Trang Nguyễn
Kim cương đoàn
4,975
995
Câu trả lời của bạn: 23:31 31/01/2022
= (4/20 +3/20 )+(2/21+-10/21) +16/42+(6/15+-3/5)
= 7/20 - 8/21 + 8/21 + 2/5 - 3/5
= 7/20 - 1/5
= 7/20 - 4/20
= 3/20
Câu trả lời của bạn: 23:27 31/01/2022
Chiều cao của mảnh đất đó là:
60×1/5=12(m)
Diện tích của mảnh đất hình bình hành đó là:
12×60=720(m2)
đáp số: 720 m2
Câu trả lời của bạn: 23:26 31/01/2022
Nguyễn Trãi là một đại anh hùng của dân tộc là danh nhân văn hóa của thế giới cũng là một nhân vật toàn tài chịu nhiều oan khuất trong lịch sử xã hội Việt Nam. Ông cũng được coi là nhà văn chính luận kiệt xuất của dân tộc ta. Nguyễn Trãi là một tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học kể cả chữ Nôm và chữ Hán. Ông để lại một khối lượng tác phẩm có giá trị cao và quy mô lớn.
Trong số đó tác phẩm “Bình ngô đại cáo”là một tác phẩm kiệt xuất của ông. Bìa thơ là khúc tráng ca ca ngợi cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.
Mở đầu tác phẩm Nguyễn Trãi nêu lên một luận điểm về nguyên lí nhân nghĩa: “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”Tư tưởng về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trước hết chính là “yên dân”. Dùng nhân dân với cái nhân nghĩa để đi đánh giặc ngoại xâm đem lại bình yên ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Dùng quân nhân nghĩa để đánh quân xâm lược trước hết là để an dân để yên dân, Nhân nghĩa là tinh thần vì dân yên dân là chính nghĩa của nhân dân mang bản sắc dân tộc.
Nhân nghĩa ở đây chính là để cứu dân để trừ bạo. Như vậy có nghĩa là “Việc nhân nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng “Việc” cụ thể, là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tôi hiền”. Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Câu thơ tiếp theo làm tô đậm khẳng định thêm ý câu thơ trước đó: “quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Nguyễn Trãi đã coi việc an dân yên dân là mục tiêu của nhân nghĩa còn “trừ bạo là đối tượng phương tiện của nhân nghĩa.
Như vậy người nhân nghĩa phải lo trừ bạo tức là lo dẹp quân cướp nước. Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng chính là nhân nghĩa đối với nhân dân. Có thể nới tư tưởng ấy vừa cụ thể lại chỉ ra điểm cốt lõi điểm cơ bản nhất. Ta nhìn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì có lẽ tư tưởng nhân nghĩa ấy được đề cao hơn bao giờ hết:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy “đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”. Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong”.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của các thánh nhân trước đây và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được nhắc đến là lòng thương dân tin tưởng nhân dân biết ơn nhân dân. Dân chúng luân được ông nhắc đến trong chiến tranh và trong thời kì hòa bình đất nước độc lập.
Ông nhận thức rất rõ mọi sản phẩm mà mình đang dùng đều được lấy từ nhân dân. Nhân dân sản xuất ra mọi của cải vật chất , nhân dân làm ra lúc gạo quần áo làm ra cung điện nguy nga và nhân dân đã nuôi sống ông. Sống gần dân thương dân thương dân, lúc nào ông cũng chỉ nghĩ cho nhân dân trước tiên tất cả là vì nhân dân vài cuộc ống yên ổn của nhân dân dân.
Chính vì thế mà ta thấy ngay từ câu đầu tiên của bài cáo ông đã nhắc đến nhân dân. Bởi mọi hoạt động lớn nhất của quốc gia cũng chỉ nhằm một mục đích duy nhất đó là đem lại cuộc sống an nhàn cho nhân dân. Suốt cuộc đời ông sống gần dân nên ông đã thấy được những đức tính cao đẹp của nhân dân và hiểu được những mong muốn của nhân dân.Tư tưởng nhân nghĩa ấy như đã được nói ở trên đó còn là lòng bao dung với kẻ thù.
Tư tưởng ấy đã được Nguyễn Trãi thể hiện trong khởi nghĩa Lam Sơn và có thể nới chính tư tưởng ấy cùng với tài mưu lược quyết đoán của ông chính là nguyên nhân dẫn tới chiến thắng quân Minh của nhân dân ta. Ta kết hợp giữa sức mạnh của quân đội với những lí lẽ thu phục quân giặc làm hạn chế máu rơi và thiệt hại về quân sĩ. Đó chính là nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được thể hiện ở sự khoan dung khi kẻ thù đã bại trận.
Nó thể hiện đức hiếu sinh của dân tộc Việt Nam nói chung cũng chính là tấm lòng bao dung của Nguyễn Trãi trong khi đối phó với quân địch trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ta đánh địch bằng sức mạnh bằng ý chí sự căm thù quân giặc khi đã đem quân sang định cướp nước ta. Nhưng khi giặc đã bại trận ta cũng không nên trút sự căm giận đó thể tàn sát khiến cảnh máu chảy đầu rơi xảy ra. Ta chiến đấu cốt chỉ để lấy lại đất đai để toàn vẹn lãnh thổ đó chính là mục tiêu cuối cùng.
Vậy cho nên khi đã thắng trận ta cũng không tàn sát mà để cho bọn chúng một con đường lui để chúng được quay về đoàn tụ với gia đình người thân. Điều đó cũng sẽ khiến cho dân tộc ta được tôn trọng được coi trọng và biết ơn. Việc làm này cũng khiến cho quân Minh e dè mà không dám quay lại nước ta tấn công nữa.
Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, “mở nền thái bình muôn thuở” bằng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn Trãi và Lê Lợi, cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh.
Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Đó thật sự là tư tưởng lớn của một con người có tài “kinh bang tế thế” và là một tư tưởng có sức sống “vang đến muôn đời”.Ta cũng có thể nói thêm về tài chiến lược của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở chỗ cầu người hiền tài giúp nước giúp dân. Nguyễn Trãi đã quan niệm rằng người hiền tài càng nhiều thì xã tắc mới càng được hưng thịnh nhân dân mới được ấm no hạnh phúc mới có thể đánh đuổi quân giặc không dám quay lại chiến đánh trên đất nước ta thêm một lần nào nữa.
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng thì đây là tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân đạo, minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác, đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có những quan niệm tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và “Bốn phương biển cả thanh bình”.
Vì yêu thương dân mà trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép trong cuộc chiến tranh vệ quốc trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.Tư tưởng nhân nghĩa trong “bình ngô đại cáo không chỉ có ý nghĩa to lớn xét về mặt nhân nghĩa mà còn có tầm ảnh hưởng tới toàn thống chính trị của đất nước trong những thời đại sau này nữa. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn với dân tộc với đất nước Việt Nam cho đến tận bây giờ.
Câu trả lời của bạn: 23:25 31/01/2022
Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hóa, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm 1482, thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo Bình Ngô đại cáo.
Bình Ngô đại cáo khẳng định sức mạnh nhân nghĩa, nhân dân Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê tởm của quân “cuồng Minh”, ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở “bình Ngô”, tuyên bố đất nước Đại Việt bước vào kỉ nguyên mới độc lập, thái bình bền vững muôn thuở.
Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay và muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại cáo và những tác phẩm khác của Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người. Tư tưởng “nhân nghĩa’' trong thơ văn Nguyễn Trãi thâm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại cáo, ông viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Việc nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là giữ “yên dân”. Vì thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải “trừ bạo” là trừ những kẻ sách nhiễu dân.
Từ quan hệ ứng xử mang tính cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành lí tưởng xã hội, một nhiệm vụ cụ thể, nói theo Đinh Gia Khánh thì “tư tưởng này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước”. Chính vì “nhân nghĩa”, vì thương dân nên Nguyễn Trãi xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ nhân dân ta như đốt lửa thiêu sống, đào hố để chôn sống dân lành vô tội là những việc phi nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng ta phải trừng phạt. Như vậy có nghĩa là “việc nhân nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì đó trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng “việc” cụ thể là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các nguồn phản động chống triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tôi hiền”. Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không mơ hồ về sự nghiệp giải phóng dân tộc có thể dùng đường lối thỏa hiệp mềm yếu để chấm dứt can qua, hòa bình muôn thuở, mà phải có sức mạnh của quân sự và sức mạnh của “đại nghĩa”:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Lấy nghĩa để thắng hung, lấy nhân thay bạo. Ở đây trong sự đối đầu lịch sử của cuộc kháng Minh này, kẻ thù là hung tàn và cường bạo:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
Tội ác “trời không dung, đất không tha” ấy của giặc Minh:
“Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Nước Đông Hải không rửa sạch mùi”.
Tội ác ấy phải trừng phạt: “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Quân ở đây là nhân dân: tập hợp thành đội quân “đại nghĩa - chí nhân” để chống lại quân cường bạo giặc Minh. Vậy là, triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ “Cáo bình Ngô”, nó là ánh sáng kì diệu để Nguyễn Trãi nêu lên một quan điểm về quyền dân tộc, và do đó ông đã định nghĩa về đất nước khá rõ ràng, hoàn chỉnh, khoa học trong lời mở đầu bài cáo trang trọng, thật đĩnh đạc và tự hào.
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Trải qua bao biến động của lịch sử, Nguyễn Trãi lặp lại quyền vương để đầy tinh thần độc lập tự chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử, có phong tục và nền văn hiến, nghĩa là có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn biến nó thành quận huyện, thành chư hầu phải chi thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã".
Thế mà nay bọn giặc Minh “mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc tàn bạo, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn”. Nhân nghĩa mà lại thế Lí? Thế đứng của một dân tộc trong nhân nghĩa bằng mọi giá cho quân thù nếm cay đắng mà cha ông chúng ta phải trả giá cho sự tàn bạo “lỗi đạo”, ngạo mạn, xấc xược...
Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” đã làm nên chiến thắng.
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn”.
Những trang nhật kí chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mô mạnh mẽ, hào hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa kẻ thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông”.
Miêu tả cuộc tổng tiến công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam chưa bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến thắng ấy, chính là đội quân đã xác định “vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo”.
Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. “Chí nhân, đại nghĩa” là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo mà dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truyền thống của con người Việt Nam. Ở đây, Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy, gắn nó với nhân nghĩa là chủ nghĩa yêu nước.
Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc nên chúng ta đã đặt nhân nghĩa lên trên tất cả. Có gì quý hơn sinh mạng con người? “Người, ta là hoa của đất’’ do đó nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng, là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho “bốn phương biển cả thanh bình”... đối với quân giặc đã bị “cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”, chúng ta đã “chẳng giết hại” mà cho chúng “đường hiếu sinh”. Chúng ta có cái thế để “xử tội ác chiến tranh, có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều đó khi bọn giặc đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng”. Chúng ta tha tội cho chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được “an dân” không phải chỉ ngày một ngày hai mà mãi mãi dân ta được “nghỉ sức” trong thanh bình:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”.
Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ nhân dân ta tiêu diệt giặc, nhưng lại rất thông cảm với nhân dân và binh sĩ Trung Quốc bị tàn hại bởi chiến tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: chúng lại muốn cùng binh độc vũ, khiến nhân dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ lưu li phải nát gan ở nơi chốn đồng cỏ” (Bài 28 - Quân Trung từ mệnh tập).
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng là tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân đạo, chứng minh hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có tư tưởng tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và ước vọng “bốn phương biển cả thanh bình”. Vì yêu thương nhân dân trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép như thế, miêu tả những trang hào hùng của quân dân ta trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Bình Ngô đại cáo trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.
Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con cháu mang tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao kì tích, bao chiến thắng lẫy lừng, như trong chiến tranh chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những phi công Mỹ ngụy. Họ đã đem bom đạn đến giết hại nhân dân ta trên mọi miền đất nước, tàn phá đất nước ta, gây bao đau thương tang tóc cho nhân dân ta. Vậy mà khi bắt sống những kẻ ấy, ta vẫn đối xử nhân đạo và sau ngày toàn thắng 30 - 4 - 1975 trao trả lại cho Mỹ. Phải chăng đó là được nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
ấy chí nhân để thay cường bạo”.
Bình Ngô đại cáo vừa là một bản tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống giặc Minh vừa là lời tuyên ngôn độc lập, hòa bình. Đồng thời là áng “thiên cổ hùng văn" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt.
Câu trả lời của bạn: 23:21 31/01/2022
a, Gọi N = BH ∩ AC ⇒ BN ⊥ AC
⇒ ˆNCB=ˆIHB(cùng phụ với ˆNBC)
mà ˆNCB=ˆIEB (cùng chắn cung AB)
⇒ ˆIHB=ˆIEB
ΔIHB và ΔIEB có:
ˆIHB=ˆIEB; BI chung ; ˆHIB=ˆEIB = 90
⇒ ΔIHB = ΔIEB
⇒ ˆIBH=ˆIBE
⇒ BC là tia phân giác của góc HBE (đpcm)
b, ΔIHB = ΔIEB ⇒ IH = IE mà BC ⊥ HE
⇒ H và E đối xứng với nhau qua BC (đpcm)
Câu trả lời của bạn: 23:20 31/01/2022
đây nha
Câu trả lời của bạn: 23:19 31/01/2022
đg thẳng nào là pg góc AMB vậy
Câu trả lời của bạn: 23:17 31/01/2022
bài làm
Câu trả lời của bạn: 23:11 31/01/2022
gọi chiều dài qđ AB là x
tg ng đó đi hết qđ AB vs vận tốc 30km/h là x/30(giờ)
tg ng đó đi hết qđ AB vs vận tốc 40km/h là x/40(giờ)
đổi 40p=2/3 giờ
15p=1/4 giờ
theo đề bài ta có pt
x/30-2/3=x/40+1/4
x=110km
Câu trả lời của bạn: 23:09 31/01/2022
đây nha
Câu trả lời của bạn: 23:07 31/01/2022
Gọi tử số của phân số đó là x (đơn vị)
Điều kiện :x∈Z
phân số ban đầu là x/x+3
nếu tăng cả tử và mẫu thêm 1 đơn vị thì được phân số mới là x+1/x+4=1/2
suy x=2
Vậy tử số của phân số ban đầu là 2
Thay số:
x/x+3=2/2+3=2/5
Vậy phân số ban đầu là 2/5
Câu trả lời của bạn: 23:06 31/01/2022
làm tương tự bài này nha
Câu trả lời của bạn: 23:01 31/01/2022
hoa hồng hôn nhẹ lên mái tóc em
áo khoác đã kể cho em về câu chuyện của cuộc đời mình
chiếc kính lấy thân mình để bảo vệ cho đôi mắt của em
nắng thì thầm to nhỏ thật tinh nghịch
mặt trời như những quả bóng cam treo lơ lửng giữa ko trung
mưa to như trút nước
gà trống gáy ò ó o như báo hiệu 1 ngày mới đã đến
chiếc bút lấp lánh như những vì sao
Câu trả lời của bạn: 23:00 31/01/2022
Cơ sở dữ liệu quan hệ là CSDL được xây dựng trên mô hình dữ liệu quan hệ , có các đặc trưng sau: Mỗi quan hệ có một tên phân biệt với quan hệ khác. ... Mỗi thuộc tính có một tên phân biệt và không quan trọng thứ tự Quan hệ không có thuộc tính đa trị hay phức hợp.
Các đặc điểm của mô hình dữ liệu quan hệ:
Mỗi quan hệ có một tên phân biệt với tên các quan hệ khác.
Các bộ là phân biệt và thứ tự của các bộ là không quan trọng.
Mỗi thuộc tỉnh có một tên phân biệt, thứ tự của các thuộc tỉnh là không quan trọng.
Quan hệ không có thuộc tính đa trị hay phức hợp.
* Thuật nghữ mới:
Trong mô hình dữ liệu quan hệ ta dùng thuật nghữ miễn để chi kiểu dữ liệu của thuộc tỉnh.
Câu trả lời của bạn: 22:52 31/01/2022
diện tích bức tường có 1 cạnh là chiều dài hcn và 1 cạnh là chiều cao là
57 x 3 = 171 m2
diện tích bức tường có 1 cạnh là chiều rộng hcn và 1 cạnh là chiều cao là
34 x 3 = 102 m2
diện tích các bức tường là
2 x (171 + 102) = 546 m2
số tiền cần để xây bức tường đó là
546 x 34000 = 18564000 đồng
Câu trả lời của bạn: 22:45 31/01/2022
f, gọi đường thẳng qua hai điiểm C và D là y = ax + b
=> -2 = a . 0 + b và -4 = a + b
=> a = -2 và b = -2
Câu trả lời của bạn: 22:42 31/01/2022
có 3 từ ghép
học trò,dâng biếu,cuốn sách
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 22:39 31/01/2022
Người Việt nam vốn rất yêu thích hoa, trong các loài hoa thì hoa Đào và hoa Mai được nhiều người yêu thích trong dịp Tết đến xuân về. Hoa Mai và hoa Đào đã đi sâu vào đời sống tâm hồn của con người Việt Nam như một phần máu thịt.
Nếu như hoa Đào gắn bó với người miền Bắc thì hoa Mai lại gắn bó với người miền Nam. Mai có khắp mọi nơi từ Huế đến mũi Cà Mau. Hoa Mai thuộc dạng dễ tính dù đất cát khô cằn hay đất đồi sỏi đá Mai vẫn sinh trưởng bình thường.
Mai có hai loại là Mai tứ thời và Mai Tết. Mai tứ thời cho hoa suốt bốn mùa, cái tên tứ thời có lẽ vì lí do đó. Ngoài màu vàng đặc trưng thỉnh thoảng hoa Mai điểm thêm vài bông màu đỏ cũng khá dễ thương. Mai Tết cả năm cho hoa đúng vào dịp Tết, hoa nở rực rỡ cả cây, cũng vì thế mà nhiều người bắt đầu chơi Mai khi tết sắp về. Thông thường Mai được trồng trong chậu để dễ dàng di chuyển đến vị trí cần thiết, nhưng có nhiều gia đình trồng Mai trước cửa nhà và cho hoa quanh năm.
Để có Mai nở vào đúng dịp Tết người chăm sóc cần phải có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề để nghiên cứu và giúp Mai nở đúng dịp, lúc Mai nở xong chừng vài tháng, người chăm sóc bắt đầu phải bón thúc cho Mai, thứ phân bón hợp với Mai là khô dầu và phân bò khô, trước Tết độ ba bốn tháng phải bón thêm một lần như thế nữa để hoa nở to và thắm hơn.
Vào những ngày rằm tháng chạp (trước Tết nửa tháng), người chơi Mai đều trảy hết tất cả lá trên thân cây Mai và bấm hết đọt để giúp Mai rực rỡ hơn khi nở rộ, với những vùng có thời tiết lạnh thì phải trảy lá trước một tháng để cây nở hoa đúng dịp. Mai không nở một lúc mà từ từ, ngày đầu thì chỉ một vài nụ, ngày sau tăng gấp đôi, rộ nhất là ngày thứ ba, tư, năm sau đó ít dần nhưng cũng kéo dài mỗi đợt phải đến nửa tháng.
Đối với những cây Mai khỏe thì người chơi Mai cho cây nở đến hai đợt, sau đợt hoa đầu tiên cây nghỉ lấy sức và khoảng mười hôm sau đó Mai bắt đầu tiếp tục đợt thứ hai, đợt này không nhiều nụ và không thắm như đợt hoa đầu tiên nhưng cũng đủ cho lòng người say đắm. Sắc Mai đương nhiên là màu vàng rồi, người chuộng Mai cũng vì thứ màu thanh cao, quý phái ấy.
Thế nhưng chỉ một màu vàng ấy thôi cũng có rất nhiều loại khác nhau: vàng tươi, vàng nhạt, vàng gạch, vàng thắm, vàng óng… Hương của Mai rất dịu và thanh, chỉ có những người tinh tế mới tận hưởng hết hương hoa thanh khiết ấy. Vì thế mà Cao Bá Quát, một thi sĩ thời Nguyễn đã dọc ngang tung hoành dám đứng lên chống lại triều đình phong kiến, thế nhưng lại cúi đầu trước cây Mai (nhất sinh đê thủ bái mai hoa).
Những ngày Tết người ta thường chưng Mai trong nhà để lấy hên cho cả năm. Chỗ để Mai bao giờ cũng là nơi khang trang nhất của phòng khách, để mọi người có thể chiêm ngưỡng Mai một cách đẹp nhất. Những người nghiền chơi Mai thì dù có đắt đến đâu, ngày Tết bằng mọi giá phải có được cây Mai trong nhà mới thành Tết. Một số người còn cho rằng dựa vào cây Mai nở hoa trong ngày Tết, có thể dự đoán được sự may mắn của gia chủ trong năm đó.
Hoa Mai thường là năm cánh, thế nhưng bằng phương pháp kĩ thuật hiện đại người ta có thể cho hoa nở từ năm đến mười bảy, mười tám cánh. Ngoài hai màu vàng và đỏ người ta còn có thể lại ghép thành màu trắng, cùng một cây Mai nhưng có đủ ba màu. Nhưng người chơi Mai truyền thống vẫn đều thích màu vàng.
Ngày Tết cả nhà quây quần, đoàn tụ cùng nhau ăn mứt, bánh bên gốc cây Mai nở rộ thì có gì đẹp hơn, đầm ấm và hạnh phúc hơn.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 22:39 31/01/2022
Lâu lắm rồi mai chỉ có một loại mọc hoang dã nơi núi rừng với dáng vẻ hoang sơ hết sức tự nhiên và độc đáo. Dần dần cùng với sự thẩm định của thời gian cũng như đòi hỏi thưởng ngoạn và gửi gắm tâm linh của con người, mai được người đời phát hiện và trân trọng nâng niu như những người bạn thân thiết quý mến.
Mai có rất nhiều loại khác nhau: hồng mai, bạch mai, cúc mai, huyết mai… nhưng phổ biến nhất vẫn là mai vàng và bạch mai. Mai dễ trồng và mọc khắp nơi. Đặc biệt có một loài mai gọi là mai tứ quý, cành lá xum xuê, cành lá xanh biếc và nở hoa bốn mùa. Loại này cũng dễ trồng và phát triển khá nhanh.
Với dáng vẻ thật đơn sơ và mỏng mảnh, mai được người đời xếp trong những loại cây cảnh quý mà xưa nay ta vẫn thường thấy trong mảnh vườn bé nhỏ của mỗi gia đình. Người ta dễ trồng mai, chơi mai bất kể sang hèn, trí thức hay thường dân. Hơn 200 năm trước, đại thi hào Nguyễn Du đã ví mai như một người bạn: “Nghêu ngao vui thú yên hà/Mai là bạn cũ, hạc là người quen”. Không những tết, thậm chí ngày thường ta vẫn thấy đâu đó nhưng gia đình đưa mai vào trong chậu đặt trang trọng giữa nhà để hoa nở trong suốt mùa xuân.
Bác tôi là một người chơi cây cảnh đã gần 40 năm nay. Tết năm nào đến nhà, dù đói dù no, dù vui dù buồn cũng thấy bác tôi đặt trang trọng một chậu mai trắng đặt giữa nền nhà. Bác bảo nay là sở thích của ông tôi truyền lại. Ông yêu cái vẻ đẹp giản dị mà dịu dàng, ấm áp giữa ngày xuân của mai.
“Mai là bạn cũ”… Không những thế mai còn được người đời coi là biểu tượng của tính trung thực, lịch lãm, cao cả và thuần khiết cùng với tùng, cúc, trúc. Người đời thường nói, chỉ trong hoàn cảnh sống chết mới biết rõ đâu là bạn thực, đâu là bạn giả. Tùng – trúc – mai cũng vậy, dù sống trong hoàn cảnh nào, dù đạn bom mưa gió bão bùng vẫn ngời ngời một sức sống âm thầm, dai dẳng.
Trong khi đó ta thấy vạn vật xung quanh như vẫn đang chìm sâu trong giấc ngủ đông dài rét mướt, còn tùng, trúc, mai đã vội vàng dậy như chim én gọi xuân về. Một mùa xuân non tơ đầy ánh nắng. Mai rất dễ trồng nhưng cũng thật khó với những người không chuyên chơi mai. Mai sẽ chết nếu như bị úng nước hoặc quá rợp. Nếu đủ nắng mai sẽ nở đều, cánh mập hơn và dày hơn.
Đối với những người chuyên chơi mai, loại mai nở dày, đúng độ xuân về họ thường giữ lại trong vườn nhà chứ không chặt vào nhà, cần thì mua thêm. Sở dĩ như vậy là vì ở một số địa phương họ coi mai như một người con gái trong trắng tinh khiết của mùa xuân, biểu tượng của sự may mắn hạnh phúc trong gia đình và vì vậy không ai đang tâm chặt mà chỉ mua thêm về nhà mà thôi.
Trong lịch sử đã không hiếm những danh nhân say mai, trồng mai để ngắm và làm bạn suốt đời. Mai nhỏ nhoi mà tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt. Nó thật xứng đáng như một người con gái nết na, dịu hiền. Thời loạn lạc, mai còn đóng vai trò như một lời khuyên chân thành với người đời hãy sống hết mình, vị tha, thanh bạch không màng đến lợi danh.
Trong mắt bạn, trong mắt tôi, đông đang tàn cho một mùa xuân đâm chồi nẩy lộc. Xuân đang đến cùng với những nhành mai đang nở rộ vươn lên từ đất mẹ với tất cả những gì là trong trắng, hồn nhiên, duyên dáng… cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau…”