ánh mắt ông ngời sáng, chòm râu bạc khẽ rung rinh. – "Người bất hạnh gặp phải nhiều đau khổ nhưng khát vọng vươn lên tìm hạnh phúc, tìm công lí luôn rực cháy. Vì vậy, ông giúp đỡ để họ có thêm nghị lực. Việc giúp đỡ của ông chỉ như sự khích lệ, cổ vũ họ mà thôi".
À thì ra là như vậy!
Ánh mặt trời rọi qua cửa sổ, chiếu vào mặt làm tôi bừng tỉnh khỏi giấc mộng. Nhưng hình ảnh ông Tiên hiền từ và những lời ông nói vẫn vang vọng trong tôi. Ông ơi, con hiểu rồi ạ. Cổ tích không thể biến những giấc mơ thành sự thật nhưng nó sẽ tạo ra niềm tin, niềm hi vọng để ta cố gắng vươn lên.
Câu trả lời của bạn: 21:02 17/03/2021
I. Mở bài: Giới thiệu em bé định tả: Em bé đó là bé trai hay bé gái? Tên bé là gì? Bé mấy tuổi? Bé là con nhà ai? Bé có nét gì ngộ nghĩnh, đáng yêu?
II. Thân bài:
1) Tả bao quát về hình dáng của bé.
+ Thân hình bé như thế nào?
+ Mái tóc.
+ Khuôn mặt (miệng, má, răng).
+ Tay chân.
2) Tả hoạt động của bé: Nhận xét chung về bé. Em thích nhất lúc bé làm gì? Em hãy tả những hoạt động của bé: khóc, cười, tập đi, tập nói, đòi ăn, chơi đồ chơi, làm nũng mẹ, xem phim hoạt hình, đùa nghịch.
III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của mình về bé.
Dàn ý tả một em bé lớp 6 - Bài tham khảo 2
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Em bé đó tên là gì? Mấy tuổi? Trai hay gái?
- Quan hệ với em như thế nào?
2. Thân bài:
* Tả em bé:
+ Hình dáng:
- Tầm vóc, thân hình: (cao, thấp? mập mạp hay thanh mảnh...?)
- Màu da: trắng trẻo hay ngăm ngăm?
- Mái tóc: dài, ngắn?
- Gương mặt: tròn hay trái xoan? Có nét gì đáng chú ý?
+ Tính nết:
- Có ngoan ngoãn, biết nghe lời hay không?
- Hiền hoà hay nghịch ngợm, hiếu động?
- Có thông minh, khéo léo hay không?
- Có tài gì? (Hát, múa, kể chuyện, làm trò, bắt chước người khác... )
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Yêu mến bé...
- Thích chơi với bé…
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 21:02 17/03/2021
Bằng hình thức nhân hóa, câu lục ngữ khẳng định "Cái nết đánh chết cái đẹp". "Cái nết" là tính nết, đức hạnh, tư tưởng, tình cảm của con người. "Nết" ở đây là nết xấu, tính xấu cho nên có thể "đánh chết" làm hại đến nhan sắc, cái đẹp hình thức bên ngoài cửa mỗi người.
Câu trả lời của bạn: 21:01 17/03/2021
Hình ảnh nhân hóa:
a, - "bác mèo mướp vẫn nằm lì...": từ "bác" dùng để chỉ người nhưng tác giả lại sử dụng để gọi con vật.
- "nằm lì" thường chỉ hoạt động của con người, nhưng ở đây lại được tác giả sử dụng để miêu tả động vật
b, "Đung đưa chiếc võng kể": chiếc võng là đồ vật nhưng có thể "kể" như con người.
c, - "Hạt mưa mải miết trốn tìm": tác giả sử dụng những từ ngữ để chỉ hành động của con người - "mải miết trốn tìm"
- "Cây đào trước cửa lim dim mắt cười": tác giả sử dụng những từ ngữ để chỉ con người - "lim dim mắt cười"
d, - "cô bé chổi rơm": chổi rơm là đồ vật nhưng được gọi như con người - "cô bé"
- Tác giả còn miêu tả bề ngoài bằng những từ ngữ như để miêu tả con người: "có chiếc váy", "áo của cô", "cuốn từng vòng quanh người".
Câu trả lời của bạn: 20:54 17/03/2021
Qua văn bản “Buổi học cuối cùng” hình ảnh người thầy giáo yêu nước Ha-men hiện lên thật nghiêm khắc mà mẫu mực – người thầy đã dành trọn bốn mươi năm tâm huyết cho nghề nhà giáo cao quí, bốn mươi năm tâm huyết để truyền dạy tiếng mẹ đẻ cho các thế hệ trẻ vùng An-dát biên giới xa xôi. Để rồi một ngày, thầy nhận được lệnh từ Béc-lin: “từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát, Lo-ren…” thế là các kỉ niệm đau đớn như ùa về với thầy đem theo sự hối hận tận cùng…Thầy nhớ như in những ngày thầy bắt học trò tưới vườn thay vì học hành, rồi những ngày thầy đã không ngại ngùng cho học trò nghỉ học khi mún đi câu cá hương. Nhưng tình yêu nước tha thiết đã trỗi dậy trong thầy vào buổi học tiếng Pháp cuối cùng: thầy mặc chiếc áo Gơ-đanh-gốt vốn chỉ dùng trong những hôm quan trọng, giọng nói thầy tha thiết hơn bao giờ hết và chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải đến vậy. Người thầy tội nghiệp như muốn truyền hết tri thức của mình và một lúc nhét hết nó vào đầu tụi học trò thơ ngây. Đồng hồ đã điểm mười hai giờ, thầy đứng trên bục, người thầy tái nhợt, bất lực ra hiệu cho tụi học trò: “kết thúc rồi…đi đi thôi!”. Tuy nhiên, trong điểm tột cùng của sự đau xót, thầy Ha-men đã có một hành động thật anh dũng, cao cả thể hiện tấm lòng yêu nước, yêu thiết tha tiếng mẹ đẻ đó là cầm phấn dằn hết sức, thầy cố viết thật to:
“NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”
Câu trả lời của bạn: 20:54 17/03/2021
Qua văn bản “Buổi học cuối cùng” hình ảnh người thầy giáo yêu nước Ha-men hiện lên thật nghiêm khắc mà mẫu mực – người thầy đã dành trọn bốn mươi năm tâm huyết cho nghề nhà giáo cao quí, bốn mươi năm tâm huyết để truyền dạy tiếng mẹ đẻ cho các thế hệ trẻ vùng An-dát biên giới xa xôi. Để rồi một ngày, thầy nhận được lệnh từ Béc-lin: “từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát, Lo-ren…” thế là các kỉ niệm đau đớn như ùa về với thầy đem theo sự hối hận tận cùng…Thầy nhớ như in những ngày thầy bắt học trò tưới vườn thay vì học hành, rồi những ngày thầy đã không ngại ngùng cho học trò nghỉ học khi mún đi câu cá hương. Nhưng tình yêu nước tha thiết đã trỗi dậy trong thầy vào buổi học tiếng Pháp cuối cùng: thầy mặc chiếc áo Gơ-đanh-gốt vốn chỉ dùng trong những hôm quan trọng, giọng nói thầy tha thiết hơn bao giờ hết và chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải đến vậy. Người thầy tội nghiệp như muốn truyền hết tri thức của mình và một lúc nhét hết nó vào đầu tụi học trò thơ ngây. Đồng hồ đã điểm mười hai giờ, thầy đứng trên bục, người thầy tái nhợt, bất lực ra hiệu cho tụi học trò: “kết thúc rồi…đi đi thôi!”. Tuy nhiên, trong điểm tột cùng của sự đau xót, thầy Ha-men đã có một hành động thật anh dũng, cao cả thể hiện tấm lòng yêu nước, yêu thiết tha tiếng mẹ đẻ đó là cầm phấn dằn hết sức, thầy cố viết thật to:
“NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”