Giai Tuệ Châu
Sắt đoàn
75
15
Câu trả lời của bạn: 17:15 14/04/2023
Câu trả lời của bạn: 17:13 14/04/2023
Tại đền thờ Chu Văn An, sau khi làm lễ dâng hương thì tập thể thầy cô cùng học sinh nghe thuyết minh, giới thiệu về Thầy giáo Chu Văn An -“Vạn thế sư biểu” của người Việt.Sau đó trường thăm quan và thắp hương tại lăng mộ thầy Chu Văn An. Đền nằm giữa bốn bề bát ngát thông xanh và tiếng suối reo ở vùng núi Chí Linh (Hải Dương), đền thờ Chu Văn An, người thầy giáo được coi là “Vạn thế sư biểu” của Việt Nam, với chữ “Học” được đề cao, nơi đạo làm thầy và tinh thần hiếu học được tôn vinh...
Đến với khu du lịch Quảng Ninh Gate, các em học sinh được hòa mình vào một không gian vô cùng rộng rãi, thoáng mát, được thỏa sức trải nghiệm, sáng tạo với những trò chơi vô cùng thú vị, bổ ích để các em vừa được khám phá, được học tập và vui chơi: Tập làm ông đồ, trải nghiệm làm bánh trôi; chiếm lĩnh ngư trường, làm gốm, kéo co; tham quan mô hình nhà Đồng bằng Bắc Bộ, nhà sàn Trung du miền núi Bắc Bộ; thưởng thức múa rối nước;…
Có thể nói rằng, chuyến đi thú vị, bổ ích này đã giúp các em khám phá bản thân và thế giới xung quanh, phát triển đời sống tâm hồn phong phú, biết rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên và tình người, có quan niệm sống và ứng xử đúng đắn, đồng thời bồi dưỡng cho học sinh tình yêu đối với quê hương, đất nước, ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc để góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam trong một thế giới hội nhập.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 17:11 14/04/2023
Đọc nhiều sách, tài liệu. ...
Nói không với sách văn mẫu. ...
Tập trung nghe giảng và ghi nhớ nội dung của bài. ...
Tâm trạng thoải mái khi học bài. ...
Rèn luyện tinh thần tự giác học hỏi. ...
Bắt đầu học từ những điều đơn giản nhất. ...
Một số phương pháp khác.
Câu trả lời của bạn: 17:10 14/04/2023
"Trăm hay không bằng tay quen", người lao động xưa đã từng quan niệm rằng lí thuyết hay không bằng thực hành giỏi. Điều đó cho thấy người xưa đã đề cao vai trò của thực hành. Trong khi đó có những kẻ học thức chỉ biết chữ nghĩa thánh hiền, theo lối học từ chương sáo mòn cũ kĩ. Ngày nay với sự phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được hiểu khác hơn. Học và hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau. Điều đó cũng đã được Hồ Chủ tịch khẳng định: “Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”.
Lời dạy của Bác có ý nghĩa rất quan trọng đốì với việc học của chúng ta ngày nay.
Vậy học và hành có quan hệ như thế nào? Trước hết ta cần hiểu: Học là tiếp thu kiến thức đã được tích lũy trong sách vở, là nắm vững lí luận đã được đúc kết trong các bộ môn khoa học, đồng thời tiếp nhận những kinh nghiệm của cha anh đi trước. Học là trau đồi kiến thức, mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa sự hiểu biết của mình, không để tụt lùi, lạc hậu. Học là tìm hiểu, khám phá những tri thức của loài người nhầm chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ. Học thuộc khía cạnh của lí thuyết, lí luận. Còn hành nghĩa là làm, là thực hành, là ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho nên học và hành có mốì quan hộ rất chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của một quá trình thống nhất, nỏ không thể tách rời mà phải luôn gắn chặt với nhau làm một. Hiểu được mốì quan hệ đó là do Bác đã rút ra được kinh nghiệm trong việc học tập và vận dụng lí luận cách mạng.
Ta cần hiểu rõ “hành” vừa là mục đích vừa còn là phương pháp học tập. Một khi đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta không vận dụng vào thực tiễn, thì học chẳng để làm gì cả. “Học mà không hành thì vô ích”. Học mà không hành được là do học không thấu đáo hoặc thiếu môi trường hoạt động. Trong cuộc sống không thiếu những kẻ lúc đi học không chuyên chú nên lúc ra đời không làm gì được, bị mọi người khinh chê. Ngược lại nếu hành mà không có lí luận chỉ đạo, lí thuyết soi sáng và kinh nghiệm đã được đúc kết dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng túng hay gặp khó khăn trở ngại, thậm chí có khi sai lầm nữa. “Hành” mà như thế rõ ràng là “không trôi chảy”. Đã có không ít trường hợp vô tình trở thành người phá hoại chỉ vì người đó “hành” mà không “học”.
Xác định được tầm quan trọng của việc học cũng chưa đủ, ta cần phải hiểu học cái gì và học như thế nào? Học ở đây không chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà trường, không phải chỉ có kiến thức do thầy cô truyền thụ. Còn có rất nhiều điều hay mới lạ trong cuộc sống mà ta cần phải học tập, sự học rất mênh mông bao la, không có giới hạn, cho nên ta phải học tập không ngừng. Ở lứa tuổi nào cũng phải học, học ở nhà trường, gia đình, xã hội, học thầy, học bạn, học ở mọi nơi mọi chốn, “đi một ngày đàng học một sàng khôn”.
Hơn thế là học sinh ta cần phải có ý thức đúng đắn trong việc học, phải có thái độ học tập nghiêm túc, không học qua loa chiếu lệ, vừa học vừa chơi. Vào lớp phải chú ý nghe thầy cô giảng bài, ghi chép bài đầy đủ, về nhà phải vừa học bài cũ vừa nghiên cứu bài mới, làm bài tập đầy đủ, không học theo kiểu học vẹt, học lí thuyết suông mà phải luôn kết hợp lí thuyết với thực hành. Phải biết vận dụng sáng tạo những kiến thức thầy cô truyền thụ vào bài tập thực hành. Có như vậy hiệu quả học tập mới được nâng cao.
Câu trả lời của bạn: 17:08 14/04/2023
Vợ nhặt là một số các tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân được viết dựa trên những cốt truyện có thật. Câu chuyện Vợ nhặt của ông giống như một bức tranh phủ đầy bóng tối về số phận và tình cảnh éo le của những người dân nghèo trong nạn đói. Nhưng ở cuối bức tranh ấy, ta vẫn thấy lóe lên những tia sáng của lòng nhân ái, của hy vọng, của khát khao sống. Đặc biệt sự thay đổi trong tâm trạng của nhân vật Tràng sau khi lấy vợ đã cho người đọc thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Truyện ngắn “Vợ nhặt xoay quanh một sự kiện đặc biệt quan trọng liên quan đến nhân vật Tràng – người nông dân ngụ cư nghèo bỗng dưng có vợ giữa nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà là vợ theo không. Từ câu chuyện này, người đọc đã có những suy nghĩ về thái độ sống của con người trong nạn đói.
Tràng là một anh chàng kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh, cuộc sống cực khổ. Anh là một minh chứng điển hình của nạn đói khủng khiếp năm 1945. Những lớp người đang đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Trong thời buổi khốn khó ấy Tràng chả dám nghĩ tới việc sẽ cưới được vợ. Ấy vậy mà cái duyên nó “ vồ “ lấy cái số anh chàng lại “ nhặt “ được vợ. Nghe tưởng chừng vô lí bởi lẽ đời có ai lại nhặt được vợ bao giờ cơ chứ? Chắc hẳn người đàn bà mà Tràng lấy làm vợ ấy cũng đã ở cái ngưỡng đường cùng, bấu víu vào bất cứ thứ gì có thể bấu víu được . Tràng không nhận thức được hoàn cảnh của mình , anh ta chỉ chậc lưỡi theo đúng cách của người hay “ngưởng mặt lên trời cười hềnh hệch”. Anh ta chỉ cảm nhận được sự thay đổi, còn ý nghĩa của nó như thế nào thì anh ta chưa thể hiểu.
Cũng thức dậy như mọi ngày, nhưng sao hôm nay Tràng thấy lạ lắm. Buổi sáng đầu tiên khi có vợ. Tràng trơ thành một người hoàn toàn khác hăn, niềm vui sướng, hạnh phúc tràn ngập trong lòng hắn. Tràng ngạc nhiên trước cảnh tượng nhà cửa: nhìn vợ với mẹ đang quét dọn sân vườn. Một ý nghĩ hạnh phúc đang hiện hữu trong cuộc sống của mình. Lần đầu tiên Tràng được sống trong cảm giác rất người. Tràng cảm thấy trong người êm ái, lửng lơ như vừa đi ra trong giấc mơ. Hạnh phúc đã khiến Tràng trở nên khác lạ hẳn “ bây giờ hắn mới thấy hắn nên người “ ,” Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này “. Cái gốc của sự thay đổi ấy chính là gia đình, là niềm khát khao hạnh phúc về một mái ấm gia đình ngay cả khi Tràng đang đứng bên bờ vực của cái đói, sự chết chóc.
Song, chi tiết đắt giá nhất của im Lân không phải ở đó mà có lẽ là ở câu văn “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì đó để tu sửa lại căn nhà”. Hai chữ “xăm xăm” gợi lên bao nhiêu là niefm hớn hở, háo hức trong tâm hồn và cả trong bước chân của Tràng khi tìm đến hạnh phúc của đời mình. Hành động “xăm xăm” này là một sự thay đổi không chỉ ở dáng đi mà còn thay đổi cả tính cách ở Tràng, từ vô lo, vô nghĩ sang sống có trách nhiệm với gia đình mình. Đó là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt thay đổi cả số phận lẫn tình cảm của Tràng . Khiến Tràng trở nên trưởng thành, chín chắn hơn, có trách nhiệm với tổ ấm của chính mình. Đó là điều thật bình dị đối với mỗi con người nhưng đối với Tràng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời.
Bữa cơm cưới đầu tiên trông thật thảm hại, chỉ có một cái mẹt rách, một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối và nồi cháo loãng, mỗi người chỉ được hai lưng. Và khi miếng cháo cám đưa lên miệng đắng chát, nghẹn bứ trong cổ họng cùng với âm thanh tiếng trống thúc thuế dồn dập tức là lúc cuộc sống bị dồn đẩy đến miệng vực của cái đói, cái chết. Trước lời giải thích của vợ với mẹ: “trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy", Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi rồi vỡ lẽ khi nhớ lại hình ảnh đám người đói đi trên con đê hóa ra là Việt Minh. Cùng lúc đó trong óc Tràng hiện lên hình ảnh “lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới”. Sự có mặt của chi tiết nghệ thuật này khiến cho câu chuyện có một cái kết mở, nhờ thế thiên truyện đóng lại nhưng số phận của các nhân vật vẫn tiếp tục được vận động theo hướng lạc quan đi lên chứ không bế tắc như anh Pha, chị Dậu, Chí Phèo,…
Trước những tình cảnh éo le, cảm động ấy thì “Vợ nhặt” như một khúc nhạc đầy bi thương và xót xa trước những gì lẽ ra là cao quý lắm đối với con người. Từ tình huống truyện ấy mà tác phẩm này cùng một lúc thể hiện được những giá trị đặc sắc. Qua tác phẩm, Kim Lân đã gửi gắm những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Nghệ thuật đặt nhân vật trong tình huống độc đáo, éo le, cảm động cùng với phẩm chất, tính cách của nhân vật được thể hiện qua lời ăn, tiếng nói hàng ngày.
Qua truyện ngắn “Vợ nhặt” ta thấy được cách xây dựng hình tượng nhân vật của nhà văn Kim Lân hết sức đặc biệt, mỗi nhân vật đều bộc lộ được những tính cách, phẩm chất khác nhau đại diện cho lớp người trong xã hội cũ và Tràng là một trong những nhân vật đó. Tác phẩm đã thành công khi miêu tả diễn biến tâm trạng cũng như lời nói, tính cách của Tràng để “Vợ nhặt” mang một tầm cao mới và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc đến sau này.
Câu trả lời của bạn: 17:06 14/04/2023
Đến cuối thế kỷ 20, Đoàn Giỏi đã là một cái tên quen thuộc trong giới văn học với tư cách là một tài năng văn chương lỗi lạc của Nam Bộ. Không chỉ được đánh giá cao về tài năng nghệ thuật uyên bác mà ông còn được biết đến với tư cách là một nhà văn hóa Nam Bộ. Nhắc đến tên Đoàn Giỏi, người ta thường nghĩ ngay đến tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam”. Tác phẩm hội tụ sự trưởng thành về tư tưởng, tình cảm và tài năng nghệ thuật của Đoàn Giỏi, đồng thời cũng là thành tựu đáng mong đợi trong sự nghiệp văn chương của nhà văn. Đoạn trích “Đất rừng phương Nam” thuộc Hồi 9 của tiểu thuyết cũng thể hiện rõ những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật.
Tiểu thuyết là thể loại tự sự có dung lượng lớn, thông qua các tình huống, sự kiện và nhân vật để phản ánh hình ảnh xã hội rộng lớn và mang những đặc điểm riêng biệt. Tiểu thuyết thể hiện con người và cuộc sống bằng cái nhìn đậm chất văn xuôi, tạo sự gần gũi, chân thực và khách quan. Thể loại này cũng nhìn cuộc sống từ điểm nhìn riêng tư, phác họa những hình ảnh sinh động về số phận con người trong cuộc đời. Nhân vật trong tiểu thuyết cũng là những con người mưu sinh, thường gặp nhiều trắc trở, thăng trầm, cuộc đời đổi thay,… Nam Bộ là vùng đất trẻ so với các vùng lãnh thổ khác trong cả nước nhưng chữ viết trên vùng đất này rất nổi tiếng trong phong trào văn học đầu tiên của miền Nam. Một trong số đó là “Đất rừng phương Nam” - tác phẩm được nhiều độc giả biết đến và đón nhận, được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài và thậm chí được chuyển thể thành phim. Tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” là một tác phẩm đặc sắc viết về mảnh đất và con người miệt vườn Nam Bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Đoạn trích “Đất rừng phương Nam” kể lại hành trình An theo mẹ nuôi và cò đi “ăn ong” - lấy mật. Không gian được miêu tả là rừng tràm U Minh, vào một buổi sáng yên bình, trong trẻo và mát mẻ. Buổi trưa nơi đây tràn ngập nắng vàng, ngây ngất hương hoa tràm, tiếng chim hót ríu rít và hàng ngàn chú chim bay lượn,... Đó là vẻ đẹp thơ mộng, hoang sơ của núi rừng U Minh, đồng thời đời sống đa dạng, phong phú của các loài sinh vật thời Lê thu hút người đọc.
Các nhân vật trong đoạn trích cũng hiện lên sinh động. Dì nuôi của An - một người đàn ông với vẻ đẹp rắn rỏi, bất biến của một người lao động từng trải, giản dị và dũng cảm. Từng lời nói, cử chỉ của bà đều thể hiện sự quan tâm, yêu thương chân thành dành cho đứa con nuôi của mình. Anh cất xà nhà cho đàn ong rừng làm tổ rất tốt, bảo vệ và nâng niu đàn ong, vô cùng hưởng thụ cuộc sống. Đó là vẻ đẹp của người lao động dày dạn kinh nghiệm, yêu thiên nhiên; một người cha mạnh mẽ, tốt bụng và yêu thương. Cò - chàng trai hiện thân của núi rừng. Cuộc sống nơi núi rừng từ thuở nhỏ đã giúp ông có một cơ thể khỏe mạnh, tài trí sung mãn, linh hoạt, có sự hiểu biết sâu sắc và gắn bó với thiên nhiên. Đoạn trích để lại ấn tượng sâu sắc về con người của vùng đất rừng phương Nam vừa gần gũi, giản dị, vừa mạnh mẽ, phóng khoáng.
Về nghệ thuật, tác phẩm như một thước phim sống động về thiên nhiên vùng đất rừng phương Nam. Những từ ngữ giàu hình ảnh, âm thanh, cảnh vật vụt hiện trước mắt người đọc: “Chim hót ríu rít. Ngập tràn hương hoa tràm nắng, ngây ngất. Gió đưa hương thơm ngào ngạt, bay khắp rừng. Những con kỳ nhông nằm ngửa trên một thân cây mục, màu da lưng luôn biến đổi từ xanh sang vàng, từ vàng sang đỏ, từ đỏ sang tím rồi xanh…” Trong tác phẩm, “tôi” là nhân vật dẫn truyện, từ ngôn ngữ trần thuật đậm chất Nam Bộ. Tuy An là trai thành phố nhưng hành trình qua các tỉnh miền Tây Nam Bộ đã dạy cho An rất nhiều điều hay, An đã thực sự hòa nhập với những vùng đất, con người sông nước khác ngôn ngữ và hành động đậm chất Nam Bộ.
Ngoài việc khắc họa thiên nhiên sinh động, tràn đầy sức sống, Đoàn Giỏi đã khắc họa chân thực hình ảnh con người Nam Bộ với những nét tính cách nổi bật: yêu lao động, yêu thiên nhiên, nhân ái, trọng nghĩa tình. ,... Tác phẩm là hình ảnh đẹp về thiên nhiên và con người miền sông nước, đồng thời cũng thể hiện rõ nét nét nghệ thuật và ngòi bút tài hoa của nhà văn. Vì lý do này, cuốn tiểu thuyết được coi là một trong những cuốn sách thiếu nhi hay nhất ở nước ta, được đông đảo độc giả đón nhận và yêu thích.
Câu trả lời của bạn: 17:05 14/04/2023
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn chuyên viết về bút kí, một loại văn giàu tính chân thực của đời sống. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự keets hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy tổng hợp đa chiều đa diện. Sự nghiệp văn chương của ông để lại rất nhiều trong đó tập bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” 1986 là một tập văn tiêu biểu. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được lấy làm tựa đề cho tập bút kí nói trên là một tác phẩm đặc sắc của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phần đầu bài bút kí này tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp đa chiều đa diện của dòng sông Hương xứ Huế trong mối quan hệ với địa lí lịch sử thi ca. Tìm hiểu sâu sắc bài bút kí chúng ta sẽ thấy được sắc diện và tâm hồn của dòng sông Hương thơ mộng.
Bài viết mang tính bút kí nên nhà văn khi giới thiệu về dòng sông Hương tác giả bắt đầu từ phía thượng nguồn của dòng sông. Một nhận xét chung của tác giả về dòng sông Hương khi ở thượng nguồn “là một bản trường ca của rừng già”. Bản trường ca này thể hiện hai cung bậc mạnh mẽ hoang dại và dịu dàng say đắm.
Trước hết vì dòng sông sinh ra giữa rừng già giữa đại ngàn nên nó mang âm hưởng của vùng núi cao vực sâu, nó ‘rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn’. Tuy nhiên “cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài cói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Cũng có lúc nó “phóng khoáng và man dại như cuộc đời của cô gái Digan” ở vùng nước Nga xa xôi.
Ngoài những dáng vẻ nói trên, cái nhìn tổng thể của nhà văn là sông Hương ở phía thượng nguồn có “tâm hồn sâu thẳm”, “đã đóng kín ở cữ rừng và ném chìa khóa trong những hang đá’ như giữ nguyên điều bí ẩn của mình. Qua vài nét phác thảo của nhà văn sông Hương phía đại ngàn có sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng đầy cá tính bí ẩn.
Khác với sông Hương ở thượng nguồn, sông Hương khi về phía đồng bằng ở ngoại vi thành phố Huế đã có một hình dáng và một màu sắc mới. Cảm nhận vẻ đẹp sông hương ở ngoại vi thành phố Huế của tác giả là luôn uốn lượn xanh thẳm và trầm mặc.
Khi “ra khỏi vùng núi”, sông Hương “chuyển mình một cách liên tục” nó vòng khúc nó vặn mình, khi thì “theo hướng nam bắc”, khi “sang hướng tây bắc”, khi “về phía đông bắc”, rồi “xuôi dần về Huế”. Về với vùng thấp sông Hương “mềm như tấm lụa xanh thẳm”. Nhìn chung sông Hương khi về phía đồng bằng nó chạy qua những vùng đồi những rừng thông có lăng mộ của các vua chúa với giấc ngủ nghìn năm nên sông Hương có “vẻ đẹp trầm mặc nhất”.
Nếu như sông Hương ở phía thượng nguồn hoang dã man dại thì sông Hương khi về đồng bằng có vẻ đẹp uốn lượn trầm mặc. Đoạn sông Hương chảy qua thành phố Huế được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường tả một cách cụ thể và tinh tế hơn. Đoạn sông này vừa mang dáng dấp xanh thẳm dịu dàng của đoạn sông ở phía ngoại ô nhưng lại vừa có nét rất riêng của nó là mềm mại dịu dàng yên tĩnh.
Sông Hương “khi giáp mặt thành phố”, nó “vui tươi hẳn lên”. Nét nổi bật của dòng sông qua thành phố là “uốn một cánh cũng rất nhẹ” rồi “mềm hẳn đi” như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Khi đi qua thành phố sông Hương “trôi đi chậm thực chậm cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh”. Nếu như liên hệ với dòng sông Neva ở nước Nga xa xôi chảy qua thành phố với tốc độ rất nhanh “không kịp cho lũ hải âu nói điều gì với ban” thì sông Hương lại “chảy lặng lờ” như một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế” và khi bắt đầu ra khỏi Huế “con sông như ngập ngừng vấn vương” một nỗi lòng. Đúng như nhà thơ Thanh Hải viết:
“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Ở những phần trên của bài bút kí nhà văn đặt dòng sông Hương trong mối quan hệ với những đại ngàn với những lăng tẩm trầm mặc, với thành phố Huế mộng mơ để mà ca ngợi vẻ đẹp của nó. Thì đến đoạn cuối của đoạn trích này nhà văn đã đặt dòng sông trong mối quan hệ với lịch sử và thơ ca của dân tộc, để từ đó nói lên vẻ đẹp mang tính tầm vóc của dòng sông.
Theo tác giả sông Hương có quan hệ với lịch sử dân tộc từ rất lâu đời. Nó là “dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua hùng”, là “biên giới phía nam của tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, là “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” ở thế kỉ 18, nó gắn với “những cuộc khởi nghĩa bi tráng” của nhân dân ta thế kỉ 19, nó chứng kiến “những chiến công rung chuyển của thời đại cách mạng tháng tám”, nó “cổ vũ nồng nhiệt cho chiến công năm Mậu Thân”.
Không những gắn liền với lịch sử mà sông Hương còn là một dòng sông thi ca. Điều đặc biệt của sông Hương là bất cứ nghệ sĩ nào phản ánh về nó cũng không lặp lại nhau không trùng nhau về ý nghĩa sáng tạo. Đã rất nhiều thi nhân viết về sông Hương với những vẻ đẹp rất khác nhau. Với Tản Đà là “dòng sông trắng lá cây xanh”, với Cao Bá Quát là “như kiếm dựng trời xanh”, với bà huyện Thanh Quan là “bóng chiều bảng lảng”, với Tố Hữu là “dòng sông gắn liền với sức mạnh tâm hồn”.
Với một vốn kiến thức phong phú uyên bác về lịch sử văn hoá văn chương, với một văn phong tao nhã hào hoa tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dựng lên một chân dung về sông Hương với một vẻ đẹp rất đa chiều đa dạng.
Câu trả lời của bạn: 17:04 14/04/2023
“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về dòng sông trữ tĩnh, thơ mộng của Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tài tình khi lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của Huế này.
Có lẽ vì đặc trưng của thể loại bút kí nên lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất phóng khoáng, điêu luyện, nhẹ nhàng và mềm mại. Với một tấm lòng yêu Huế, yêu cảnh sắc thiên nhiên, yêu sông Hương nên Hoàng Phủ Ngọc tường đã khoác lên bài kí một màu sắc, âm hưởng riêng có của Huế.
Dòng sông Hương được tác giả ngợi ca “dòng sông duy nhất chảy qua thành phố Huế”, dòng sông vắt mình qua thành phố, chứng kiến bao nhiêu đổi thay của mảnh đất này.
Cái nhìn đầu tiên của tác giả khi viết về sông Hương là cái nhìn từ vùng thượng nguồn. Sông Hương ở vùng thượng nguồn mang vẻ đẹp thật khác lạ. Vẻ đẹp của dòng sông lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cô gái Di gan phóng khoáng, mê dại, đầy sức hút. Qua ngòi bút của tác giả, sông Hương hiện lên thật kì vĩ “sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già, khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ quyên rừng”. Chỉ với một vài chi tiết và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lột tả được vẻ đẹp lúc mãnh liệt, lúc dịu êm của sông Hương. Có lẽ đây chính là đặc trưng của sông hương khi ở thượng nguồn, hứng chịu nhiều biến đổi của thời tiết.
Thật độc đáo khi dưới con mắt của tác giả, sông hương tựa như “Cô gái di gan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng”. Có lẽ đây là phép nhân hóa đầy ẩn ý nhằm gợi lên nét đẹp hoang sơ nhưng hấp dẫn của con sông này. Như vậy có thể thấy được qua ngòi bút phóng khoáng của tác giả, sông Hương vùng thượng nguồn toát lên vẻ đẹp kì bí, hùng vĩ và đầy cá tính.
Tuy nhiên đây mới chỉ là ở thượng nguồn, cùng Hoàng Phủ Ngọc tường khám phá vẻ đẹp của dòng sông này khi chảy về thành phố Huế. Có lẽ người đọc sẽ bất ngờ với vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển của nó. Tác giả đã ví sông Hương như “người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô”. Không phải vô duyên vô cớ mà tác giả lại đi ví von so sánh đầy tính nghệ thuật như vậy.
Sông Hương khi chảy về thành phố có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng ta nhận ra một lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa của tác giả. Ông vẽ lên vẻ đẹp của sông hương không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” – một vẻ đẹp màu màu sắc của câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Và sông hương bỗng “chuyển dòng liên tục” “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “trôi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Một sự diễn tả quá trữ tình, quá độc đáo khiên ngưỡng đọc khó cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt vời này.
Sông hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sự chuyển đổi màu sắc theo mùa, theo thời gian như thế này đã làm nên một nét đặc trưng cho những ai muốn ngắm nhìn sông hương thật lâu.
Hoàng Phủ Ngọc Tường tả sông hương như vẽ, vẽ lên một bức tranh hoàn mĩ và tuyệt vời nhất về dòng sông huyền thoại này. Sông Hương tạo nên nét đẹp của đất cố đô Huế, ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa hàng nghìn năm lịch sử.
Thú vị nhất là đoạn sông hương chảy trong lòng Huế, tác giả cứ ngỡ rằng sông Hương tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu nên tươi vui hẳn lên.
Vẻ đẹp của dòng sông này được cảm nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông hương như điệu slow chậm rãi sâu lắng, trữ tình…Một vẻ đẹp khiến người khác phải ngỡ ngàng và đắm say chẳng thể dứt ra.
Sông hương còn là chứng nhân lịch sử, là “người” chứng kiến sự đổi thay của cố đô Huế từng ngày. Trong sách Dư địa chí “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc đại việt qua những thế kỉ trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành phú xuân của anh hùng nguyễn huệ…”
Có thể nói rằng để cảm nhận sông hương với nhiều góc độ, nhiều vẻ đẹp khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc tường phải có trái tim nhạy cảm, yêu và thương tha thiết dòng sông thơ mộng này. Một lối viết giản dị, nhẹ nhàng nhưng đầy lôi cuốn đã khiến độc giả không thể để dứt mạch cảm xúc. Tác giả đã phát huy được đặc trưng của thể loại bút kì đầy sắc bén và tình cảm này.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” thực sự là bài bút kí độc đáo. Sông hương hiện lên với tất cả vẻ đẹp mà nó mang.
Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng sông Hương qua Ai đã đặt tên cho dòng sông siêu hay
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn chuyên viết về bút kí, một loại văn giàu tính chân thực của đời sống. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự keets hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy tổng hợp đa chiều đa diện. Sự nghiệp văn chương của ông để lại rất nhiều trong đó tập bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” 1986 là một tập văn tiêu biểu. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được lấy làm tựa đề cho tập bút kí nói trên là một tác phẩm đặc sắc của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phần đầu bài bút kí này tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp đa chiều đa diện của dòng sông Hương xứ Huế trong mối quan hệ với địa lí lịch sử thi ca. Tìm hiểu sâu sắc bài bút kí chúng ta sẽ thấy được sắc diện và tâm hồn của dòng sông Hương thơ mộng.
Bài viết mang tính bút kí nên nhà văn khi giới thiệu về dòng sông Hương tác giả bắt đầu từ phía thượng nguồn của dòng sông. Một nhận xét chung của tác giả về dòng sông Hương khi ở thượng nguồn “là một bản trường ca của rừng già”. Bản trường ca này thể hiện hai cung bậc mạnh mẽ hoang dại và dịu dàng say đắm.
Trước hết vì dòng sông sinh ra giữa rừng già giữa đại ngàn nên nó mang âm hưởng của vùng núi cao vực sâu, nó ‘rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn’. Tuy nhiên “cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài cói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Cũng có lúc nó “phóng khoáng và man dại như cuộc đời của cô gái Digan” ở vùng nước Nga xa xôi.
Ngoài những dáng vẻ nói trên, cái nhìn tổng thể của nhà văn là sông Hương ở phía thượng nguồn có “tâm hồn sâu thẳm”, “đã đóng kín ở cữ rừng và ném chìa khóa trong những hang đá’ như giữ nguyên điều bí ẩn của mình. Qua vài nét phác thảo của nhà văn sông Hương phía đại ngàn có sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng đầy cá tính bí ẩn.
Khác với sông Hương ở thượng nguồn, sông Hương khi về phía đồng bằng ở ngoại vi thành phố Huế đã có một hình dáng và một màu sắc mới. Cảm nhận vẻ đẹp sông hương ở ngoại vi thành phố Huế của tác giả là luôn uốn lượn xanh thẳm và trầm mặc.
Khi “ra khỏi vùng núi”, sông Hương “chuyển mình một cách liên tục” nó vòng khúc nó vặn mình, khi thì “theo hướng nam bắc”, khi “sang hướng tây bắc”, khi “về phía đông bắc”, rồi “xuôi dần về Huế”. Về với vùng thấp sông Hương “mềm như tấm lụa xanh thẳm”. Nhìn chung sông Hương khi về phía đồng bằng nó chạy qua những vùng đồi những rừng thông có lăng mộ của các vua chúa với giấc ngủ nghìn năm nên sông Hương có “vẻ đẹp trầm mặc nhất”.
Nếu như sông Hương ở phía thượng nguồn hoang dã man dại thì sông Hương khi về đồng bằng có vẻ đẹp uốn lượn trầm mặc. Đoạn sông Hương chảy qua thành phố Huế được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường tả một cách cụ thể và tinh tế hơn. Đoạn sông này vừa mang dáng dấp xanh thẳm dịu dàng của đoạn sông ở phía ngoại ô nhưng lại vừa có nét rất riêng của nó là mềm mại dịu dàng yên tĩnh.
Sông Hương “khi giáp mặt thành phố”, nó “vui tươi hẳn lên”. Nét nổi bật của dòng sông qua thành phố là “uốn một cánh cũng rất nhẹ” rồi “mềm hẳn đi” như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Khi đi qua thành phố sông Hương “trôi đi chậm thực chậm cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh”. Nếu như liên hệ với dòng sông Neva ở nước Nga xa xôi chảy qua thành phố với tốc độ rất nhanh “không kịp cho lũ hải âu nói điều gì với ban” thì sông Hương lại “chảy lặng lờ” như một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế” và khi bắt đầu ra khỏi Huế “con sông như ngập ngừng vấn vương” một nỗi lòng. Đúng như nhà thơ Thanh Hải viết:
“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Ở những phần trên của bài bút kí nhà văn đặt dòng sông Hương trong mối quan hệ với những đại ngàn với những lăng tẩm trầm mặc, với thành phố Huế mộng mơ để mà ca ngợi vẻ đẹp của nó. Thì đến đoạn cuối của đoạn trích này nhà văn đã đặt dòng sông trong mối quan hệ với lịch sử và thơ ca của dân tộc, để từ đó nói lên vẻ đẹp mang tính tầm vóc của dòng sông.
Theo tác giả sông Hương có quan hệ với lịch sử dân tộc từ rất lâu đời. Nó là “dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua hùng”, là “biên giới phía nam của tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, là “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” ở thế kỉ 18, nó gắn với “những cuộc khởi nghĩa bi tráng” của nhân dân ta thế kỉ 19, nó chứng kiến “những chiến công rung chuyển của thời đại cách mạng tháng tám”, nó “cổ vũ nồng nhiệt cho chiến công năm Mậu Thân”.
Không những gắn liền với lịch sử mà sông Hương còn là một dòng sông thi ca. Điều đặc biệt của sông Hương là bất cứ nghệ sĩ nào phản ánh về nó cũng không lặp lại nhau không trùng nhau về ý nghĩa sáng tạo. Đã rất nhiều thi nhân viết về sông Hương với những vẻ đẹp rất khác nhau. Với Tản Đà là “dòng sông trắng lá cây xanh”, với Cao Bá Quát là “như kiếm dựng trời xanh”, với bà huyện Thanh Quan là “bóng chiều bảng lảng”, với Tố Hữu là “dòng sông gắn liền với sức mạnh tâm hồn”.
Với một vốn kiến thức phong phú uyên bác về lịch sử văn hoá văn chương, với một văn phong tao nhã hào hoa tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dựng lên một chân dung về sông Hương với một vẻ đẹp rất đa chiều đa dạng.
Câu trả lời của bạn: 00:03 31/03/2023
Tệ nạn xã hội
Câu trả lời của bạn: 00:02 31/03/2023
- Quyền của công dân Việt Nam được ghi nhận trong Hiến pháp cụ thể như:
+ Các quyền về chính trị của công dân: công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và công dân từ đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân; công dân có quyền tham gia vào việc quản lý nhà nước và xã hội, tham gia vào việc thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, của địa phương;….
+ Quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội của công dân: công dân có quyền được bảo đảm về an sinh xã hội; có quyền được làm việc, lựa chọn nghề nghiệp và nơi làm việc; công dân có quyền có nơi ở hợp pháp; công dân có quyền đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước;
+ Công dân có quyền tự do về ngôn luận, có quyền tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội; công dân nam và nữ đều bình đẳng về mọi mặt;…
- Nghĩa vụ của công dân:
+ Nghĩa vụ của công dân là việc nhà nước đòi hỏi công dân phải thực hiện những hành vi cần thiết khi nhà nước yêu cầu, nếu công dân không thực hiện thì nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp như giáo dục, thuyết phục thậm chí là áp dụng biện pháp cưỡng chế.
+ Công dân theo quy định thì công dân sẽ có các nghĩa vụ sau đây: công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc, có nghĩa vụ tham gia bảo vệ tổ quốc, có nghĩa vụ tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân; công dân có nghĩa vụ tuân theo hiến pháp và pháp luật; tham gia vào việc bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và chấp hành theo những quy tắc sinh hoạt công cộng,…
Câu trả lời của bạn: 00:00 31/03/2023
Những nguyên nhân khách quan và chủ quan khiến con người sa vào tệ nạn xã hội là:
Ham chơi , đua đòi .
Cha mẹ quá nuông chiều con
Cha mẹ buông lõng việc quản lý con .
Cha mẹ bất hòa, ly hôn, con cái chán nản
Tò mò, hiếu động, muốn thử cho biết .
Bị rũ rê, dụ dỗ .
Thiếu suy nghĩ, thiếu hiểu biết
Nguyên nhân chính đó là sự thiếu suy nghĩ và hiểu biết.
Câu trả lời của bạn: 00:00 31/03/2023
Câu trả lời của bạn: 23:56 30/03/2023
Cây phượng này có lẽ đã được trồng ở đây từ rất lâu bởi khi em vào học cây phượng đã ở đó rồi. Nó cao lớn và đứng sừng sững hiên ngang giữa đất trời. Cây phượng cao khoảng hơn 5m và có rất nhiều cành lá. Những tán lá xum xuê phủ râm cả một khu vực. Cái thân của nó xù xì và có những đốm nổi lên như hình con mắt. Chúng em vẫn thường chơi đùa bên dưới gốc cây phượng này.
Cây phượng có lá giống như lá me nhưng dài hơn lá me. Rễ của nó to và bò lồm cồm trên mặt đất. Nhìn chúng như những con rắn đang say ngủ vậy. Khi những cơn gió thổi qua, những lá phượng bắt đầu đung đưa theo gió tạo nên âm thanh rất vui tai.
Khi mùa hè đến, những chùm hoa phượng bắt đầu nở đỏ rực. Mỗi bông hoa phượng có 4 – 5 cánh. Màu đỏ của hoa phượng làm cho cả một vùng trời cũng mang màu đỏ rực. Cánh hoa phượng nếu ép vào trong trang vở sẽ cho hình giống như những con bướm.
Đối với em, hoa phượng chính là kỉ niệm đẹp của thời học sinh. Em sẽ luôn nhớ đến hình ảnh của cây phượng này dù sau này không còn học ở mái trường này nữa.
Câu trả lời của bạn: 17:25 14/12/2022
Văn hóa Trung Hoa đã ảnh hưởng ra bên ngoài chủ yếu trên những lĩnh vực nào?
→→ Tư tưởng, tôn giáo
* Giải thích :
- Tư tưởng : Nho giáo , do Khổng Tử sáng lập . Nho giáo phát triển rực rõ ở thời nhà Lê và đánh dấu cột mốc quan trọng cho văn học Việt lúc bấy giờ
- Tôn giáo : Đạo Phật đã du nhập sang Việt và trở thành tôn giáo chủ yếu của người Việt
Câu trả lời của bạn: 17:23 14/12/2022
Theo em, em phản đối ý kiến trên vì:
=> Tình bn đẹp cần trong sáng và lành mạnh, biết cùng nhau vượt khó.
=> Bao che, giúp đỡ nhau làm điều sai trái, khi biết bn mắc lỗi thường bỏ qua là hành vi thể hiện cá nhân chưa mẫu mực, gương mẫu.
=> Chọn sai bn mà chơi, lâu dần sẽ thành thói quen xấu, ảnh hưởng tới đời sống cá nhân, ngoài xã hội.
Câu trả lời của bạn: 17:22 14/12/2022
- Đặt câu ghép về rác thải nhựa:
+ Vứt rác chính là việc rất gây ảnh hưởng đến môi trường.
+ Đốt rác thải nhựa không khí sẽ bị ô nhiễm nặng nề.
- Đặt câu ghép về đồ uống có đường:
+ Sinh tố cam trông rất ngon.
+ Sữa chua nha đam ăn rất mát.
Câu trả lời của bạn: 17:22 14/12/2022
Câu trả lời của bạn: 17:21 14/12/2022
a) Miêu tả mái tóc.
(đen nhánh, đen mượt, đen mướt, đen huyền, hoa râm, muối tiêu, bạc phơ, mượt mà, mượt như tơ, óng ả, óng mượt, óng chuốt, lơ thơ, xơ xác, cứng như rễ tre, dày dặn, lưa thưa,...)
b) Miêu tả đôi mắt.
(một mí, hai mí, bồ câu, ti hí, đen láy, linh lợi, linh hoạt, sắc sảo, tinh anh, gian giảo, soi mói, long lanh, mờ đục, lờ đờ, lim dim, mơ màng,...)
c) Miêu tả khuôn mặt
(trái xoan, thanh tú, nhẹ nhõm, vuông vức, vuông chữ điền, đầy đặn, bầu bĩnh, phúc hậu, mặt choắt, mặt ngựa, mặt lưỡi cày,...)
d) Miêu tả làn da.
(trắng trẻo, trắng nõn nà, trắng hồng, trắng như trứng gà bóc, đen sì, ngăm đen, ngăm ngăm, bánh mật, đỏ như đồng hun, mịn màng, mát rượi, mịn như nhung, nhẵn nhụi, căng bóng, nhăn nheo, sần sùi, xù xì, thô ráp,...)
e) Miêu tả vóc người.
(vạm vỡ, mập mạp, to bè bè, lực lưỡng, cân đối, thanh mảnh, nho nhã, thanh tú, vóc dáng thư sinh, còm nhom, gầy đét, dong dỏng, tầm thước, cao lớn, thấp bé, lùn tịt,...)
f. Miêu tả hàm răng
(trắng bóng, đều đặn như những hạt bắp, răng khểnh duyên dáng, đen bóng, móm mém, ...)
g. Miêu tả đôi tay
(thon thả, chai sạn, thô kệch, tay búp măng, mũm mĩm, thô ráp, trắng nõn, móng tay dài, móng tay cắt gọn gàng,....)
h. Miêu tả cái miệng
(chúm chím, nhỏ nhắn, môi dày, môi mỏng, xinh xinh, mềm mại, hồng phớt, thâm xì, nứt nẻ, nứt toác, ....)
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 17:20 14/12/2022
Hoa hồng sáp là một trong những lựa chọn lý tưởng để người ta dành tặng cho nhau trong những dịp đặc biệt như sinh nhật, ngày 8/3 hay lễ tình nhân 14/2… Ngoài việc mua hoa hồng sáp bán sẵn, bạn cũng có thể tự mình làm ra những bông hoa sáp xinh xắn, dễ thương để dành tặng người mà mình yêu mến.
Hoa hồng sáp (còn được gọi là hoa hồng sáp thơm, bông hồng sáp…) chính là một loại hoa hồng giả, được làm từ chất liệu sáp có mùi thơm khá nồng nàn và lưu hương được lâu. Các cánh hoa thường khá mỏng, có màu sắc rất đa dạng bởi chúng được nhuộm màu nhân tạo.
Hoa hồng sáp thơm được du nhập vào thị trường Việt Nam từ năm 2015. Khi mới xuất hiện, loại hoa này thường có giá bán khá đắt đỏ bởi lúc đó nó chưa thật sự phổ biến, chưa được bày bán rộng rãi. Tuy nhiên, tới thời điểm hiện tại, giá hoa hồng sáp thơm đã khá ổn định và được bày bán tại rất nhiều nơi.
Chắc hẳn khi được nhận những đóa hoa hồng sáp do chính tay bạn làm thì người nhận hoa sẽ rất vui mừng và hạnh phúc. Cách làm hoa hồng sáp thơm để làm hoa hồng tặng sinh nhật, hoa hồng tặng ngày Valentine… cũng không quá khó. Nếu bạn muốn những bông hoa sáp thơm có được độ hoàn chỉnh nhất, đẹp mắt nhất thì nên lựa chọn đầu hoa được bán sẵn nhé.Dưới đây là các nguyên liệu cũng như các bước chi tiết để làm hoa hồng sáp thơm tại nhà. Mời các bạn cùng tham khảo:
Nguyên liệu làm hoa hồng sáp thơm:
Đầu hoa hồng sáp: Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại đầu hoa hồng sáp với số lượng cánh hoa đa dạng từ 3, 4 đến 5 cánh. Bạn có thể tùy chọn màu sắc, số cánh hoa theo sở thích. Giá bán của các đầu hoa sáp thơm này dao động từ 5 tới 7 nghìn đồng mỗi bông.
Băng keo, dây chun.
Cành kẽm để cắm hoa giả.
Giấy gói hoa: Bạn có thể chọn các loại giấy cao cấp của Hàn Quốc hoặc Nhật Bản để làm tăng độ sang trọng cho bó hoa sáp nhé.
Ruy băng.
Lá hoa hồng, một vài loại hoa đi kèm, cành hoa nhỏ để trang trí…
Chi tiết cách làm hoa hồng sáp thơm
Bước 1: Trước tiên, bạn cắm các đầu hoa hồng sáp vào các cành kẽm. Nếu muốn chắc chắn hơn, bạn có thể sử dụng súng bắn keo nhé. Số lượng bông hoa có thể tùy ý. Bạn có thể tham khảo bài viết dưới đây để biết nên chọn tặng bao nhiêu bông hoa cho phù hợp nhé.
Bước 2: Tiếp theo, bạn lấy 1 đến 3 bông hoa làm trung tâm rồi xếp các bông còn lại xen kẽ xung quanh. Sau đó, bạn dùng dây thun buộc lại. Nếu số lượng bông hoa sáp nhiều thì bạn có thể xếp thành nhiều tầng nhé.
Bước 3: Bạn dùng các cành hoa nhựa, lá hoa hồng giả đính nhẹ nhàng lên cuống bông hoa rồi dùng keo nến gắn lại cho chắc chắn. Tiếp đến, bạn có thể trang trí thêm bằng các cành hoa nhỏ li ti để bó hoa có thêm điểm nhấn.
Bước 4: Bạn đặt các cành hoa vừa xếp vào giấy gói hoa rồi nhẹ nhàng gói lại và dùng dây ruy băng bó lại cho cố định.
Bước 5: Nếu muốn bó hoa sáp thơm thêm sang trọng, bạn có thể đặt chúng vào những chiếc hộp quà tặng xinh xắn nhé.
Vậy là bạn đã hoàn thành xong bó hoa sáp thơm đẹp và ấn tượng để gửi tặng những người mà mình yêu quý rồi đấy.
Nếu bảo quản đúng cách thì bạn có thể lưu giữ hoa hồng sáp trung bình khoảng 6 tháng tới 1 năm, thậm chí có thể lên tới 3 năm. Dưới đây là những lưu ý khi bảo quản hoa hồng sáp mà bạn nên biết:
Tránh để hoa hồng sáp tiếp xúc với ánh nắng trực tiếp quá lâu, quá thường xuyên bởi nó sẽ nhanh phai màu hơn.
Tuyệt đối không nên để hoa hồng sáp tiếp xúc với nước bởi nó có thể bị tan, biến dạng…
Cách bảo quản hoa hồng sáp tốt nhất chính là để trong những khung/hộp kính kín, trong suốt.
Hi vọng rằng những chia sẻ trên đây của mik đã giúp bạn biết được cách làm hoa hồng sáp thế nào.
Câu trả lời của bạn: 12:36 03/12/2022
Những thành tựu văn hóa chủ yếu của Trung Quốc thời phong kiến:
* Về tư tưởng: Nho giáo, Phật giáo
* Lịch sử: Sử kí Tư Mã Thiên, Tư trị thông giám, v.v...
* Văn học:
- Có nhiều thể loại như: Thơ, tiểu thuyết,…
- Với nhiều tên tuổi, tác phẩm nổi tiếng như: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,... Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô Thừa Ân, Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần,…
* Các lĩnh vực Toán học, Thiên văn học, Y dược,… cũng đạt nhiều thành tựu:
- Cửu chương toán thuật nêu các phương pháp tính diện tích và khối lượng khác nhau.
- Phát minh ra nông lịch để làm nông nghiệp
- Có nhiều thầy thuốc giỏi. Nổi tiếng nhất là Hoa Đà (thời Hán).Sách có Bản thảo cương mục, Hoàng đế nội kinh, v.v...
* Về kĩ thuật: Tứ đại phát minh: giấy, kĩ thuật in, la bàn và thuốc súng.
* Về nghệ thuật, kiến trúc: Vạn lí trường thành, cung điện, tượng Phật sinh động,... còn được lưu giữ đến ngày nay.