Giai Tuệ Châu
Sắt đoàn
75
15
Câu trả lời của bạn: 12:35 03/12/2022
- Tích cực tham gia những lễ hội truyền thống, trò chơi dân gian. Đi thăm quan các di tích lịch sử, tưởng nhớ công ơn của cha ông.
- Phải lưu giữ mỗi truyền thống đó trong mỗi con người chúng ta: luôn đoàn kết, yêu thương nhau giữa anh em bạn bè. Luôn hiếu thảo với ông bà, nghe lời cha mẹ.
- Góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh giàng chủ quyền lãnh thổ: Tìm các văn bản pháp lý, về việc chủ quyền biển đảo của Việt Nam, luôn cảnh giác, tố cáo ngay những đơn vị có hành vi xấu, ảnh hưởng đến xã hội, đến nhà nước. Tự nguyên xung phong nhập ngũ, không trốn tránh trách nhiệm.
- Lên án, bài trừ những hành vi gây ảnh hưởng đến văn hóa dân tộc của học sinh: ăn mặc không đúng quy cách, ăn nói sử dụng từ mượn bừa bãi, tham gia vào các tệ nạn xã hội
Câu trả lời của bạn: 02:47 30/11/2022
Bước 1: t←0; i←1;
Bước 2: nếu i mod 2=0 thì t←t+i;
Bước 3: i←i+1;
Bước 4: Nếu i<=60 thì quay lại bước 2
Bước 5: Xuất t
Bước 6: Kết thúc
Câu trả lời của bạn: 02:47 30/11/2022
- Địa hình đồi núi chiếm phần lớn diện tích nhưng chủ yếu là đồi núi thấp
+ Đồi núi chiếm tới ¾ diện tích lãnh thổ, đồng bằng chỉ chiếm ¼ diện tích.
+ Tính trên phạm vi cả nước, địa hình đồng bằng và đồi núi thấp (dưới 1000m) chiếm tới 85% diện tích. Địa hình núi cao (trên 2000m) chỉ chiếm 1% diện tích cả nước.
- Cấu trúc địa hình nước ta khá đa dạng
+ Địa hình nước ta có cấu trúc được vận động Tân kiến tạo làm trẻ lại, tạo nên sự phân bậc rõ nét theo độ cao, thấp dân từ tây bắc xuống đông nam.
+ Địa hình nước ta đa dạng bao gồm: đồi núi : núi cao, núi trung bình, núi thấp, đồng bằng, bờ biển, thềm lục địa...
+ Cấu trúc địa hình gồm 2 hướng chính: tây bắc-đông nam và vòng cung.
- Địa hình nước ta mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa.
- Địa hình nước ta chịu tác động mạnh mẽ của con người.
Câu trả lời của bạn: 02:45 30/11/2022
– Vật nuôi trong nhà: gà
– Sinh vật sống tự do:chuồn chuồn
– Các loài thực vật được trồng bên đường:hoa hồng
Câu trả lời của bạn: 02:43 30/11/2022
a) C/m ΔAOM = ΔBOM ?
Xét ΔAOM và ΔBOM có:
AO = BO (gt)
ˆAOM = ˆMOB(tia Ot là tia phân giác ˆxOyxOy^)
OM cạnh chung
Do đó: ΔAOM = ΔBOM (c-g-c)
b) C/m AM = BM ?
Vì ΔAOM = ΔBOM (cmt)
=> AM = BM (hai cạnh tương ứng)
c) C/m AB ⊥ Ot ?
Xét ΔACO và ΔBCO có:
AO = BO (gt)
ˆAOC = ˆCOB (tia Ot là tia phân giác ˆxOyxOy^)
OC cạnh chung
Do đó: ΔACO = ΔBCO (c-g-c)
=> ˆACO = ˆBCO (hai góc tương ứng)
Mà ˆACO + ˆBCO = 180(kề bù)
Nên ˆACO= ˆBCO = 180/2 = 90
Do đó: AB ⊥ Ot
Cho mk điểm cao vs ạ
Câu trả lời của bạn: 02:40 30/11/2022
* Nhận xét tình hình tăng dân số nước ta:
- Dân số tăng nhanh và liên tục trong giai đoạn 1954 – 2003: từ 23,8 triệu người lên 80,9 triệu người (tăng gấp 3,5 lần).
- Tỉ lệ gia tăng tự nhiên: cả giai đoạn có xu hướng giảm nhưng còn nhiều biến động.
+ Giai đoạn 1954 – 1960: gia tăng tự nhiên tăng đột biến và cao nhất (từ 1,1% lên 3,9%).
+ Giai đoạn 1960 – 2003: gia tăng tự nhiên có xu hướng giảm từ 3,9% xuống 1,4%, nhờ kết quả của chính sách dân số.
* Gia tăng tự nhiên giảm nhưng dân số vẫn tăng nhanh do:
- Dân số đông, cơ cấu dân số trẻ nên số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cao.
- Tỉ lệ gia tăng tự nhiên mặc dù giảm nhưng vẫn ở mức cao (trên 1%).
Câu trả lời của bạn: 02:37 30/11/2022
Với 54 dân tộc anh em cùng sống dưới một mái nhà Việt Nam, nền văn hóa nói chung của Việt Nam rất đa dạng với nhiều màu sắc hấp dẫn. Trong nền văn hóa đó thì trang phục Việt Nam là một khía cạnh không thể không nói đến.
Mỗi dân tộc ở Việt Nam đều có một trang phục truyền thống riêng biệt tạo nên một bức tranh sống động với những nét chấm phá đặc trưng. Từ môi trường địa lý, tập tục truyền thống vùng miền, đến cách sinh hoạt cộng đồng đã tạo ra những trang phục khác nhau cho 54 dân tộc anh em Việt Nam.
Nếu các quốc gia trên thế giới chỉ có một vài bộ trang phục truyền thống thì ở nước ta với sự góp mặt của 54 dân tộc đã có đến 54 trang phục truyền thống vô cùng độc đáo.
Vốn được biết đến là một đất nước có bề dày lịch sử và nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, Việt Nam đặc biệt thu hút sự quan tâm của bạn bè quốc tế trong đó sự quan tâm về trang phục là một điều tất yếu. Bởi khi tìm hiểu về văn hóa mỗi quốc gia thì trang phục dân tộc không những cho biết về văn hóa của dân tộc đó mà trang phục còn là một cách nhận diện hình ảnh của từng quốc gia khác nhau trên thế giới.
Đối với bạn bè thế giới, hình ảnh chiếc áo dài tha thướt dịu dàng của Việt nam đã trở nên rất đỗi quen thuộc. Trong kỷ nguyên của hội nhập và phát triển, trang phục nói chung của người Việt đã bắt kịp xu hướng chung của thế giới nhưng điều đặc biệt là những trang phục truyền thống của dân tộc không hề mất đi giá trị vốn có mà ngược lại đang ngày càng thể hiện rõ vị thế của mình trong việc xây dựng thương hiệu, hình ảnh quốc gia.
Đứng ở góc độ văn hóa, trang phục là sự thể hiện tư tưởng đạo đức, lối sống, khả năng thẩm mỹ của từng con người. Đứng ở góc độ kinh tế, trang phục còn góp phần không nhỏ phát triển kinh tế. Xa xưa thì thông qua việc trồng dâu, nuôi tầm, dệt vải người dân không những có thể tự sản xuất trang phục cho mình mà qua đó còn có sản phẩm để trao đổi, giao thương buôn bán phát triển kinh tế. Ngày nay, ngành may mặc của Việt Nam là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của cả nước.
Trong số những trang phục truyền thống của Việt Nam, phổ biến nhất là Áo dài. Mặc dù chưa có tài liệu nào cho biết chính xác sự ra đời của áo dài nhưng dường như đây là y phục xa xưa nhất của người Việt theo những hình khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lũ cách đầy hàng nghìn năm. Theo sách Sử ký ghi chép thì người Văn Lang xưa đã mặc áo dài và kể từ đó cho đến nay, áo dài có những thay đổi theo từng thời kỳ, chiếc áo dài hiện nay xuất hiện từ thời Pháp thuộc. Khác với Kimono của Nhật bản hay Hanbok của Hàn Quốc chiếc áo dài Việt nam vừa mang nét truyền thống, vừa mang nét hiện đại, vừa kín đáo những lại vẫn rất gợi cảm. Với phần thân trên ôm sát, thân dưới dài và xẻ cao hai bên hông, lẽ trên thế giới cũng ít có bộ trang phục truyền thống nào lại tôn vinh vẻ đẹp tự nhiên của thân hình người phụ nữ như áo dài. Mặc dù chưa có quyết định chính thức, cũng chưa có một văn bản nào nói về việc áo dài là quốc phục của Việt Nam nhưng từ lâu trong suy nghĩ của người Việt chỉ cần nói đến trang phục truyền thống, người ta thường nghĩ ngay đến áo dài.
Trang phục truyền thông các dân tộc Việt nam có ảnh hưởng không nhỏ tới các mẫu thiết kế trang phục của làng trang Việt..Những mẫu thiết kế này đã và đang chinh phục được bạn bè quốc tế và giúp Việt Nam khẳng định vị trí của mình trong làng thời trang quốc tế.
Không chỉ xuất hiện và phổ biến trong nước, áo dài Việt Nam còn đi khám thế giới qua những chương trình thời trang, chương trình giao lưu văn hóa, qua các cuộc thi sắc đẹp…Trong các nghi lễ ngoại giao, những ngày trọng đại cũng như trong các lễ hội truyền thống, luôn luôn và không thể thiếu sự xuất hiện của áo dài.
Nói vậy không phải là những trang phục truyền thống khác của Việt Nam không đẹp mà chỉ bởi những trang phục của các dân tộc thiểu số, dân tộc miền núi không được phổ biến như trang phục của người Kinh, bởi người Kinh là dân tộc chiếm tới gần 86% dân số của cả nước. Các trang phục truyền thống của 53 dân tộc còn lại mỗi trang phục lại có một sự hình thành, một hoàn cảnh ra đời và lịch sử khác nhau.. trong đó có nhiều bộ trang phục dân tộc đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của các nhà thiết kế nổi tiếng ở Việt Nam.
Câu trả lời của bạn: 02:34 30/11/2022
- khẳng định trên thể hiện đức tính tôn trọng người khác. đó là phẩm chất đạo đức cần thiết cho mọi thời đại
- coi trọng người khác là sự đánh giá đúng mức, coi trọng danh dự, phẩm giá và lợi ích của người khác.
- người biết tôn trọng người khác sẽ được người khác tôn trọng lại. Mọi người biết tôn trọng lẫn nhau sẽ góp phần làm cho các mối quan hệ xã hội trong sáng, tốt đẹp và lành mạnh.
- nêu được những hành vi thiếu tôn trọng người khác trong cuộc sống hằng ngày cần phê phán
- tầm quan trọng của việc tôn trọng người khác ở mọi lúc, mọi nơi
- liên hệ trách nhiệm của học sinh
Câu trả lời của bạn: 02:33 30/11/2022
Câu trả lời của bạn: 02:31 30/11/2022
* Những câu thành ngữ
- Bán anh em xa mua láng giếng gần.
* Những câu tục ngữ :
- Trông mặt mà bắt hình dong.
- Lòng người như bể khôn dò.
- Chết giả mới biết bụng dạ anh em.
- Sáng tai họ, điếc tai cày.
* Những câu ca dao :
- Mình vì mọi người, mọi người vì mình
- Ở hiền thì lại gặp lành
Những người nhân đức trời dành phúc cho.
Câu trả lời của bạn: 02:30 30/11/2022
Phân tích nhân vật Chí Phèo - mẫu 15
Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nổi lên hình tượng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.
Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hắn anh ta phải có nỗi niềm khổ đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.
Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khó đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khó và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thứ cỏ dại trôi dạt hết góc này đến số nhọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hơn phải tha hương cầu thực ở xứ người.
Đen năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí tới gia đình lí Kiến. Đen cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỷ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thế quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình.
Ớ Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỷ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, "răng cạo trắng hớn", “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu biệt hắn với những người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thể ngay trong những hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hơn khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thế đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.
Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đời sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.
Sông, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chang khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thể khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tự’ ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ướt nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mắt và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giới người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn".
Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đời trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thế làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có đế nâng niu và thấy trân trọng nó hon.
Nhưng bi kịch đời Chí chưa dừng lại ở đó, Thị Nở đã từ’ chối “lời cầu hôn” của hắn bởi bà cô Thị không cho phép cháu bà lấy một thằng “chỉ có độc một cái nghề rạch mặt ăn vạ”. Ta không trách bà cô Thị Nở, đó cũng là cách nhìn của những người trong xã hội đối với Chí Phèo. Tất cả đã coi hắn là con quỷ dữ không ai còn tin hắn, hắn đã bị cả xã hội cự tuyệt. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vào bi kịch tuyệt vọng muốn làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn tìm đến rượu “hắn càng uống càng tỉnh” hắn cứ uống cho đến lúc say mềm lại vác dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời bằng tiếng chửi, còn đời trả lời hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi làng nước. Vậy là đã rõ, đời hắn đã đi vào hồi kết, kiếp hắn cũng chỉ là kiếp chó mà thôi. Mồm thì chửi cô cháu nhà Thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà bá Kiến. Đoạn văn được Nam Cao mô tả vô cùng tinh tế và hợp lý. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh lại vừa say, say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở, tỉnh đế đến nhà bá Kiến đi theo thói quen của tiềm thức sâu xa như một tất yếu. Đến nhà bá Kiến Chí Phèo không xin tiền mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng, lúc này hắn đã thấm thìa tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Hắn hét lên: “Ai cho tao lương thiện?”. Câu hỏi của Chí Phèo cũng là câu hỏi của thời đại. Chang ai trả lời hắn bởi đó là “Một câu hỏi lớn không lời đáp” đớn đau đến vô cùng. Câu hỏi làm người đọc như lên một niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người bất hạnh không biết đi đâu về đâu trong cái xã hội ngục tù tăm tối ấy. Tuyệt vọng, Chí lao vào đâm chết bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.
Để Chí Phèo chết Nam Cao đã thể hiện được nhiều ý tưởng sâu xa góp phần tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm. Chí Phèo chết đã trở thành một bản án tố cáo xã hội đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa đã tước bỏ quyền sống quyền làm người của những người dân lương thiện. Chí chết cũng có nghĩa là anh ấy không chịu quay lại con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống con vật chuyên làm kẻ ác. Anh ấy thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó là sự cảm thông và cũng là niềm tin của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người.
Khi miêu tả bi kịch trong số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích những nguyên nhân tạo nên một mạch của bi kịch ấy. Trong đó có nguyên nhân khách quan, xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đấy con người vào vòng sa ngã. Cũng có nguyên nhân chủ quan với bản thân những người nông dân cùng cảnh ngộ lại quay lưng vào nhau, phủ nhận nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô Thị Nở. Bị xua đuổi, đè nén, những người như Chí đến lúc này đã quay lại chống trả (dẫu sự chống trả vô cùng tiêu cực, nhưng họ còn biết làm gì hơn?) bằng con đường lưu manh. Hon nữa, Nam Cao còn nhắc đến Năm Thọ, Binh Chức với tư cách là những “vị tiền bối”, họ hàng gần xa với Chí Phèo. Kết thúc tác phẩm, Nam Cao để Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng và thấp thoáng hình ảnh “cái lò gạch cũ” hiện ra vắng người qua lại. Rất có thể một Chí Phèo con sẽ ra đời để nối nghiệp bố. Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao khắc hoạ thành công và khái quát thành quy luật bản chất của xã hội. Vậy muốn chấm dứt bi kịch của Chí Phèo cần phải tiêu diệt xã hội ấy đi. Đây chính là chiều sâu trong ngòi bút Nam Cao trong miêu tả hiện thực xã hội.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo đế lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và lòng cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người tàn tạ trước Cách mạng tháng Tám. Cùng với những chị Dậu, anh Pha, lão Hạc,… hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp đế đòi lại quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hơn, trân trọng hơn hạnh phúc mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này.
Câu trả lời của bạn: 20:24 28/03/2022
B. 12km/gio
Câu trả lời của bạn: 20:23 28/03/2022
Vì trong dạ dày của trâu, bò có hệ vi sinh vật cộng sinh. Còn lợn, gà không ăn được là vì thức ăn rơm, rạ, cỏ không phù hợp với sinh lí tiêu hoá của chúng.
Câu trả lời của bạn: 20:21 28/03/2022
Nghi luan