anh quốc
Đồng đoàn
225
45
Câu trả lời của bạn: 18:51 29/10/2022
Nguyên nhân của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Sự phát triển không đồng đều về kinh tế, chính trị của chủ nghĩa tư bản cuối TK XIX
Đầu XX đã làm thay đổi so sánh lực lượng giữa các nước đế quốc.
Sự phân chia thuộc địa không đều ⇒ Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc ngày càng gay gắt.
Đầu TK XX ở châu Âu hình thành hai khối quân sự đối đầu nhau: Khối Liên minh và khối Hiệp ước.
Duyên cớ: 28/6/1914 Thái tử Áo - Hung bị phần tử Xéc bi ám sát ⇒ Hậu quả:Gây nhiều tai họa cho nhân loại:
10 triệu người chết,
20 triệu người bị thương.
Tiêu tốn 85 tỉ đô la .
Cách mạng tháng Mười Nga và thành lập nhà nước Xô Viết đánh dấu chuyển biến lớn trong cục diện chính trị thế giới.
Tính chất: Chiến tranh thế giới thứ nhất là cuộc chiến tranh đế quốc xâm lược và phi nghĩa.
Ảnh hưởng: Pháp khai thác tài nguyên việt nam, bắt thanh niên việt nam chết thay. tăng cường khai thác thuộc địa ….
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 18:50 29/10/2022
bạn tham khảo nhé
Câu trả lời của bạn: 18:48 29/10/2022
Câu trả lời của bạn: 18:46 29/10/2022
A máy in ko in đc và báo lỗi
Câu trả lời của bạn: 16:03 29/10/2022
tham khảo thử nhé
nếu đc cho 5 sao và thả tim nhé thank you
Đoạn văn 1
Tôi tên là Giáo - một thầy giáo nghèo trong làng Vũ Đại. Hàng xóm của tôi tên là Hạc, vì đã già rồi nên mọi người gọi ông là lão Hạc. Vợ lão đã mất, con trai lão không cưới được vợ nên bán thân vào đồn điền cao su đi biệt xứ chưa thấy về. Nhà của lão Hạc chỉ còn chú chó thường được gọi là cậu Vàng. Lão quý Cậu Vàng lắm, lão coi cậu Vàng như một đứa cháu nội sống cùng lão. Năm ấy, một cơn bão đi qua và quét sạch hoa màu trên vườn nhà lão Hạc lại thêm một trận ốm nặng nên lão đã tiêu hết tiền dành dụm được. Lão đã bắt đầu suy nghĩ về việc bán cậu Vàng nhưng vẫn còn đang lưỡng lự lắm. Cho đến một ngày nọ, lão gọi cậu Vàng ra ăn cơm. Cậu đang ăn thì thằng Mục với thằng Xiên núp sau cánh cửa, chạy tới ôm lấy 2 cẳng sau dốc ngược lại. Chúng loay hoay một lúc là trói đc 4 cẳng của cu cậu. Lúc ấy, cu câu mới biết đã chết rồi. Cậu Vàng quay sang nhìn lão và kêu mấy tiếng ử ử như muốn nói: À! Lão tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế nào mà lão đối xử với tôi như vậy!" - lời lão kể nghe mà chua xót. Thấy lão bảo lão đau đớn và tự trách bản thân mình lắm. Và sau đó lão gửi 5 đồng bán được cậu vàng và 25 đồng dành dụm được là 30 đồng cho tôi để lo tiền ma chay cho lão khi lão chết. Lão còn nhờ tôi giữ 3 sao sào vườn gửi cho thằng con trai để sau này có đất mà làm ăn. Sau khi nhờ tôi xong lão quay về nhà. Nhìn căn nhà trống vắng, lão bảo lão chợt nhớ đến cậu vàng mà lòng cảm thấy day dứt. Từ đó lão Hạc kiếm được gì thì ăn nấy. Rồi đến một ngày lão đưa ra quyết định qua xin ít bã chó của Binh Tư để tự kết liễu mình. Tôi đã rất buồn khi nghe Binh tư kể lại chuyện. Và sau đó, cũng không ai hiểu tại sao lão Hạc lại chết trừ Binh Tư và tôi. Tôi đã rất buồn khi đói kém, bệnh tật, mất mùa, bần cùng không lối thoát đã dẫn tôi đến cõi đường chết để tự giải thoát mình. Đó là số phận chung của người nông dân lúc bấy giờ.
Đoạn văn 2
Tôi được mọi người biết đến với cái tên là Ông Giáo trong làng Vũ Đại. Ký ức sâu đậm về lần lão Hạc kể chuyện bán chó cho thầy Thứ của tôi cứ hiện lên mồn một. Tôi là hàng xóm ở ngay gần nhà lão, tôi hay sang qua lại giúp lão dọn nhà, lúc đùa nghịch với con chó Vàng. Chả bệnh dịch đói kém đã lâu và lão Hạc vừa bị một trận ốm dậy nên đã không còn đồng tiền nào, nên lão cứu đắn đo việc bán Cậu Vàng. Vừa nhìn thấy tôi, lão đã báo ngay:
- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!
- Cụ bán rồi?
- Bán rồi! Họ vừa bắt xong.
Lão Hạc cố làm ra vẻ vui vẻ nhưng tôi thấy lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước. Tôi cũng ái ngại cho lão nên chỉ ôm đôi bờ vai lão vỗ nhẹ như đồng cảm. Tôi thấy đôi mắt của lão làm tôi cũng như muốn khóc. Tôi hỏi lão Hạc:
- Thế nó cho bắt à?
Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...
- Khốn nạn..... Ông giáo ơi!...... Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy, hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng Mục và thằng Xiên, hai thằng chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả bốn chân nó lại. Bây giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết!... Này! ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ nằm im như trách tôi, nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo rằng "A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối xử với tôi như thế này à?". Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó! Tôi lại an ủi lão:
- Cụ cứ tưởng thế chứ nó chẳng hiểu gì đâu! Vả lại ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt! Ta giết nó chính là ta hoá kiếp cho nó đấy. Hoá kiếp để cho nó làm kiếp khác. Lão Hạc chua chát bảo:
- Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra nó sung sướng hơn một chút... Kiếp người như tôi chẳng hạn!... Câu nói của lão làm tôi bùi ngùi, tôi hạ giọng:
- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?
- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?
Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo:
- Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: Bây giờ cụ ngồi xuống phản chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm nước chè tươi thật đặc, ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... thế là sung sướng.
- Vâng! Ông lão dậy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng. Lão nói xong lại cười đưa đà. Tiếng cười gượng nhưng nghe đã hiền hậu lại, thấy vậy tôi te tái đứng lên:
- Để tôi đi luộc khoai nhé.
- Ừ, nhặt những củ to ấy, để tôi pha nước mời lão xơi.
- Nói đùa thế chứ ông giáo cho để khi khác... Lão Hạc ngần ngại.
- Việc gì còn phải chờ khi khác... Không bao giờ nên hoãn sự sung sướng lại, cụ cứ ngồi xuống đây. Tôi đi luộc khoai. Tôi và lão Hạc ngồi nói chuyện lâu lắm, thầy tôi là người nhiều chữ nghĩa, hiểu biết và thương người nên có chuyện gì lão Hạc cũng tâm sự và sẻ chia. Vừa luộc khoai, tôi vừa nghĩ về lão Hạc nhiều lắm. Tôi thương lão, con người già cả cô đơn nhưng ai cũng quý lão bởi lão sống lương thiện và nhân hậu. Tôi biết lão quý con Vàng của mình lắm vì nó là kỷ vật của anh con trai lão để lại mà. Tôi hiểu vì bần cùng lão mới làm như vậy. Tôi thấy thương cho lão, thương cho số phận của những người nông dân phải chịu nhiều cơ cực, khốn khổ nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp về nhân cách và tâm hồn.
2.3. Đoạn văn 3
Cả cái làng này ai cũng biết lão Hạc – một lão nông già có hoàn cảnh hết sức đáng thương. Lão Hạc rất nghèo, vợ lão mất, lão sống cô độc, chỉ có con chó Vàng làm bạn. Con trai lão vì nghèo, không lấy được vợ đã phẫn chí bỏ làng đi xa. Tôi là ông Giáo, sống gần nhà của lão nên thi thoảng tôi cũng hay qua lão chơi và tâm sự với lão. Lão Hạc chỉ ở nhà chờ con về, và đi làm thuê để kiếm sống qua ngày. Dù đói, lão quyết không bán đi mảnh vườn và ăn vào tiền dành dụm do “bòn vườn”, lão giữ cả lại cho con trai. Nhưng một trận ốm dai dẳng, lão không còn sức đi làm thuê nữa. Và mấy ngày nay, tôi cũng ít thấy lão. Thế mà, có ngờ đâu, hôm nay trông lão tiều tụy quá. Dáng đi thất thiểu như một người không còn sức sống. Da lão xanh xao, vàng vọt, gương mặt sầu khổ và vừng trán hiện lên rất nhiều nếp nhăn. Mái tóc lão bạc phơ, trông xơ xác quá. Nhìn thấy lão như thế ai mà không chạnh lòng cho được. Mà hình như lão có chuyện gì đó thì phải?! Đúng như dự đoán, vừa bước vào nhà, thấy tôi, lão báo ngay:
- Cậu Vàng đi đời rồi, ông Giáo ạ!
- Cụ bán rồi?
- Tôi hỏi với vẻ ngạc nhiên.
- Bán rồi! Họ vừa bắt xong - Lão trả lời giọng như có vật gì trong cổ họng.
Rồi sau đó, lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước. Thấy thế, tôi cũng muốn ôm choàng lấy lão mà oà lên khóc, vì tôi hiểu lão quý “cậu Vàng” như thế nào. Thật ái ngại cho lão Hạc làm sao. Như để thay đổi không khí trầm lắng, tôi hỏi lão Hạc:
- Thế nó cho bắt à?
Sau câu hỏi của tôi, tôi bỗng thấy mặt lão đột nhiên co rúm và những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc... Tội nghiệp cho lão! Như muốn bộc lộ nỗi lòng dằn vặt, lão chợt thốt lên:
- Khốn nạn... Ông giáo ơi! Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng Mục với thằng Xiên, hai thằng chúng nó chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả bốn chân nó lại. Bấy giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết! Này! Ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo tôi rằng : “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này?”. Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó! Tôi vội an ủi lão:
- Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả biết đâu! Vả lại ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt? Ta giết nó chính là hoá kiếp cho nó đấy, hoá kiếp để cho nó làm kiếp khác. Thế nhưng, lão chua chát bảo:
- Ông giáo nói phải! Kiếp cho chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn... Tôi cũng bùi ngùi nhìn lão, chua chát nói:
- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng chúng tôi sung sướng hơn chăng?
- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng.
Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo:
- Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm nước chè tươi thật đặc; ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... Thế là sướng.
- Vâng! Ông giáo dạy phải! Ðối với chúng mình thì thế là sung sướng. Lão nói xong lại cười đưa đà. Tiếng cười gượng nhưng nghe đã hiền hậu lại. Chúng tôi đều nhẹ người hẳn lại. Tôi vui vẻ bảo:
- Thế là được, chứ gì? Vậy cụ ngồi xuống đây, nói chuyện với thầy tôi, để tôi đi luộc khoai, nấu nước.
- Nói đùa thế, chứ ông giáo và bác để khi khác vậy?... Chúng tôi hết sức ngỡ ngàng vì câu nói của lão. Hình như lão có chuyện gì chăng?
- Việc gì còn phải chờ khi khác?... Không bao giờ nên hoãn sự sung sướng lại cụ ơi. Cụ cứ ngồi xuống đây đi ạ! Tôi làm nhanh lắm!
- Ðã biết thế, cảm ơn bác, nhưng tôi còn muốn nhờ ông giáo một việc... Rồi tự dưng mặt lão nghiêm trang lại...
- Việc gì thế, cụ?
- Ông giáo nhẹ nhàng hỏi.
- Ông giáo để tôi nói... Nó hơi dài dòng một tí.
- Vâng, cụ nói.
- Nó thế này, ông giáo ạ! Tôi cũng thôi nấu khoai, ngồi xuống nghe lão Hạc kể. Lão kể nhỏ nhẹ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có thể rút vào hai việc. Việc thứ nhất: Lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn dại lắm, nếu không có người trông nom cho thì khó mà giữ được vườn đất để làm ăn ở làng này. Lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão, lão viết văn tự nhượng cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến; khi nào con lão về thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được,... Việc thứ hai: Lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào: con không có nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho được; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt. Lão còn được hăm nhăm đồng bạc với năm đồng vừa bán chó là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi để lỡ có chết thì thầy đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả... Ôi lão Hạc quả thật xứng đáng để người ta kính trọng và yêu quý. Sau đó, lão về. Tôi nhìn theo dáng gầy gò của lão mà không cầm được nước mắt. Rồi lão sẽ sống ra sao những ngày tháng sau này?... Cuộc đời sao mà thật đáng buồn! Nhìn đời sống hạnh phúc ấm no và khá đầy đủ của người nông dân thời bây giờ, tôi chợt chạnh lòng xót xa cho số phận cùng cực khổ đau mà người nông dân trong xã hội cũ âm thầm gánh chịu.
2.4. Đoạn văn 4
Cả cuộc đời Lão Hạc là một chuỗi những bất hạnh liên tiếp, dai dẳng và triền miên: vợ chết, lão sống cảnh gà trống nuôi con, khi con trai lão trưởng thanh, phẫn uất vì không đủ tiền cười vợ cũng đã bỏ đi làm đồn điền cao su lão sống thui thủi trong cảnh già cũng với con chó vàng, mòn mỏi chờ tin con tuyệt vong. Cả cuộc đời lão phải gánh chịu cả những vật chất và tinh thần. Rồi mất mùa, đói kém. Rồi bệnh tật không có việc làm. Cái nghèo, cái đói cùng sự phẫn uất bế tắc đã đẩy lão đến bước đường cùng. Lão bán con chó vàng, kỉ vật của người con trai để lại. Phải trải qua bao day dứt, đau đớn lão mới thực hiện được quyết định này. để rồi sau khi bán con chó vàng, lão rơi vào một cuộc khủng hoảng tâm lí- ân hận vì trót lừa một con chó. Nỗi ân hận ấy dễ lí giải bởi vì mất con chó vàng cũng có nghĩa là mật đi chỗ dựa tinh thần cuối cùng trong cảnh già. Lão Hạc quý con Vàng lắm. Chẳng gì nó cũng là một kỉ vật. Vợ lão mất đi, tất cả những gì yêu thương lão dồn cả vào cậu con trai. Nhưng nhà lão nghèo quá, không đủ tiền cưới vợ cho con , con lão bỏ đi. Cậu Vàng lúc này có khác gì cậu con trai quý tử của Lão. Lão chăm lo cho nó chu đáo lắm. Lão ăn gì cũng cho nó ăn theo. Cậu Vàng lớn nhanh và cũng rất trung thành với chủ. Nhưng rồi những trận ốm nặng khiên lão tiêu hết cả chỗ tiền bòn. Lão đành bán chó. Chuyện tưởng chỉ đơn giản như vậy như người ta bán đi con vật nào đó trong nhà. nhưng với Lão Hạc, chuyện bán con vàng là to tát lắm. Tôi hiểu. tôi biết vì sau khi bán con chó vàng ông đã sang báo tin cho tôi. Lão cố làm ra vẻ nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão cứ ầng ậng nước. Lão đau xót thật. Nỗi đau của Lão khiến tôi còn cảm thấy không xót xa bằng năm quyển sách mà tôi cho đó là vật tùy thân hồi trước. Tôi chẳng biết nói gì cả, hỏi cho có chuyện:
- Thế nó cho bắt à?
Không ngờ nó lại đụng đến nỗi đau đang chỉ chực dâng lên và cứ thế là mặt lão tự dưng co dúm lại. Những nếp nhăn xô vào nhau, ép cho nước mắt chảy ra... lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc. Bộ dạng lão trông thật là tội nghiệp. Những giọt nước mắt khó khăn tưởng không thể có ở cái tuổi gần đất xa trời đã rơi vì thấy mình có lỗi với chú chó vàng. Lão khóc như đứa con nít giận dỗi vì bị ai đe nẹt và quát mắng. Tôi cảm thấy bồi hồi khi ngồi nghe lão kể. Lão kể chuyện bán chó mà thực chất là để tự xỉ vả mình. Lão nói: ông giáo ơi..! Nó có biết gì đâu. Một câu chửi thề, một lời tự trách, con chó được lão hạc coi như một đứa con mà mình chẳng khác gì một ông già chuyên lừa lọc. Lão tưởng tượng trong ánh mắt của con Vàng lúc nó bị trói chặt cả bốn chân là một lời trách móc nặng nề.: A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối xử với tôi như thế này à? Lời tự vấn chứng tỏ lão đã dằn vặt mình lắm. Thế rồi Lão cũng nguôi dần nhờ sự động viên, khích lệ thêm chút an ủi của tôi. Thôi thì đằng nào nó cũng chết rồi . Lão chua chát bảo Kiếp con chó là kiếp khổ, thì ta hóa kiếp cho nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút... kiếp ngươi như kiếp tôi chẳng hạn. Câu nói của Lão chua xót biết bao. Chắc gì cái kiếp của lão đã sung sướng hơn kiếp chó. Còn lão vẫn phải sông kiếp người mà nào có ra gì. Và rồi đây, cái chết của lão đâu có nhẹ hơn cái chết của cậu Vàng. Tình yêu của Lão Hạc đối với cậu Vàng không đơn giản là thứ tình yêu dành cho con vật. cạu Vàng là kỉ niệm, là nơi duy nhất lão ngày ngày tâm sự chuyện mình. Nói chuyện với cậu, Lão có cảm giác như đang được gần cậu con trai yêu quý. Chính điều kiện này khiến tôi - một nhà tri thức nghèo, và các bạn dễ dàng hiểu được tại sao lão Hạc lại dằn vặt và đau đơn khi bán chó. Đoạn truyện tuy ngắn nhưng đã gợi ra nhưng phẩm chất vô cùng tốt đẹp của lão nông dân, một con người luôn sống vị tha và thương yêu hết mực.
2.5. Đoạn văn 5
Những năm 1930 – 1945 xã hội thực dân nửa phong kiến bóp ngẹt đời sống của người dân lao động khiến cuộc sống ngày càng cơ cực lầm than không riêng gì người nông dân mà cả tầng lớp tri thức như tôi – Ông giáo làng nghèo khổ cũng bị dồn vào mức đường cùng không có lối thoát. Câu chuyện của Lão Hạc – một hàng xóm của tôi phải bán con chó vàng yêu quý và phải tìm đến cái chết khiến tôi day dứt mãi. Ôi, một kiếp người! Lão Hạc ở gần nhà nên tôi hoàn toàn thấu hiểu hoàn cảnh của lão góa vợ lão sống cảnh gà trống nuôi con vì không đủ tiền cho con cưới vợ con lão phấn chí đi đồn điền cao su khiến lão day dứt đau đớn nhiều lần khóc vì thương con nhớ con. Lão làm thuê kiếm sống, bòn tiền vườn dành dụm cho con nhưng rồi lão ốm một trận hai tháng mười tám ngày tiêu gần hết số tiền, có con chó vàng bầu bạn cũng phải tính đến chuyện bán nó. Nhưng tôi nghe lão nói nhiều lần vẫn chưa thấy bán. Làm quái gì một con chó mà lão băn khoăn quá thế nhỉ. Tôi đang ngồi một mình buồn thì thấy bóng lão Hạc lững thững vào cổng. Mừng vì tưởng có bạn trò chuyện thì lão lại xuất hiện với khuôn mặt ủ ê quá chừng. Tôi chưa kịp hỏi ra làm sao, tiếng lão đã nặng nề:
- Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ!
- Lão thiểu não nói. Cụ bán rồi?
- Tôi hơi ngạc nhiên. Lão nói mà cứ như chực khóc. Tiếng lão như mếu. Đôi mắt lão ầng ậc, long lanh nước, nước mắt cứ như chỉ muốn trào ra, khó mà kìm được, thấy lão như vậy nên tôi cũng buồn. Thương lão lắm, lão Hạc ơi! Tôi hỏi tiếp:
- Thế nó cho bắt à? Lúc này thì lão khóc thật. Cái đầu lão nghẹo hẳn xuống cứ như người bị phải gió. Mặt lão nhăn nhó, rúm ró lại, những nếp nhăn dài, hên tiếp trông như những vết nứt nẻ trên mặt đất mùa hanh. Hai hàng nước mắt thế là cứ trào ra, ròng ròng hai bên má, tưởng như không ngăn lại được. Cái miệng lão mếu máo, lão cũng khóc hu hu như con nít. Lần đầu thấy cảnh một người già mà lại khóc như thế, lòng tôi xúc động, thương xót vô cùng. Chắc trong lòng lão cũng đang đau lắm. Rồi lão kể chuyện: Con Vàng nghe tiếng lão gọi, chạy về ăn cơm như thế nào, rồi sau đó thằng Mục, thằng Xiên xông vào bắt trói bất ngờ cậu Vàng ra sao. Lão đau xót, con chó Vàng cứ kêu ư ử nhìn lão. như trách lão đã lừa nó. Nó cũng không ngờ lão Hạc có thể lừa nó. Nhìn lão Hạc, nghe lão kể, tôi thấy rõ nỗi dằn vặt, đau đớn tự trách mình của lão. Tôi lựa lời an ủi lão. Tôi thương lão vô cùng. Lão Hạc ơi, sao cái thân lão khổ đến thế? Tôi định mời lão ăn khoai luộc uống nước chè tươi, một niềm vui dung dị, tìm lời an ủi lão. Rồi lão cũng nguôi ngoai nhưng từ chối lời mời của tôi. Bởi lão muốn nhờ tôi mấy việc. Việc thứ nhất là trông hộ mảnh vườn cho con trai việc thứ hai là gửi ba mươi đồng bạc lo ma sợ phiền lụy bà con lối xóm. Ôi tấm lòng của lão Hạc không chỉ dành cho con mà còn rất giàu lòng tự trọng. Đó là vẻ đẹp dáng quí ẩn dấu dưới vẻ bề ngoài tưởng như gàn dở lẩn cẩn. Từ sau hôm ấy lão Hạc sống mòn chế được món gì thì ăn món đấy. Tôi ngấm ngầm giúp đỡ nhưng lão biết vợ tôi không ưa nên lão từ chối một cách gần như là hách dịch. Một lần nữa tôi càng kính trọng hơn lòng tự trọng của lão. Nhưng Binh Tư kể chuyện Lão Hạc xin bả chó đánh trộm chó. Trời ơi lão Hạc lại đổ đốn như thế này sao? Vì miếng ăn vì cái đói mà lão tha hóa biến chất ư? Một con người đã khác vì một con chó đã nhịn ăn để có tiền lo ma mà giờ đây đói ăn vụng túng làm liều như thế này ư, tôi đau đớn và thất vọng quá. Bỗng có tiếng xôn xao bên nhà lão Hạc tôi vội chạy sang tôi không thể tin nổi: Lão Hạc dùng bả chó để tự tử. Ôi một cái chết đau đớn dữ dội vật vờ, lão tru tréo bọt mép, sùi ra hai mắt lăn sòng sòng thỉnh thoảng lại giặt nảy người nên một cái, một cái chết thương tâm quá! Thì ra từ lúc bán con chó vàng lão đã bán đi niềm hi vọng sống âm thầm chuẩn bị cho mình cái chết. Phải chăng đó là cái chết vì con để chấm dứt kiếp sống mòn, để tránh tha hóa biến chất để khẳng định lương tâm trong sạch? Hỡi ơi lão Hạc! Lão đã ra đi như thế này ư? Đó là kiếp người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng không có lối thoát. Xã hội này đen bạc quá! Là người trí thức tôi phải làm gì để góp phần xóa bỏ xã hội bất nhân này xây dựng cuộc sống này. Đó là câu hỏi khiến tôi day dứt và khao khát hành động.
2.6. Đoạn văn 6
Tôi là một ông giáo làm nghề dạy chữ cho lũ trẻ con trong làng. Mọi người thường gọi tên với cái tên thân mật là "ông giáo". Tôi sống với vợ và hai người con một trai, một gái. Nhà tôi tuy không khá giả gì nhưng so với với nhiều hộ bần nông trong làng thì cũng đỡ hơn phần nào. Những năm 40 của thế kỉ XX, cuộc sống của những người nông dân, người trí thức nghèo như chúng tôi vô cùng vất vả, gánh nặng cơm áo gạo tiền đè nặng hai vai, cường hào thì tăng cường áp bức khiến cuộc sống vốn khó khăn càng thêm thống khổ. Bao kiếp người lầm than khốn khổ ngày ngày chật vật với bát cơm, manh áo mà xót xa vô cùng. Cạnh nhà tôi có lão Hạc, lão nghèo lại già yếu, quanh năm làm thuê cuốc mướn kiếm cái ăn. Lão sống một mình cô đơn lắm, ai cũng thương cảm nhưng lại không đủ điều kiện để giúp đỡ. Anh con trai lão bỏ nhà đi đồn điền cao su mấy năm biệt tăm chẳng tin tức gì, lão sống bầu bạn với cậu Vàng qua ngày, xem con chó như vật quý chăm sóc và cưu mang nó như thành viên trong nhà vậy. Lão yêu và quý trọng cậu Vàng như tôi trân trọng những cuốn sách của mình vậy. Tình cảm của lão dành cho cậu Vàng rất lớn, bởi vậy mà dù có đói khổ thế nào lão cũng chẳng chịu bán cậu Vàng đi. Bỗng dưng một hôm, khi tôi đang lúi húi dở với nồi khoai trong bếp, lão chạy sang hớt hải, nhìn thấy tôi , lão nghẹn ngào báo với tôi tin bán cậu Vàng:
- Cậu Vàng đi đời rồi, ông Giáo ạ!
Tôi giật mình, bởi tôi hiểu tính lão, dù có phải nhịn ăn thì lão cũng sẽ không bao giờ chịu bán cậu Vàng đâu. Chắc chắn phải có lý do gì khác. Dù lòng phân vân nhưng tôi vẫn tiếp lời hỏi lão:
- Cậu Vàng sao đi vậy? Cụ bán à? Lão gật gật, chẳng nói nên lời, giọng khàn hẳn:
- Bán rồi ông ạ, họ vừa bắt xong. Chao ôi, khốn khổ quá, nhìn khuôn mặt tội nghiệp của lão mà lòng nghẹn đắng. Có bao giờ người ta mất đi thứ quý giá gắn bó với mình mà không đau không tiếc cơ chứ? Lão cố tỏ ra vui vẻ, mặt gượng cười mà như mếu, nước mắt ầng ậc chực chờ chảy. Xót xa quá, tôi vòng tay ôm lấy lão như ôm lấy một đứa trẻ đáng thương đang bởi bỏ rơi giữa trời đông lạnh giá. Hơn ai hết tôi hiểu nỗi đau của lão lúc này, lão cô đơn lại càng cô đơn hơn. Những cuốn sách tôi xót xa kia làm sao mà sánh được với nỗi đau của lão lúc này. Thật đáng thương, đáng thương làm sao, tôi buồn cho lão, buồn cho cuộc đời éo le của lão. Nhìn lão hồi lâu rồi tôi cố trấn an lão rồi hỏi:
- Vậy lão để cho chúng bắt á? Vừa dứt lời, mặt lão bỗng có rúm lại, những nếp nhằn hằn trên khuôn mặt già nua tội nghiệp kia xô ép vào nhau, dòng nước mắt chảy ra trong đau đớn. Lão nghẹo đầu về một bên, cái miệng méo mó bật ra tiếng khóc thương tâm, lão khóc hu hu, trong tiếng khóc ấy là nỗi đau xé lòng của lão:
- Ông giáo ơi ... Cậu Vàng có biết gì đâu, nghe tiếng tôi gọi nó chạy vào ngay, còn vẫy đuôi mừng rỡ. Nó nào ngờ tôi nhẫn tâm lừa bán nó... Lão sụt sùi trong tiếng khóc, tôi gắng an ủi lão:
- Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó có hiểu gì đâu? Tình cảnh khó khăn như này cụ cũng đâu thể nuôi mãi nó được. Cụ bán nó âu cũng là số kiếp của nó. Tôi cố nói thế cho cụ đỡ bận lòng nhưng tôi biết làm gì có thể nguôi được nỗi buồn của lão. Cụ ngồi thất thần, tiếp lời tôi:
- Ông giáo nói cũng phải. Kiếp làm chó nó khổ quá may mắn ra kiếp sau nó được làm người sẽ sung sướng hơn. Như tôi chẳng hạn. Lão vừa dứt lời tôi thấy lòng mình nghẹn đắng. Tại sao có bao số kiếp đớn đau, tủi nhục, hẩm hiu quá vậy. Bùi ngùi nhìn lão, nặng lòng thêm, tôi bảo:
- Kiếp ai cũng vậy thôi cụ. Đời tôi đây cũng chả sung sướng gì. Cái xã hội tàn bạo này đâu cho ai cái quyền làm người sung sướng ngoài bọn ngang tàng, bạo ngược. Lão gật đầu, khuôn mặt tê dại đi, mắt nhìn xa xăm một cõi, lão nghĩ gì tôi cũng không biết nữa. Tiếng thở dài nặng nề lan toả cả bầu không gian.
- Kiếp người mà cũng khổ nốt thì nên làm kiếp gì cho sướng nhỉ? Đó là câu nói của một người đã trải đời mấy mươi năm. Người ta đau đớn cho kiếp làm người ngang trái, chua chát nhận ra những đắng cay cuối đời. Một câu hỏi của lão khiến tôi nặng lòng, não nề và ám ảnh: "Rốt cuộc thì làm kiếp gì cho sướng?" . Lạ lùng thay, kiếp người có khổ cực ngang trái, có quá bao kiếp nạn thì người ta vẫn khát khao được làm người và làm người lương thiện. Tôi cố gợi chuyện khác để lão quên đi nỗi buồn thực tại. Định xuống bếp lấy vài củ khoai lang mời lão uống chén trà thì lão gọi lại nhờ tới hai việc.Việc thứ nhất gửi gắm mảnh vườn nhờ tôi trông coi giúp đặng khi còn trải lão về thì trao cho nó. Việc thứ hai là lão giáo cho tôi ba mươi đồng bạc nhờ tôi cầm hộ phòng khi chết nhờ hàng xóm lộ ma chay. Dặn dò tôi xong, lão lặng lẽ ra về. Sau cuộc trò chuyện hôm ấy, tôi càng quý càng thương lão nhiều hơn. Những người đồng bào tôi, những người nông dân nghèo khổ ấy họ tuy đói rách mà nhân cách cao cả tuyệt vời. Trong mọi hoàn cảnh vẫn giữ một tấm lòng thiện lương, một trái tim vô vàn yêu thương và giàu lòng nhân ái. \
2.7. Đoạn văn 7
Tôi đang dọn dẹp nhà thì thấy lão Hạc - một người hàng xóm nghèo khổ nhưng nhân hậu ở gần nhà tôi. Thấy tôi, dường như gặp được người tâm sự, gương mặt lão sáng lên như muốn sẻ chia điều gì. Chẳng cần tôi hỏi, lão bước vào phản, tôi cũng ngồi xuống với lão trò chuyện. Lão nghẹn ngào bảo:
- Tôi bán rồi ông giáo ạ.
À, thì ra lão nói về chuyện bán chó! Ơ, nhưng lão bán thật ư? Tôi chẳng tin chuyện này vì lão cứ nói đi nói lại mãi, nhưng lần này thì là thật rồi. Nói xong, mặt lão trầm lại như trút ra hết được tấm lòng chất chứa bấy lâu. Dù lão cố làm ra vui vẻ nhưng trên gương mặt già nua khắc khổ ấy là một nỗi buồn lớn vô cùng. Đôi mắt lão ầng ậng nước khiến tôi thấy thương lão quá. Giờ phút này tôi chỉ muốn ôm lấy lão để sẻ chia tất cả những nỗi buồn thương trong lão và chợt tôi nhận ra hóa ra năm quyển sách của tôi cũng không quý như tôi đã từng nghĩ. Ái ngại cho lão, tôi cố hỏi cho có chuyện vì muốn lão vơi bớt đi nỗi buồn sau khi phải chia xa cậu Vàng. Nhưng dường như trước câu hỏi của tôi: “Thế nó cho bắt à? Câu hỏi khiến cho lão càng thêm xúc động. Gương mặt lão co rúm lại với những vết nhăn, những giọt nước mắt, cái đầu ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Tiếng khóc nghẹn ngào của lão đã bật ra cùng những lời chia sẻ, những tiếng than tận cùng của khổ đau và kể lại cho tôi cái cảnh thẳng Mục, thằng Xiên bắt con Vàng. Tất cả cả khiến cho tôi cảm thông và thương lão nhiều lắm! Phải đến đường cùng thì lão mới phải đi đến nước bán chó - một người bạn, một kỉ vật của lão!
2.8. Đoạn văn 8
Mọi người gọi tôi bằng cái tên thân mật: “ông giáo” bởi tôi là một thầy giáo nghèo. Là một người trí thức, không sung sướng gì hơn những người khác, nhưng sống giữa những người nông dân trong cái tình cảnh đói kém, mất mùa những năm 1943 như thế này tôi không khỏi đau lòng, xót xa cho số phận những người đồng bào lao khổ. Người khiến tôi phải suy nghĩ nhiều nhất là lão Hạc - một ông lão sống cô độc gần nhà tôi. Tôi không thể nào quên được hình ảnh của lão khi chiều qua lão đến nhà tôi báo tin bán con chó với vẻ mặt và tâm trạng đau khổ tột độ. Vừa nhìn thấy tôi lão đã báo ngay:
- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ! Tôi hơi giật mình hỏi lại:
- Cụ bán rồi? Lão gật gật:
- Bán rồi! Họ vừa bắt xong. Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước nữa. Tôi chỉ ái ngại cho lão Hạc. Lão đã đau đớn lắm khi bán đi con chó ấy. Tôi hỏi chuyện về Cậu Vàng, Lão hu hu khóc... Giọng lão méo mó, tội nghiệp:
- Khốn nạn... Ông giáo ơi!... Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai chân sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng Mục với thằng Xiên, hai thằng chúng nó chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả bô"n chân nó lại. Bấy giờ “cu cậu” mới biết là “cu cậu” chết! Này! Ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ làm y như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi, như muốn bảo tôi rằng: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à?”. Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó! Lão nức nở thều thào một hơi dài như mong muốn sẻ chia nỗi đau. Tôi cũng có phần luống cuông: nhìn người khác khóc lóc, đau đớn mà không giúp được gì tôi thấy mình mang tội. Tôi lắp bắp mấy lời an ủi. Một hồi nói chuyện, Lão hỏi: "Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?" Câu hỏi của lão còn ám ảnh tôi đến tận bây giờ. Lúc đó, tôi đã lảng đi bằng một câu đùa để mời lão ăn khoai uống nước. Lão từ chối, và nhờ tôi hai chuyện nghe rất căng thẳng. Một là giữ ba sào đất vườn cho con trai lão, hai là lo ma chay cho lão khi không may lão chết. Rồi lão chết vì ăn bả chó - Binh Tư kể lại với tôi như vậy, giờ đây, tôi ngồi lại một mình, và đem câu hỏi để tự chất vấn lòng mình. Chao ôi! Đồng bào tôi trong cái tối đất tối trời của xã hội còn bao người đau khổ, lầm than như thế? Mà đời tôi cũng có khác gì đâu? Nhưng tôi lại thấy lóe lên trong lòng một tia sáng của niềm tự hào, niềm tin: đồng bào tôi tuy đói khổ, nghèo nàn nhưng vẫn giữ trọn vẹn nhân cách. Nỗi đau của lão Hạc là nỗi đau của tình thương và lòng tự trọng, nỗi đau của một tâm hồn cao đẹp.
2.9. Đoạn văn 9
Lão Hạc ở gần nhà nên tôi hoàn toàn thấu hiểu hoàn cảnh của lão góa vợ lão sống cảnh gà trống nuôi con vì không đủ tiền cho con cưới vợ con lão phấn chí đi đồn điền cao su khiến lão day dứt đau đớn nhiều lần khóc vì thương con nhớ con. Lão làm thuê kiếm sống, bòn tiền vườn dành dụm cho con nhưng rồi lão ốm một trận hai tháng mười tám ngày tiêu gần hết số tiền, có con chó vàng bầu bạn cũng phải tính đến chuyện bán nó. Nhưng tôi nghe lão nói nhiều lần vẫn chưa thấy bán. Làm quái gì một con chó mà lão băn khoăn quá thế nhỉ. Thế rồi một hôm Tôi vừa sang đến sân nhà tôi lão đã thông báo ngay Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ! Tôi vừa hỏi cho có chuyện thì lão bật khóc: Mặt lão… xưa, cụ Nguyễn Khuyến đã từng viết: "Tuổi già hạt lệ như xương Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan?" Tuổi già nước mắt thường lẫn vào trong nỗi đau kìm nén thế mà lão Hạc khóc như con trẻ. Phải chăng nỗi đau đã vỡ òa thành những giọt nước mắt, Lão cho rằng mình đã lừa một con chó. Tấm lòng lão nhân hậu quá! Tâm hồn lão mới thánh thiện làm sao! Tôi định mời lão ăn khoai luộc uống nước chè tươi, một niềm vui dung dị, tìm lời an ủi lão. Rồi lão cũng nguôi ngoai nhưng từ chối lời mời của tôi. Bởi lão muốn nhờ tôi mấy việc. Việc thứ nhất là trông hộ mảnh vườn cho con trai việc thứ hai là gửi ba mươi đồng bạc lo ma sợ phiền lụy bà con lối xóm. Ôi tấm lòng của lão Hạc không chỉ dành cho con mà còn rất giàu lòng tự trọng. Đó là vẻ đẹp đáng quí ẩn dấu dưới vẻ bề ngoài tưởng như gàn dở lẩm cẩm. Từ sau hôm ấy lão Hạc sống mòn chế được món gì thì ăn món đấy. Tôi ngấm ngầm giúp đỡ nhưng lão biết vợ tôi không ưa nên lão từ chối một cách gần như là hách dịch. Một lần nữa tôi càng kính trọng hơn lòng tự trọng của lão. Nhưng Binh Tư kể chuyện Lão Hạc xin bả chó đánh trộm chó. Trời ơi lão Hạc lại đổ đốn như thế này sao? Vì miếng ăn vì cái đói mà lão tha hóa biến chất ư? Một con người đã khác vì một con chó đã nhịn ăn để có tiền lo ma mà giờ đây đói ăn vụng túng làm liều như thế này ư, tôi đau đớn và thất vọng quá. Bỗng có tiếng xôn xao bên nhà lão Hạc tôi vội chạy sang tôi không thể tin nổi: Lão Hạc dùng bả chó để tự tử. Ôi một cái chết đau đớn dữ dội vật vờ, lão tru tréo bọt mép, sùi ra hai mắt lăn sòng sòng thỉnh thoảng lại giật nảy người lên một cái, một cái chết thương tâm quá! Thì ra từ lúc bán con chó vàng lão đã bán đi niềm hi vọng sống âm thầm chuẩn bị cho mình cái chết. Phải chăng đó là cái chết vì con để chấm dứt kiếp sống mòn, để tránh tha hóa biến chất để khẳng định lương tâm trong sạch? Hỡi ơi lão Hạc! Lão đã ra đi như thế này ư? Đó là kiếp người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng không có lối thoát. Xã hội này đen bạc quá! Là người trí thức tôi phải làm gì để góp phần xóa bỏ xã hội bất nhân này xây dựng cuộc sống này. Đó là câu hỏi khiến tôi day dứt và khao khát hành động.
2.10. Đoạn văn 10
Cả cuộc đời Lão Hạc là một chuỗi những bất hạnh liên tiếp, dai dẳng và triền miên: vợ chết, lão sống cảnh gà trống nuôi con , khi con trai lão trưởng thành, phẫn uất vì không đủ tiền cười vợ cũng đã bỏ đi làm đồn điền cao su lão sống thui thủi trong cảnh già cũng với con chó vàng. Lão Hạc quý con Vàng lắm. Chẳng gì nó cũng là một kỉ vật. Vợ lão mất đi, tất cả những gì yêu thương lão dồn cả vào cậu con trai. Nhưng nhà lão nghèo quá, không đủ tiền cưới vợ cho con, con lão bỏ đi. Cậu Vàng lúc này có khác gì cậu con trai quý tử của Lão. Lão chăm lo cho nó chu đáo lắm. Lão ăn gì cũng cho nó ăn theo. Cậu Vàng lớn nhanh và cũng rất trung thành với chủ. Nhưng rồi những trận ốm nặng khiên lão tiêu hết cả chỗ tiền bòn. Lão đành bán chó. Chuyện tưởng chỉ đơn giản như vậy như người ta bán đi con vật nào đó trong nhà nhưng với Lão Hạc, chuyện bán con vàng là to tát lắm. Lão Hạc Tôi hiểu, tôi biết vì sau khi bán con chó vàng ông đã sang báo tin cho tôi. Lão cố làm ra vẻ nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão cứ ầng ậng nước. Lão đau xót thật. Nỗi đau của Lão khiến tôi còn cảm thấy không xót xa bằng năm quyển sách mà tôi cho đó là vật tùy thân hồi trước. Bộ dạng lão trông thật là tội nghiệp. Những giọt nước mắt khó khăn tưởng không thể có ở cái tuổi gần đất xa trời đã rơi vì thấy mình có lỗi với chú chó vàng. Lão khóc như đứa con nít giận dỗi vì bị ai đe nẹt và quát mắng. Tôi cảm thấy bồi ngồi khi ngồi nghe lão kể. Lão kể chuyện bán chó mà thực chất là để tự sỉ vả mình. Lão nói: .. ông giáo ơi..! Nó có biết gì đâu. Một câu chửi thề, một lời tự trách, con chó được lão hạc coi như một đứa con mà mình chẳng khác gì một ông già chuyên lừa lọc. Lão tưởng tượng trong ánh mắt của con Vàng lúc nó bị trói chặt cả bốn chân là một lời trách móc nặng nề: A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối xử với tôi như thế này à? Lời tự vấn chứng tỏ lão đã dằn vặt mình lắm. Thế rồi Lão cũng nguôi dần nhờ sự động viên, khích lệ thêm chút an ủi của tôi. Thôi thì đằng nào nó cũng chết rồi. Lão chua chát bảo Kiếp con chó là kiếp khổ, thì ta hóa kiếp cho nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn. Câu nói của Lão chua xót biết bao. Chắc gì cái kiếp của lão đã sung sướng hơn kiếp chó. Còn lão vẫn phải sống kiếp người mà nào có ra gì. Và rồi đây, cái chết của lão đâu có nhẹ hơn cái chết của cậu Vàng. Tình yêu của Lão Hạc đối với cậu Vàng không đơn giản là thứ tình yêu dành cho con vật cậu Vàng là kỉ niệm, là nơi duy nhất lão ngày ngày tâm sự chuyện mình. Nói chuyện với cậu, lão có cảm giác như đang được gần cậu con trai yêu quý. Chính điều kiện này khiến tôi - một nhà tri thức nghèo, và các bạn dễ dàng hiểu được tại sao lão Hạc lại dằn vặt và đau đơn khi bán chó.
Câu trả lời của bạn: 15:56 29/10/2022
bạn nhớ cho 5 sao và thả tim giúp mình nhá
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 15:46 29/10/2022
a. từ trái nghĩa
từ đồng nghĩa với vui mừng là sung sướng,hạnh phúc ,vui lòng.
Câu trả lời của bạn: 15:30 29/10/2022
bạn tham khảo qua các mẫu này nhé
bạn nhớ cho mình 1 tim 5 sao và điểm j đó lun nhé yêu bạn rất nhiều
Kể lại truyện Sọ Dừa - Mẫu 1
Ngày xửa ngày xưa, có hai vợ chồng nghèo đi ở cho nhà phú ông. Họ hiền lành, chịu khó nhưng đã ngoài năm mươi tuổi vẫn chưa có con.
Một hôm, trời nắng to, người vợ vào rừng hái củi cho chủ, khát nước quá mà không tìm thấy suối. Nhìn thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa liền bưng lên uống. Thế rồi bà có mang. Chẳng bao lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa bé không tay không chân, tròn như một quả dừa. Bà buồn bã, toan vứt đi thì đứa con bảo:
- Mẹ ơi, con là người. Mẹ đừng vứt đi mà tội nghiệp!
Nghĩ thấy thương con, bà đành để con lại nuôi, đặt tên là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ Dừa vẫn không khác lúc nhỏ, cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm được việc gì. Một hôm, bà mẹ than phiền:
- Con người ta bảy tám tuổi đã đi chăn bò, còn mày thì chẳng được tích sự gì.
Sọ Dừa nghe vậy, liền nói:
- Tưởng gì chứ chăn bò con cũng làm được, mẹ cứ xin phú ông cho con đi chăn bò.
Nghe con giục, bà đến hỏi phú ông. Phú ông ngần ngại, không biết Sọ Dừa có làm được việc. Nhưng nghĩ đến việc nuôi Sọ Dừa ít tốn cơm, công sá chẳng là bao nên đồng ý. Thế là Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, ngày nắng cũng như ngày mưa con nào con nấy bụng cũng no căng. Phú ông lấy làm hài lòng lắm.
Đến vụ mùa, tôi tớ ra đồng làm việc cả. Phú ông sai ba cô con gái đem cơm ra đồng cho Sọ Dừa. Hai cô chị ác độc, tỏ ra coi thường. Chỉ có mình cô út là đối đãi với Sọ Dừa tử tế. Một hôm, cô út vừa mang cơm đến chân đồi thì nghe thấy tiếng sáo véo von. Cô lấy làm lạ, rón rén bước đến gần, rồi nấp sau bụi cây rình xem. Cô thấy một chàng trai khôi ngô đang ngồi trên chiếc võng đào mắc vào hai cành cây, thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Có tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, có của ngon vật lạ đều đem giấu cho chàng.
Cuối mùa ở, Sọ Dừa về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ hết sức sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ, bà cũng chiều lòng, đành kiếm buồng cau mang đến nhà phú ông. Phú ông nghe xong cười mỉa mai:
- Được, muốn cười con gái ta thì phải chuẩn bị đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.
Bà mẹ về nói với Sọ Dừa, nghĩ con thôi hẳn việc lấy vợ. Không ngờ, Sọ Dừa bảo mẹ sẽ có đủ những thứ đấy. Đúng ngày hẹn, bà mẹ vô cùng ngạc nhiên khi trong nhà có đầy đủ lễ vật. Lại có cả chục giai nhân ở dưới nhà chạy khiêng lễ vật đến nhà phú ông. Phú ông hoa cả mắt, lúng túng nói với bà cụ:
- Để ta hỏi con gái xem có đứa nào đồng ý lấy Sọ Dừa không.
Lão gọi ba cô con gái ra, hỏi lần lượt từng cô một. Hai cô chị thì bĩu môi, chê bai. Còn cô út thì e thẹn, bằng lòng. Phú ông đành phải nhận lễ và gả cô út cho Sọ Dừa.
Ngày cưới, nhà Sọ Dừa bày cỗ bàn linh đình. Đến lúc rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa đâu. Bỗng một chàng trai khôi ngô tuấn tú cùng cô út từ phòng cô dâu đi ra. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những vậy, Sọ Dừa còn tỏ ra thông minh khác thường. Nhờ học hành chăm chỉ, chàng đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Trước khi chia tay, Sọ Dừa đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải luôn mang trong người phòng khi cần dùng đến.
Từ ngày em gái lấy được chồng trạng nguyên, hai cô chị ghen ghét. Nhân cơ hội quan trạng đi vắng, họ bày mưu, rủ em gái chèo thuyền ra biển chơi, rồi đẩy em xuống nước. Cô út bị một con cá kình nuốt chửng vào bụng. Sẵn có con dao, cô đâm chết con cá, xác cá nổi lềnh bềnh trên biển rồi dạt vào một hòn đảo hoang. Cô lấy dao khoét bụng cá chui ra, lấy hai hòn đá cọ mạnh vào nhau, bật lửa lên rồi xẻo thịt cá nướng ăn qua ngày.
Một hôm, có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gay to:
- Ò ó o… Phải thuyền quan trạng, rước cô tôi về.
Quan trạng cho thuyền vào xem. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Sọ Dừa đưa vợ về nhà nhưng không cho ai biết, rồi mở tiệc mừng với bà con ngày trở về. Hai cô chị thấy vậy mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra vẻ thương tiếc lắm. Đến khi hết tiệc, quan trạng mới đưa vợ ra. Hai cô chị thấy em trở về bình an, vô cùng xấu hổ liền bỏ đi biệt tích.
Kể lại truyện Sọ Dừa - Mẫu 2
Xưa có hai vợ chồng nông dân hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi mà vẫn chưa có con. Một hôm nọ, trời nắng rất to, người vợ vào rừng lấy củi cho chủ, khát nước quá không tìm thấy suối. Bà nhìn thấy cái sọ dừa bên cạnh gốc cây đựng đầy nước mưa, bà bưng lên uống, về nhà thì có mang. Chẳng bao lâu sau, bà sinh ra một đứa bé không chân không tay, tròn như một quả dừa nhưng lại biết nói. Bà toan vứt đi thì bỗng nhiên đứa bé cất tiếng nói:
- Mẹ ơi, con là con của mẹ đây! Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Thương con, bà lão giữ lại nuôi. Sau khi lớn lên, Sọ Dừa xin mẹ cho đi chăn bò ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng. Nhà phú ông có ba cô con gái thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị ác nghiệt kiêu kỳ, chỉ có cô út là đối đãi tử tế với Sọ Dừa. Một hôm, như thường lệ đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe có tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, có thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.
Cuối mùa ở, Sọ Dừa đòi mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ thấy con nói vậy, vì thương con nên đành đến nhà phú ông hỏi cưới. Phú ông nghe bà lão nói thì cười lớn rồi nói:
- Muốn cười con gái ta thì phải chuẩn bị đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.
Bà lão trở về nhà nói với con. Sọ Dừa dặn mẹ cứ yên tâm. Đến ngày cưới, Sọ Dừa đã chuẩn bị đủ lễ vật cho mẹ mang sang nhà phú ông. Lúc rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Cuộc sống của hai vợ chồng Sọ Dừa rất hạnh phúc. Sọ Dừa học hành chăm chỉ đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Trong thời gian đó, hai cô chị sinh lòng đố kị, bày mưu hãm hại em gái. Hai cô chị rủ em chèo thuyền ra biển chơi, rồi đẩy em xuống nước. Cô út bị một con cá kình nuốt chửng vào bụng. Sẵn có con dao mà Sọ Dừa đưa cho cô rạch bụng nó, con cá chết xác dạt vào hòn đảo. Nhờ có những đồ vật mà Sọ Dừa đưa cho, cô út sống sót trên đảo hoang.
Một hôm, có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gay to:
- Ò ó o… phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng thấy thế bèn cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà nhưng không cho ai biết, quan trạng mở tiệc mừng với bà con ngày trở về. Hai cô chị thấy vậy mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra vẻ thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, hết tiệc mới dẫn vợ ra. Hai cô chị thấy em, xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ ra đi biệt xứ.
Kể lại truyện Sọ Dừa - Mẫu 3
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có rất nhiều câu chuyện cổ tích đặc sắc. Mỗi câu chuyện cổ tích đều dạy cho chúng ta một bài học làm người ý nghĩa. Sọ Dừa chính là câu chuyện cổ tích như thế.
Ngày xưa, ngày xưa có hai vợ chồng nông dân rất nghèo, phải đi ở cho nhà phú ông nọ. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng mãi đến năm mươi tuổi mà vẫn chưa có lấy một mụn con.
Một hôm, người vợ vào trong rừng hái củi. Trời nắng to, khát nước quá mà bà chẳng tìm thấy con suối nào. Bỗng nhìn thấy một cái sọ dừa đầy nước mưa bên gốc cây to, bà vội uống cho đỡ khát. Thế rồi, về nhà, bà có thai.
Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như quả dừa. Bà buồn quá, định vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo:
- Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.
Thương con, bà để lại nuôi và đặt tên là Sọ Dừa.
Lớn rồi Sọ Dừa vẫn như lúc nhỏ, cứ lăn bên chân mẹ, chẳng làm được việc gì. Bà mẹ phiền lòng lắm, than phiền. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ:
- Chuyện gì chứ chăn bò con cũng làm được. Mẹ nói với phú ông cho con chăn bò nhé!
Nghe con nói, bà đánh liều đến hỏi phú ông. Ban đầu, phú ông ngần ngại vì hình dạng của Sọ Dừa, nhưng nghĩ nuôi ít tốn cơm, công chăn bò cũng ít nên ông đồng ý.
Từ đó Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà, đàn bò béo tốt hẳn ra. Phú ông mừng lắm.
Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kiêu kỳ, ác nghiệt, thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn hiền lành, tốt bụng, đối đãi với Sọ Dừa rất tử tế.
Một hôm, như thường lệ đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe có tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, có thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.
Sọ Dừa bèn về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà lão sửng sốt lắm, nhưng thấy con năn nỉ mãi bà cũng chiều lòng.
Mẹ Sọ Dừa đến hỏi, phú ông cười mỉa mai:
- Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mang sang đây.
Bà lão ra về, nghĩ chắc con mình sẽ từ bỏ ý định, nhưng Sọ Dừa lại nói rằng sẽ có đủ lễ vật. Không ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà trong nhà không những có đầy đủ sính lễ mà còn có cả gia nhân khiêng đồ sính lễ sang nhà phú ông. Phú ông thấy thế hoa cả mắt, gọi ba con gái ra hỏi ý. Hai cô chị chê bai Sọ Dừa xấu xí, chỉ có cô út là cúi đầu tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành nhận lễ vật và gả cô gái út cho Sọ Dừa.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa xấu xí đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Hai vợ chồng sống hạnh phúc, Sọ Dừa còn rất thông minh, ngày đêm miệt mài đèn sách và thi đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, nhà vua truyền chiếu sai chàng đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ luôn các thứ ấy bên mình để có lúc cần dùng đến.
Ganh tị với em, hai cô chị nhân lúc Sọ Dừa vắng nhà, rắp tâm giết hại em để thay làm bà Trạng. Hai cô chị sang nhà chơi, rủ cô em chèo thuyền ra biển rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình to nuốt cô út vào bụng. May có con dao bên mình, cô đâm chết cá, xác cá trôi dạt vào bờ một hòn đảo, cô lại lấy dao xẻ bụng cá chui ra ngoài. Cô dùng bàn đá bật lửa, nướng cá sống qua ngày, chờ thuyền đi ngang qua đến cứu. Sống trên đảo ít ngày, hai quả trứng cũng nở thành đôi gà đẹp làm bạn với cô.
Sọ Dừa quả thực là câu chuyện cổ tích vô cùng ý nghĩa, nhắc nhở chúng ta “ở hiền gặp lành”, người nhân hậu sẽ được hạnh phúc, kẻ ác sẽ chịu đau khổ. Mỗi chúng ta phải sống nhân hậu, tránh tham lam, ích kỉ mà nhận lại quả báo.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy vang ba lần:
- Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Về nhà, quan trạng mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em út rủi ro, tỏ vẻ thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ
Kể lại truyện Sọ Dừa - Mẫu 4
Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con.
Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà bèn bưng lên uống. Thế rồi, về nhà, bà có mang.
Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như một quả dừa. Bà buồn, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo.
- Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp. Bà lão thương tình để lại nuôi rồi đặt tên cho cậu là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. Bà mẹ lấy làm phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.
Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi nó thì ít tốn cơm, công sá lại chẳng đáng là bao, phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Cả đàn bò, con nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!
Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn tính thương người là đối đãi với Sọ Dừa tử tế.
Một hôm đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên cô nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.
Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ. Bà lão thấy vậy tỏ ra vô cùng sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ mãi, bà cũng chiều lòng.
Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:
- Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà lão đành ra về, nghĩ là phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà có đầy đủ mọi sính lễ, lại có ca gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.
Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà nói là để hộ thân.
Ganh tị với cô em, hai cô chị sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm bà trạng. Nhân quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế lừa đẩy cô em xuống nước. Cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lây dao khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, cặp gà cũng kịp nở thành một đôi gà đẹp để làm bạn cùng cô út.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to:
- Ò... ó... o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra chiều thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Kể lại truyện Sọ Dừa - Mẫu 5
- Ò ó o… o!
Nghe tiếng gà gáy, cô út choàng tỉnh dậy. Phải mất một lúc, cô mới hình dung nổi tình cảnh hiện tại của mình. Cô vừa thoát khỏi bụng con cá mập to tướng, một mình trên hoang đảo, xung quanh chỉ có đôi gà để làm bạn.
Cô bỗng nhớ lại tất cả, bắt đầu từ cái ngày kì lạ ấy. Thấy hai cô chị kiên quyết không ai chịu đem cơm cho Sọ Dừa, cô đành nhận lời đi. “Tuy dung mạo có hơi xấu nhưng dù sao cậu ta cũng biết nói tiếng người, thậm chí còn ăn nói rất dễ thương nữa là đằng khác” - Cô nghĩ.
Từ đằng xa cô đã nghe thấy tiếng sáo du dương trầm bổng. Cô tự hỏi không biết ai là người thổi sáo. Không lẽ lại là Sọ Dừa? Nhưng anh ta làm sao mà thổi sáo được kia chứ. Cô vẫn nhớ cái ngày Sọ Dừa xuất hiện ở nhà cô. Trông anh ta thật buồn cười, cứ lăn lông lốc dưới đất như một quả bí, vậy mà ăn nói đến là khéo. Hai cô chị trông thấy Sọ Dừa thì quay mặt đi, riêng cô không thấy sợ mà lại thương con người dung mạo kì dị, nhất là khi thấy anh ta làm việc gì cũng đến nơi đến chốn, chăn cả đàn bò mà con nào con nấy cứ béo tròn nung núc. Cô lên đưa cơm nhưng thực ra cũng muốn đến xem anh chăn bò như thế nào.
Đến gần, cô út lại càng ngạc nhiên. Sao lại có cái võng mắc ở kia, lại có ai đang nằm trên đó thổi sáo nữa chứ! Hay đó là người anh em của Sọ Dừa mà cô không biết? Thế anh ta đâu rồi?
Mải suy nghĩ, cô út dẫm phải một cành cây khô làm phát ra tiếng động. Cô cúi xuống nhìn rồi ngẩng lên, sửng sốt khi không thấy cả chiếc võng lẫn chàng thanh niên đâu cả. Chỉ có anh chàng Sọ Dừa, lúc trước không thấy đâu, giờ đang ở dưới gốc cây mà cười toe toét:
- Chào cô út! Cô mang cơm cho tôi hay là lên thăm tôi đấy?
Cô út không trả lời vì còn đang thắc mắc. Cô hỏi anh:
- Cái anh chàng vừa nằm trên võng thổi sáo đâu rồi?
Sọ Dừa chối biến:
- Chắc cô trông nhầm đấy chứ tôi ở đây suốt, làm gì có anh chàng nào thổi sáo đâu!
Cô út không tin là mình nhầm. Cô chợt nghĩ ra một điều khác thường. Phải rồi, Sọ Dừa nếu cứ thế kia thì làm sao có thể chăn được cả đàn bò, lại còn chàng trai trẻ, chiếc võng vừa đây mà đã biến mất… Cô không hỏi thêm gì nữa, đưa cơm cho anh rồi đi về, lòng vui rộn ràng.
Khi phú ông hỏi các cô con gái xem ai đồng ý lấy Sọ Dừa là hỏi lấy lệ để từ chối khéo bà mẹ đó thôi, lão chắc không cô gái nào lại đồng ý lấy một người kì dị, xấu xí như Sọ Dừa. Cô út đã làm cho ông bố một phen chưng hửng:
- Cha đặt đâu, con xin ngồi đấy ạ!
Hai cô chị trề môi chê em gái sao mà ngốc nghếch. Phú ông tức bầm gan tím ruột nhưng đã trót hứa với bà mẹ rồi, đành hẹn ngày dẫn cưới. Lão thách thật nặng nhưng cô út thầm đoán và mong rằng, điều đó không khó gì đối với người chồng tương lai của cô. Quả nhiên, Sọ Dừa không những mang đồ dẫn cưới đến đủ mà còn mang thêm rất nhiều người hầu hạ nữa khiến cho ai nấy cũng phải ngạc nhiên: Xưa nay có thấy ai ra vào nhà Sọ Dừa đâu?
Đám cưới đang ăn uống linh đình, cô bèn bế Sọ Dừa vào nhà trong rồi thì thầm:
- Nào người chồng yêu quý của em, chàng xuất hiện đi thôi chứ!
Sọ Dừa mỉm cười, bắt cô quay mặt đi và nhắm mắt lại. Khi chàng bảo cô mở mắt ra thì trước mặt đúng là chàng trai trẻ hôm nào. Hai người sánh vai nhau ra chào quan khách. Mọi người hết sức ngỡ ngàng, hai người phải giải thích mãi, thậm chí Sọ Dừa còn phải hoá phép lại như cũ, mọi người mới tin là thật. Đám cưới đã vui lại càng vui hơn nữa.
Sọ Dừa học giỏi, đỗ trạng nguyên, được vua cử đi sứ nước ngoài, để cô ở lại. Cô có ngờ đâu hai bà chị vốn rất ghen tức khi thấy em lấy được người chồng vừa trẻ đẹp lại có tài, rắp tâm làm hại em để cướp chồng. Hai chị rủ em đi bơi thuyền rồi đẩy em xuống biển. Một con cá rất to bơi qua, nuốt luôn cô vào bụng. Thật may là Sọ Dừa như đã biết trước mọi chuyện. Chàng dặn cô luôn mang theo bên mình một con dao, quả trứng gà và hòn đá lửa. Có con dao, cô tự rạch bụng cá khiến cá chết, dạt vào bờ. Cô chui ra, lại có thịt cá ăn luôn, có lửa để nướng cá và có con gà để bầu bạn.
Một hôm cô đang loay hoay nướng cá để ăn dần, bỗng con gà trống gáy vang:
- Ò… ó... o…phải thuyền quan trạng, rước cô tôi về!
Cô vội bỏ cá đấy chạy ra. Đúng là chồng cô rồi. Chàng đã đi sứ về, ngang qua nghe tiếng gà gáy, lại thấy có bóng người như vợ mình bèn cho thuyền vào đón. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi.
Nghe lời chồng, lúc gần về đến nhà cô nấp vào trong khoang thuyền. Nghe thấy hai bà chị thi nhau kể với Sọ Dừa về cái chết thương tâm của cô, cô bèn bước ra. Hai cô chị thấy em xuất hiện, ngượng quá, không nói không rằng bỏ đi biệt tích. Cô cùng người chồng sống bên nhau hạnh phúc đến già.
Kể lại truyện Sọ Dừa - Mẫu 6
Ngày xửa, ngày xưa có hai vợ chồng bà lão rất nghèo, phải đi ở cho một nhà phú ông nọ. Họ mong mỏi có một người con nhưng mãi đến năm mươi tuổi mà vẫn chưa có mụn con nào.
Một buổi trưa bà lão vào rừng hái củi. Trời nắng to, khát nước quá mà bà chẳng tìm thấy con suối nào. Bỗng nhìn thấy một cái sọ dừa đầy nước mưa bên gốc cây to, bà vội uống cho đỡ khát. về nhà bà có thai.
Ít lâu sau ông lão mất. Bà lão sinh ra một đứa bé trong như quả dừa, không chân, không tay. Bà buồn quá định vứt đi thì đứa bé bảo:
- Mẹ ơi con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Thương con, bà để lại nuôi đứa bé và đặt tên là Sọ Dừa.
Đến lớn Sọ Dừa vẫn không khác lúc nhỏ, cứ lăn bên chân mẹ, chẳng làm được việc gì. Một hôm, bà mẹ than phiền Sọ Dừa chẳng biết đi chăn bò giúp mẹ. Sọ Dừa bèn nói:
- Chuyện gì chứ chăn bò con chăn cũng được mà mẹ. Mẹ nói với phú ông cho con chăn bò nhé!
Nghe con nói thế, bà đánh liều đến hỏi phú ông. Phú ông ngần ngừ vì hình dạng của Sọ Dừa, nhưng nghĩ nuôi nó ít tốn cơm, công chăn bò cũng ít nên phú ông đồng ý. Từ đó Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. đàn bò ngày một béo tốt hẳn ra. Phú ông rất hài lòng.
Phú ông có ba cô con gái thường xuyên đem cơm trưa cho Sọ Dừa, vì vào vụ mùa tôi tớ phải ra đồng cả. hai cô chị đối xử rất ác nghiệt với Sọ Dừa, còn cô út thì đối xử rất tử tế với cậu, vì cô vốn là người hiền lành, tốt bụng.
Một buổi trưa như thường lệ đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa, cô bỗng nghe có tiếng sáo thổi rất hay. Cô ấp vội sau bụi cây thì nhìn thấy một chàng trai khôi ngô đang ngồi trên chiếc võng thổi sáo cho đàn bò nghe. Có tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô biết Sọ Dừa không phải là người trần. Từ đó, cô đem lòng yêu mến, có thức ăn nào ngon cô đều giấu đem cho chàng.
Một hôm, Sọ Dừa lăn về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ sửng sốt lắm, nhưng nghe con năn nỉ quá bà cũng chiều lòng. Nghe bà nói xong phú ông cười mỉa:
- Nếu muốn lấy con gái ta phải sắm đủ lễ vật sau: một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.
Bà mẹ nghĩ chắc con mình sẽ từ bỏ ý định cưới con gái của phú ông, nhưng không ngờ Sọ Dừa nói với mẹ rằng sẽ có đủ lễ vật ấy.
Đúng ngày hẹn, bà mẹ vô cùng ngạc nhiên vì trong nhà không những có đầy đủ sính lễ mà còn có cả những gia nhân khiêng đồ sính lễ sang nhà phú ông. Phú ông thấy thế hoa cả mắt. Lão bèn nói:
- Để ta hỏi con gái ta, xem có đứa nào ưng lấy thằng Sọ Dừa không đã. Lão gọi ba cô con gái ra, hai cô chị thì chê bai thẳng thừng, còn cô út cúi mặt, tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành nhận lễ vật và gả cô gái út cho Sọ Dừa.
Kể từ ngày cưới, Sọ Dừa biến thành một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, gia đình sống sung túc và rất hạnh phúc. Hai cô chị vợ của Sọ Dừa thấy thế ghen tức lắm.
Sọ Dừa ngày đêm miệt mài đèn sách và thi đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, có chiếu nhà vua sai trạng đi sứ. Sọ Dừa chia tay vợ lên đường, chàng trao cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ luôn các thứ ấy bên mình để có lúc cần dùng đến.
Nhân thấy Sọ Dừa đi xứ xa nhà, hai cô chị quyết tâm giết hại em mình cho thỏa lòng ghen tức. Hai cô sang chơi, rủ em chèo thuyền ra biển rồi đẩy em xuống nước. Một con cá to nuốt cô út vào bụng. Sắn có con dao bên mình, cô đâm chết cá, xác cá trôi dạt vào bờ một hòn đảo, cô lại lấy dao xẻ bụng cá chui ra ngoài. Cô dùng hàn đá bật lửa nướng cá sống qua ngày, chờ thuyền đi ngang qua đến cứu. Hai quả trứng nở thành đôi gà đẹp làm bạn với cô giữa hòn đảo vắng.
Một hôm, có chiếc thuyền cắm cờ đuôi nheo lướt qua đảo. Con gà trống gáy to ba lần:
- Ò… ó … o... Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng cho thuyền cập bến. Vợ chồng gặp nhau hết sức vui mừng. Về nhà, quan trạng mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui. Hai cô chị không hay biết, họ chắc mẩm chuyến này được thay em làm bà trạng. Họ khóc lóc nức nở kể về chuyện không may của cô em ra chiều tiếc thương lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong, chàng cho gọi vợ ra. Hai người chị trông thấy cô em xấu hổ quá lén bỏ về và đi biệt xứ.
Kể lại truyện Sọ Dừa - Mẫu 7
Chuyện kể rằng có một ông bà nông dân nghèo nhưng ăn ở hiền lành, nhân đức, chẳng làm hại ai bao giờ. Nhưng hai ông bà đã năm mươi tuổi mà vẫn chưa có được một mụn con. Một hôm trời nắng to, bà lão đi vào rừng hái củi cho chủ. Vì khát nước quá mà không tìm thấy suối, lại thấy cái sọ dừa bên gốc cây đựng đầy nước mưa, bà liền bưng lên uống. Sự việc tưởng chừng như rất đơn giản ấy lại khiến bà có mang. Không bao lâu sau thì một đứa bé trong như quả dừa, không chân, không tay. Bà buồn quá định vứt đi thì đứa bé bảo:
- Mẹ ơi, đừng vứt con đi mà tội nghiệp!
Lớn lên, Sọ Dừa xin mẹ đi chăn bò thuê cho nhà phú ông. Hằng ngày, Sọ Dừa đến nhà phú ông lăn đàn bò ra đồng vào buổi sáng, chiều lại lăn về. Sọ Dừa chăn cả đàn bò, con nào con nấy đều căng tròn, béo tốt nên phú ông rất vừa ý. Nhà phú ông có ba cô con gái, buổi trưa vẫn thay nhau mang cơm ra đồng cho Sọ Dừa.
Ít lâu sau, Sọ Dừa xin với mẹ sang nhà phú ông hỏi con gái ông làm vợ. Phú ông chê gia đình Sọ Dừa nghèo khó, cười mỉa nói với bà lão rằng: “Muốn hỏi được con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây”.
Bà lão về nhà nói với Sọ Dừa. Ngày hẹn đến, Sọ Dừa sắm đủ hết lễ vật. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.
Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà nói là để hộ thân.
Ganh tị với em, hai cô chị nhân lúc Sọ Dừa vắng nhà, rắp tâm giết hại em để thay làm bà Trạng. Hai cô chị sang nhà chơi, rủ cô em chèo thuyền ra biển rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình to nuốt cô út vào bụng. May có con dao bên mình, cô đâm chết cá, xác cá trôi dạt vào bờ một hòn đảo, cô lại lấy dao xẻ bụng cá chui ra ngoài. Cô dùng bàn đá bật lửa, nướng cá sống qua ngày, chờ thuyền đi ngang qua đến cứu. Sống trên đảo ít ngày, hai quả trứng cũng nở thành đôi gà đẹp làm bạn với cô.
Sọ Dừa quả thực là câu chuyện cổ tích vô cùng ý nghĩa, nhắc nhở chúng ta “ở hiền gặp lành”, người nhân hậu sẽ được hạnh phúc, kẻ ác sẽ chịu đau khổ. Mỗi chúng ta phải sống nhân hậu, tránh tham lam, ích kỉ mà nhận lại quả báo.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy vang ba lần:
- Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Hai vợ chồng gặp lại nhau, vô cùng mừng rỡ. Sọ Dừa đưa vợ trở về. Hai cô chị thấy em gái trở về bình a, thấy xấu hổ liền trốn đi biệt.
Kể lại truyện Sọ Dừa - Mẫu 8
Ngày xưa, có hai vợ chồng nghèo không lấy một mảnh đất làm ăn nên đành phải đi làm cho một phú ông giàu có trong làng. Làm việc cũng rất chăm chỉ, sống rất lương thiện mà hai người vẫn không có lấy một mụn con để bồng bế. Họ cũng buồn lắm nhưng chỉ biết động viên nhau “Thôi, con cái là lộc trời cho.”
Rồi bỗng một ngày, người vợ phát hiện mình có mang sau khi uống nước trong vỏ dừa ngoài rừng. Hai vợ chồng sung sướng khôn xiết, cảm tạ ông trời vì cuối cùng cũng hiểu nỗi lòng của họ. Nhưng trớ trêu thay, đến ngày hạ sinh, bà lại sinh ra một đứa con dị dạng, chẳng ra người cũng không phải ngợm. Nó là một đứa trẻ không chân không tay, tròn lông lốc. Hai vợ chồng đau lòng vì họ đã kì vọng vào đứa con này biết bao nhiêu. Người vợ toan vất đứa trẻ đi thì nó chợt cất tiếng nài nỉ:
- Mẹ ơi, đừng bỏ con đi. Hãy để con lại bên cạnh mẹ!
Người mẹ cũng thấy động lòng thương, đành giữ nó lại và đặt tên con là Sọ Dừa.
Thời gian thấm thoát trôi, mọi thứ đều thay đổi, con người cũng lớn lên rồi già đi, chỉ có Sọ Dừa không đổi, vẫn tròn và hay lăn lông lốc như một quả dừa. Nhưng Sọ Dừa đã biết giúp ích cho gia đình hơn sau khi được mẹ xin cho vào làm ở nhà phú ông. Cứ tưởng cậu chỉ là một thằng vô dụng nhưng phú ông rất bất ngờ vì Sọ Dừa biết làm khá nhiều việc, đặc biệt là việc chăn bò. Dưới bàn tay của cậu, con nào con nấy lớn lên béo khỏe, cứng cáp. Phú ông lấy đó làm hài lòng lắm.
Vào ngày mùa, mấy người trong nhà phú ông phải ra sức làm việc nen ba cô con gái của ông có nhiệm vụ là mang cơm trưa ra đồng. Vì ngoại hình xấu xí, khác người mà Sọ Dừa lúc nào cũng bị hai cô con gái đầu của phú ông hắt hủi coi thường ra mặt. Họ đối xử rất tệ bạc với cậu, thậm chí còn không mang phần cơm cho cậu. Chỉ có cô út người vừa xinh đẹp lại còn tốt bụng, luôn đối đãi tử tế với Sọ Dừa.
Cô còn đem lòng yêu quý cậu sau khi phát hiện cậu không phải là người tầm thường. Chẳng là một hôm, như thường lệ cô mang cơm ra cho Sọ Dừa thì nghe từ xa có tiếng sáo trong trẻo, du dương từ đâu vọng tới. Qua lùm cây, cô chỉ thấp thoáng nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú với ánh mắt xa xăm đang say sưa thổi sáo khiến trái tim cô út cũng xao động nhưng khi đến nơi cô lại chỉ thấy Sọ Dừa đang ở đấy.
Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa giục mẹ sang nhà phú ông hỏi cưới vợ. Bà mẹ hơi sửng sốt nhưng vì con năn nỉ quá nên đành đồng ý. Phú ông thách cưới “ Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây”. Cuối cùng, Sọ Dừa cũng chuẩn bị đủ nhưng không ai chịu gả cho chàng trừ cô út.
Ngày đám cưới, một chuyện bất ngờ đã xảy ra, một Sọ Dừa không ta không chân đã được thay thế bằng một chàng trai khôi ngô như lần trước cô út nhìn thấy. Mọi người đều rất bất ngờ, không tin vào mắt mình sau đó rộn ràng chúc mừng cô út. Không những vậy sau này, Sọ Dừa còn ngày đêm ôn luyện đèn sách nên đỗ trạng nguyên.
Trước sự hạnh phúc của em, hai cô chị sinh lòng ghen ghét đố kị. Bởi vậy, nhân lúc Sọ Dừa đi vắng, đã âm mưu hãm hại em ngã xuống biển cho cá mập ăn thịt. May mắn là cô em thoát chết và được chồng đưa về nhà. Hai cô chị bị trừng phạt thích đáng.
Kể lại truyện Sọ Dừa - Mẫu 9
Tuổi thơ em gắn liền với nhưng “câu chuyện ngày xưa bà thường hay kể”, anh Khoai trung thực, hiền lành cưới được con gái phú ông, cô Tấm vượt qua bao gian khó giữ lấy cho mình cuộc sống hạnh phúc hay chàng Thạch Sanh dũng cảm và tốt bụng khiến công chúa rung động,… Và đặc biệt không thể không kể đến chuyện về anh chàng Sọ Dừa, một câu chuyện thú vị và chứa đầy tình yêu thương.
Truyện kể rằng, có vợ chồng ông lão nọ đi ở cho nhà phú ông, họ chăm chỉ và hiền lành lắm nhưng ngoài 50 rồi mà chưa có lấy một mụn con. Một hôm khi vào rừng đốn củi, trời nắng to mà khát nước quá, chợt thấy cái sọ dừa ở gốc cây đựng đầy nước mưa, bà bê lên uống, Thế rồi bà có mang. Không lâu sau, người chồng mất, bà sinh ra một đứa con nhưng nó lại không tay, không chân, tròn lông lốc như một quả dừa, bà buồn lắm, toan vứt nó đi nhưng đứa bé lại cất tiếng nói:
- Mẹ ơi! Con là người đấy, mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Bà lão thương con, đành nuôi và đặt tên nó là Sọ Dừa. Lớn lên, sọ dừa vẫn thế, không làm được việc gì, bà mẹ vô cùng phiền lòng. Biết vậy, Sọ Dừa nhờ mẹ xin cho đến chăn bò cho nhà phú ông. Lúc đầu, phú ông ngần ngại nhưng lại nghĩ Sọ Dừa ăn ít cơm, công lao cũng chẳng tốn là bao nên ông đồng ý, chẳng ngờ Sọ Dừa chăn bò rất giỏi, ban ngày cậu chăn bò ra đồng, tối lại chăn về, con nào cũng no căng béo tốt, phú ông ấy thế làm mừng. Ngày mùa bận bịu, tôi tớ ra đồng hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm ra cho Sọ Dừa. Hai cô chị kiêu kỳ, hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô út vốn tính thương người đối xử với anh tử tế.
Một lần khi mang cơm ra cho Sọ Dừa, nghe có tiếng sáo véo von, rón rén lại gần, cô út thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng khi đứng dậy thì lại chỉ còn Sọ Dừa nằm lăn long lốc ở đó. Nhiều lần như vậy, biết Sọ Dừa không phải người thường, cô đem lòng yêu mến. Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ, bà lão thấy vậy tỏ ra vô cùng sửng sốt, nhưng con năn nỉ mãi, bà cũng bằng lòng.
Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:
- Muốn cưới được con gái ta thì phải sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà lão về nhà, nghĩ chắc cũng thôi nghỉ hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày hẹn, trong nhà có đủ sinh lễ, cả giai nhân chạy từ nhà dưới nhà trên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi, chỉ có cô út cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Ngày cưới, nhà Sọ Dừa cỗ bàn linh đình, tấp nập giai nhân, khi rước dâu, không thấy Sọ Dừa lăn long lốc đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng cạnh cô út. Hai cô chị thấy vậy vừa tiếc nuối vừa ghen tức. Từ ngày đó, vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc, Sọ Dừa còn tỏ ra thông minh, chăm chỉ đèn sách, quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Nhưng chằng bao lâu sau được vua sai đi sứ. Trước khi đi, Sọ Dừa có đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng, nói là để hộ thân. Hai cô chị độc ác muốn hại em để thay làm bà trạng. Nhân lúc quan trạng đi vắng, sang rủ cô em đi chèo thuyền rồi đẩy cô em xuống nước, cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lấy dao khoét bụng cá chui ra. Sống qua ngày bằng cách đánh cá lây lửa nướng để ăn, hai quả trứng nở thành một đôi gà, bầu bạn cùng cô út.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gay to:
- Ò ó o… phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng thấy thế bèn cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà nhưng không cho ai biết, quan trạng mở tiệc mừng với bà con ngày trở về. Hai cô chị thấy vậy mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra vẻ thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, hết tiệc mới dẫn vợ ra. Hai cô chị thấy em, xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ ra đi biệt xứ.
Truyện Sọ Dừa là một trong những truyện đặc sắc và ý nghĩa nhất trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, người ở hiền thì gặp lành, tốt bụng chân thành thì sẽ được đền đáp xứng đáng, và những kẻ ác sẽ không bao giờ có được kết cục tốt đẹp.
Kể lại truyện Sọ Dừa - Mẫu 10
Kho tàng truyện cổ tích có rất nhiều truyện đặc sắc. Một trong những câu chuyện hay, là truyện cổ tích Sọ Dừa.
Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân nghèo đi ở cho phú ông. Họ chăm chỉ, hiền lành mà ngoài năm mươi vẫn chưa có một mụn con. Một hôm, người vợ vào trong rừng hái củi. Trời nắng to, khát nước quá mà bà chẳng tìm thấy con suối nào. Bỗng nhìn thấy một cái sọ dừa đầy nước mưa bên gốc cây to, bà vội uống cho đỡ khát. Về nhà, bà có mang.
Chẳng bao lâu, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như quả dừa. Bà buồn quá, định vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo:
- Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.
Vì thương con, bà để con lại nuôi, đặt cho cái tên là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ Dừa vẫn như lúc nhỏ, lăn lông lốc trong nhà. Bà mẹ buồn phiền nói với con:
- Con nhà người ta báy tám tuổi đã đi ở chăn bò, còn mày chẳng được tích sự gì.
Sọ Dừa nói với mẹ:
- Chuyện gì chứ chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin phú ông cho con đi chăn bò.
Nghe con nói, bà đánh liều đến hỏi phú ông. Ban đầu, phú ông ngần ngại vì hình dạng của Sọ Dừa, nhưng nghĩ nuôi ít tốn cơm, công chăn bò cũng ít nên ông đồng ý.
Từ đó Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà, đàn bò béo tốt hẳn ra. Phú ông mừng lắm.
Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị độc ác, thường hắt hủi Sọ Dừa. Chỉ có cô út hiền lành, đối xử với Sọ Dừa rất tốt.
Một hôm, như thường lệ đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe có tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, có thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.
Cuối mùa ở, Sọ Dừa về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà lão sửng sốt lắm, nhưng thấy con năn nỉ mãi bà cũng chiều lòng.
Mẹ Sọ Dừa đến hỏi, phú ông cười mỉa mai:
- Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mang sang đây.
Bà lão ra về, nghĩ chắc con mình sẽ từ bỏ ý định. Nhưng Sọ Dừa lại bảo mẹ yên tâm, mình sẽ sắm đủ lễ vậy. Bà lão nửa tin nửa ngờ. Đến ngày hẹn, bà hết sức ngạc nhiên khi trong nhà bỗng có đủ những lễ vật mà phú ông yêu cầu. Không chỉ vậy, còn có chục giai nhân khiêng sính lễ sang nhà phú ông. Phú ông hoa cả mắt, nói với bà cụ:
- Để ta hỏi con gái, xem có đứa nào đồng ý lấy Sọ Dừa không đã?
Hai cô chị chê bai Sọ Dừa xấu xí, chỉ có cô út là cúi đầu tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành nhận lễ vật và gả cô gái út cho Sọ Dừa.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa xấu xí đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Hai vợ chồng sống hạnh phúc, Sọ Dừa còn rất thông minh, ngày đêm miệt mài đèn sách và thi đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, nhà vua truyền chiếu sai chàng đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ luôn các thứ ấy bên mình để có lúc cần dùng đến.
Ganh tị với em, hai cô chị nhân lúc Sọ Dừa vắng nhà, rắp tâm giết hại em để thay làm bà Trạng. Hai cô chị sang nhà chơi, rủ cô em chèo thuyền ra biển rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình to nuốt cô út vào bụng. May có con dao bên mình, cô đâm chết cá, xác cá trôi dạt vào bờ một hòn đảo, cô lại lấy dao xẻ bụng cá chui ra ngoài. Cô dùng bàn đá bật lửa, nướng cá sống qua ngày, chờ thuyền đi ngang qua đến cứu. Sống trên đảo ít ngày, hai quả trứng cũng nở thành đôi gà đẹp làm bạn với cô.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy vang ba lần:
- Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Về nhà, quan trạng mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em út rủi ro, tỏ vẻ thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Truyện Sọ Dừa đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một chàng Sọ Dừa thông minh, tốt bụng. Qua đó, truyện còn thể hiện tấm lòng nhân ái với những con người hiền lành, tốt bụng và niềm thương cảm với những con người bất hạnh. Đây chính là câu chuyện mà tôi yêu thích nhất.
Kể lại truyện Sọ Dừa - Mẫu 11
Ngày xửa ngày xưa, ở làng nọ, hai vợ chồng nông dân nghèo phải đi làm cho nhà phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ mà tuổi đã cao nhưng vẫn chưa có nổi một mụn con. Một ngày nọ, bà lão đi vào rừng hái củi. Trời nắng to, khát nước quá mà bà chẳng tìm thấy con suối nào. Bà nhìn thấy một cái sọ dừa đầy nước mưa bên gốc cây to, bà vội uống cho đỡ khát. Khi về nhà thì bà có mang.
Một thời gian sau, người chồng qua đời. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như quả dừa. Bà buồn quá, toan vứt đi thì nghe thấy tiếng nói:
- Mẹ ơi, con là con của mẹ đây. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Thương con, bà để con lại nuôi lớn. Bà đặt tên cho con là Sọ Dừa. Nhiều năm sau, Sọ Dừa đã lớn mà không biết làm gì. Bà lão buồn phiền bảo con:
- Con nhà người ta báy tám tuổi đã đi ở chăn bò, còn mày chẳng được tích sự gì.
Sọ Dừa nói với mẹ:
- Chuyện gì chứ chăn bò con cũng làm được. Mẹ xin phú ông cho con đi chăn bò.
Nghe con nói, bà đánh liều đến hỏi phú ông. Ban đầu, phú ông ngần ngại vì hình dạng của Sọ Dừa, nhưng nghĩ nuôi ít tốn cơm, công chăn bò cũng ít nên ông đồng ý.
Từ đó Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà, đàn bò béo tốt hẳn ra. Phú ông mừng lắm.
Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kiêu kì, độc ác nên đối xử với Sọ Dừa rất tệ bạc. Chỉ có cô út hiền lành, đối xử với Sọ Dừa rất tốt.
Một hôm, đến lượt cô Út mang cơm ra. Từ xa, cô bỗng nghe có tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nghe tiếng động lạ, chàng trai biến mất. Cô Út chỉ thấy Sọ Dừa ngồi đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, có thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.
Đến cuối mùa ở, Sọ Dừa về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà lão sửng sốt lắm. Nhưng thấy con năn nỉ, thương còn, bà lão đánh liều đến nhà phú ông.
Khi nghe bà nói, phú ông cười rồi nói:
- Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mang sang đây.
Bà lão buồn rầu ra về, nghĩ con biết thế sẽ từ bỏ ý định. Nhưng Sọ Dừa lại bảo mẹ yên tâm, mình sẽ sắm đủ lễ vậy. Bà lão nửa tin nửa ngờ. Đến ngày hẹn, bà hết sức ngạc nhiên khi trong nhà bỗng có đủ những lễ vật mà phú ông yêu cầu. Không chỉ vậy, còn có chục giai nhân khiêng sính lễ sang nhà phú ông. Phú ông hoa cả mắt, nói với bà cụ:
- Để ta hỏi con gái, xem có đứa nào đồng ý lấy Sọ Dừa không đã?
Hai cô chị nghe phú ông hỏi thì từ chối, chỉ có cô Út là đồng ý. Phú ông đành phải nhận lời.
Đến ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Đến khi rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa xấu xí đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người ngạc nhiên lắm, chỉ có hai cô chị là ghen tức ra mặt
Vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau hạnh phúc. Sọ Dừa còn rất thông minh, ngày đêm miệt mài đèn sách và thi đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, nhà vua truyền chiếu sai chàng đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ luôn các thứ ấy bên mình để có lúc cần dùng đến.
Nhân lúc quan trạng đi vắng, hai cô chị sang nhà chơi, rủ cô em chèo thuyền ra biển rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình to nuốt cô Út vào bụng. May có con dao bên mình, cô đâm chết cá, xác cá trôi dạt vào bờ một hòn đảo, cô lại lấy dao xẻ bụng cá chui ra ngoài. Cô dùng bàn đá bật lửa, nướng cá sống qua ngày, chờ thuyền đi ngang qua đến cứu. Sống trên đảo ít ngày, hai quả trứng cũng nở thành đôi gà đẹp làm bạn với cô.
Một hôm nọ có một chiếc thuyền đi ngang qua. Con gà trống bống kêu lên:
- Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Đến khi về nhà, Sọ Dừa cho mở tiệc mừng mời bà con trong làng. Hai cô chị khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em út rủi ro, tỏ vẻ thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị vì quá xấu hổ phải bỏ nhà đi.
Kể lại truyện Sọ Dừa - Mẫu 12
Ngày xửa ngày xưa, có hai vợ chồng nghèo đi ở cho nhà phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng ngoài năm mươi tuổi mà vẫn chưa có con.’
Một hôm, người vợ đi vào rừng hái củi, do trời nắng quá nhưng tìm mãi không thấy suối. Thấy cái sọ dừa bên cạnh gốc cây đựng đầy nước mưa, bà bưng lên uống, về nhà thì có mang. Chẳng bao lâu sau, người chồng mất. Còn bà sinh ra một đứa bé không tay không chân, tròn như một quả dừa. Bà buồn bã, toan vứt đi thì đứa con bảo:
- Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt đi mà tội nghiệp!
Nghĩ thương con, bà giữ lại nuôi. Đến khi lớn, Sọ Dừa xin mẹ cho đi chăn bò ở nhà phú ông. Cậu chăm bò rất giỏi, con nào con nấy đều no căng bụng. Phú ông lấy làm hài lòng lắm.
Đến vụ mùa, tôi tớ ra đồng làm việc cả. Phú ông sai ba cô con gái đem cơm ra đồng cho Sọ Dừa. Hai cô chị tỏ ra coi thường, chỉ có mình cô Út là đối đãi với Sọ Dừa tử tế. Một hôm, cô Út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe có tiếng sáo véo von. Cô lấy làm lạ, rón rén bước đến gần, rồi nấp sau bụi cây rình xem. Cô thấy một chàng trai khôi ngô đang ngồi thổi sáo. Có tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải là người trần, dần đem lòng yêu mến.
Cuối mùa ở, Sọ Dừa về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ thấy con nói vậy cũng sửng sốt, nhưng nghĩ thương con, bà mang buồng cau đến nói chuyện với phú ông. Phú ông cười mỉa:
- Được, muốn cười con gái ta thì phải chuẩn bị đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.
Bà mẹ về nói với con, cứ nghĩa con nghe vậy sẽ thôi việc lấy vợ. Nhưng Sọ Dừa dặn mẹ cứ yên tâm. Đúng ngày hẹn, bà mẹ vô cùng ngạc nhiên khi trong nhà có đầy đủ lễ vật mà phú ông yêu cầu. Đến lúc rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Sọ Dừa và vợ sống rất hạnh phúc. Nhờ học hành chăm chỉ, chàng đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Trước khi chia tay, Sọ Dừa đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải luôn mang trong người phòng khi cần dùng đến.
Từ ngày em gái lấy được chồng trạng nguyên, hai cô chị ghen ghét. Nhân cơ hội, họ bày mưu, rủ em gái chèo thuyền ra biển chơi, rồi đẩy em xuống nước. Cô út bị một con cá kình nuốt chửng vào bụng. Nhưng nhờ có con dao mà Sọ Dừa đưa cho, cô rạch bụng nó, con cá chết xác dạt vào hòn đảo.
Một hôm, có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gay to:
- Ò ó o… Phải thuyền quan trạng, rước cô tôi về.
Quan trạng cho thuyền vào xem. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Sọ Dừa đưa vợ về nhà nhưng không cho ai biết, rồi mở tiệc mừng với bà con ngày trở về. Hai cô chị thấy vậy mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra vẻ thương tiếc lắm. Đến khi hết tiệc, quan trạng mới đưa vợ ra. Hai cô chị vô cùng xấu hổ, bỏ đi biệt xứ.
Kể lại truyện Sọ Dừa - Mẫu 13
Ngày xửa ngày xưa, ở làng nọ, có hai vợ chồng nghèo đi ở cho nhà phú ông. Họ chăm chỉ, tốt bụng nhưng ngoài năm mươi rồi vẫn chưa có con.
Một lần nọ, người vợ vào rừng lấy củi cho nhà chủ, trời nắng mà khát nước quá, không tìm thấy suối. Bà nhìn thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, liền bưng lên uống. Về nhà thì có mang.
Ít lâu sau, người chống mất. Bà sinh ra một đứa bé không chân, không tay, cứ tròn như quả dừa. Bà toan vứt đi thì đứa bé bảo:
- Mẹ ơi, con là người. Mẹ đừng vứt đi mà tội nghiệp!
Thương con, bà để lại nuôi, đặt tên cho là Sọ Dừa.
Đến khi lớn lên, Sọ Dừa chẳng khác lúc nhỏ là bao, cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm được việc gì.
Một hôm, bà mẹ than phiền:
- Con người ta bảy, tám tuổi đã biết đi chăn bò. Còn mày thì chẳng làm được việc gì.
Nghe vậy, Sọ Dừa liền nói:
- Tưởng việc gì, chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin với phú ông cho con đi chăn bò.
Nghe con nói vậy, bà đến thưa chuyện. Phú ông tỏ ra ngần ngại lắm, chẳng biết Sọ Dừa có chăn nổi bò. Nhưng nghĩ đến việc nuôi cơm chẳng tốn là bao, nên phú ông liền đồng ý.
Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Con nào con nấy đều no căng béo tốt. Phú ông mừng lắm. Đến ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm việc. Ba cô con gái của phú ông phải thay phiên nhau mang cơm ra cho Sọ Dừa. Nhưng hai cô chị luôn tỏ ra cay nghiệt, chỉ có cô út là đối xử tử tế.
Một hôm, cô út mang cơm, đến chân đồi thì nghe thấy tiếng sáo. Cô thấy lạ, liền rón rén bước lại gần thì thấy một chàng trai khôi ngô đang ngồi trên chiếc võng đào mắc vào hai cành cây, thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Khi nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Cứ nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người trần, đem lòng yêu mến.
Hết mùa ở, Sọ Dừa xin mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ ngạc nhiên lắm, nhưng thấy con năn nỉ nên đành bằng lòng. Bà chuẩn bị sính lễ, rồi đến nhà phú ông thưa chuyện. Nghe xong, phú ông tỏ ra khinh bỉ.
- Muốn lấy con gái ta, phải về sắm cho đầy đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà mẹ buồn bã trở về nói với Sọ Dừa, cứ nghĩ con sẽ từ bỏ hẳn việc lấy vợ. Không ngờ, chàng lại bảo mẹ sẽ chuẩn bị đầy đủ các thứ đó. Đúng ngày hẹn, bà mẹ ngạc nhiên khi thấy trong nhà có bao nhiêu là sính lễ, không thiếu thứ gì. Lại còn cả chục giai nhân chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Thế là phú ông phải nói với bà:
- Để ta hỏi xem có đứa nào muốn lấy thằng Sọ Dừa không đã!
Lão gọi ba cô con gái ra, hai cô chị bĩu môi coi thường, còn cô út thì đồng ý. Vậy là phú ông đành phải gả con gái cho Sọ Dừa.
Ngày cưới diễn ra, nhà Sọ Dừa bày cỗ linh đình. Lúc rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa đâu cả. Bỗng một chàng trai khôi ngô tuấn tú cùng cô út của phú ông từ phòng cô dâu đi ra. Mọi người đều mừng rỡ, chỉ có hai cô chị là ghen tức lắm.
Vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau hạnh phúc. Ngày ngày, Sọ Dừa đều chăm chỉ đèn sách. Chẳng bao lâu, chàng đã đỗ trạng nguyên, được vua cử đi sứ. Trước khi chia tay, quan trạng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giắt luôn trong người phòng khi dùng đến.
Hai cô chị vốn đem lòng ghen ghét, nay thấy quan trạng đi vắng, liền bày mưu hãm hại em gái. Họ sang nhà, rủ em chèo thuyền ra biển, rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình nuốt cô em vào bụng. Nhưng sẵn có con dao, cô em đâm chết cá, xác cá nổi lềnh bềnh trên mặt biển, rồi dạt vào một hòn đảo. Cô khoét bụng cá để ra ngoài, lấy hai hòn đá cọ mạnh vào nhau, bật lửa lên, rồi xẻo thịt cá nướng ăn, sống qua ngày. Hai quả trứng nở thành đôi gà, làm bạn với cô.
Một hôm có chiếc thuyền ngang qua. Con gà trống nhìn thấy, gáy to ba lần:
- Ó… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Vợ chồng Sọ Dừa gặp nhau mừng lắm, trở về nhà cho mở tiệc linh đình. Nhưng quan trạng lại giấu vợ đi.
Hai cô chị không biết gì, mừng thầm vì sắp được thay cô em làm bà trạng. Họ thay nhau kể chuyện em gái gặp nạn, khóc lóc thương tiếc. Đến khi tiệc xong, quan trạng cho gọi vợ ra. Hai người chị xấu hổ trốn đi biệt tích.
Câu trả lời của bạn: 15:17 29/10/2022
Để giữ gìn và phát huy truyền thống quê hương em cần:
- Quét dọn khu di tích, nghĩa trang lệt sĩ ở địa phương…
- Tích cực học tập noi gương các thế hệ anh hùng đi trước…
NHỚ TẶNG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ 5 SAO CHOA MỀNH NHOA YÊU BOẠN NHIÈU
Câu trả lời của bạn: 15:08 29/10/2022
theo em thái độ và hành động của t là sai vì t làm vậy là vô lễ bất hiếu với cha mẹ nếu em là t em sẽ vâng lời mẹ đi giúp đỡ bố mẹ ( bạn nhớ cho mềnh điểm nếu thấy ok nha )
Câu trả lời của bạn: 15:04 29/10/2022
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 15:00 29/10/2022
2021x(x-2020)-x+2020=0
(2021x-1)(x-2020)=0
<=>2021x-1=0 hoặc x-2020=0
<=> x= hoặc x=2020
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 14:58 29/10/2022
Câu trả lời của bạn: 14:56 29/10/2022
trả lời xong rồi ạ