Quảng cáo
19 câu trả lời 1052
Vật lý là một môn khoa học nghiên cứu các quy luật của tự nhiên (physics phiên âm từ chữ cái Hy Lạp φύσις có nghĩa là "tự nhiên") [IMG] một hiện tượng phóng tia lửa điện trong không khí nằm trong.
Vật lý là một môn khoa học nghiên cứu các quy luật của tự nhiên (physics phiên âm từ chữ cái Hy Lạp φύσις có nghĩa là "tự nhiên") [IMG] một hiện tượng phóng tia lửa điện trong không khí nằm trong.
Vật lý học (tiếng Anh: physics, từ tiếng Hy Lạp cổ: φύσις có nghĩa là kiến thức về tự nhiên) là một môn khoa học tự nhiên tập trung vào sự nghiên cứu vật chất[1] và chuyển động của nó trong không gian và thời gian, cùng với những khái niệm liên quan như năng lượng và lực.[2] Vật lý học là một trong những bộ môn khoa học lâu đời nhất, với mục đích tìm hiểu sự vận động của vũ trụ.[3][4][5]
Vật lý là một trong những ngành hàn lâm sớm nhất, và có lẽ là sớm nhất khi tính chung với thiên văn học.[6] Trong hai thiên niên kỷ vừa qua, vật lý là một phần của triết học tự nhiên cùng với hóa học, vài nhánh cụ thể của toán học và sinh học, nhưng trong cuộc Cách mạng khoa học bắt đầu từ thế kỷ XVII, các môn khoa học tự nhiên nổi lên như các ngành nghiên cứu riêng độc lập với nhau.[7] Vật lý học giao nhau với nhiều lĩnh vực nghiên cứu liên môn ngành khác nhau, như vật lý sinh học và hóa học lượng tử, giới hạn của vật lý cũng không rõ ràng. Các phát hiện mới trong vật lý thường giải thích những cơ chế cơ bản của các môn khoa học khác đồng thời mở ra những hướng nghiên cứu mới trong các lĩnh vực như toán học hoặc triết học.
Vật lý học cũng có những đóng góp quan trọng qua sự tiến bộ các công nghệ mới đạt được do những phát kiến lý thuyết trong vật lý. Ví dụ, sự tiến bộ trong hiểu biết về điện từ học hoặc vật lý hạt nhân đã trực tiếp dẫn đến sự phát minh và phát triển những sản phẩm mới, thay đổi đáng kể bộ mặt xã hội ngày nay, như ti vi, máy vi tính, laser, internet, các thiết bị gia dụng, hay là vũ khí hạt nhân; những tiến bộ trong nhiệt động lực học dẫn tới sự phát triển cách mạng công nghiệp; và sự phát triển của ngành cơ học thúc đẩy sự phát triển phép tính vi tích phân.
Mục lục
1Lịch sử
2Triết học vật lý
3Những lý thuyết cốt lõi3.1Vật lý cổ điển
3.2Vật lý hiện đại
3.3Sự khác nhau giữa vật lý cổ điển và vật lý hiện đại
4Liên hệ với những lĩnh vực khác4.1Tiền đề
4.2Ứng dụng và ảnh hưởng
5Nghiên cứu5.1Phương pháp khoa học
5.2Lý thuyết và thực nghiệm
5.3Phạm vi và mục đích
5.4Lĩnh vực nghiên cứu5.4.1Vật chất ngưng tụ
5.4.2Vật lý nguyên tử, phân tử, và quang học
5.4.3Vật lý năng lượng cao (vật lý hạt) và vật lý hạt nhân
5.4.4Vật lý thiên văn
6Nghiên cứu hiện tại
7Xem thêm
8Tham khảo
9Nguồn tham khảo
10Liên kết ngoài
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Lịch sử vật lý học
Sir Isaac Newton (1643–1727)
Albert Einstein (1879–1955)
Max Planck (1858–1947)
Triết học tự nhiên được đề cập đến trong nhiều nền văn minh khác nhau. Trong giai đoạn 650 TCN – 480 TCN, khi các nhà triết học Hy Lạp trước Sokrates như Thales phản đối cách giải thích chủ quan duy ý chí cho các hiện tượng tự nhiên và ông cho rằng mọi sự kiện phải có nguyên nhân từ tự nhiên.[8] Họ đề xuất ra những ý tưởng nhằm lý giải các quan sát và hiện tượng, và nhiều giả thuyết của họ đã được chứng minh thành công bằng thí nghiệm,[9] ví dụ như Nguyên tử luận.
Vật lý cổ điển trở thành khoa học riêng khi người châu Âu cận đại sử dụng các phương pháp thực nghiệm và định lượng nhằm phát hiện ra các quy luật mà ngày nay gọi là các định luật vật lý.[10][11] Johannes Kepler, Galileo Galilei và Isaac Newton đã phát hiện và thống nhất nhiều định luật chuyển động khác nhau.[12] Trong thời gian di
Vật lí học là một môn khoa học tự nhiên tập trung vào sự nghiên cứu vật chất và chuyển động của nó trong không gian và thời gian, cùng với những khái niệm liên quan như năng lượng và lực. Vật lí học là một trong những bộ môn khoa học lâu đời nhất, với mục đích tìm hiểu sự vận động của vũ trụ.
Vật lý là một môn khoa học nghiên cứu các quy luật của tự nhiên (physics phiên âm từ chữ cái Hy Lạp φύσις có nghĩa là "tự nhiên")💯
Vật lý là một môn khoa học nghiên cứu các quy luật của tự nhiên (physics phiên âm từ chữ cái Hy Lạp φύσις có nghĩa là "tự nhiên") [IMG] một hiện tượng phóng tia lửa điện trong không khí nằm trong
Là 1 môn hok ai cx chán ghét
Vật lí học (tiếng Anh: physics, từ tiếng Hi Lạp cổ: φύσις có nghĩa là kiến thức về tự nhiên) là một môn khoa học tự nhiên tập trung vào sự nghiên cứu vật chất[1] và chuyển động của nó trong không gian và thời gian, cùng với những khái niệm liên quan như năng lượng và lực.[2] Vật lí học là một trong những bộ môn khoa học lâu đời nhất, với mục đích tìm hiểu sự vận động của vũ trụ.[3][4][5]
Vật lí là một trong những ngành hàn lâm sớm nhất, và có lẽ là sớm nhất khi tính chung với thiên văn học.[6] Trong hai thiên niên kỷ vừa qua, vật lí là một phần của triết học tự nhiên cùng với hóa học, vài nhánh cụ thể của toán học và sinh học, nhưng trong cuộc Cách mạng khoa học bắt đầu từ thế kỷ XVII, các môn khoa học tự nhiên nổi lên như các ngành nghiên cứu riêng độc lập với nhau.[7] Vật lí học giao nhau với nhiều lĩnh vực nghiên cứu liên môn ngành khác nhau, như vật lí sinh học và hóa học lượng tử, giới hạn của vật lí cũng không rõ ràng. Các phát hiện mới trong vật lí thường giải thích những cơ chế cơ bản của các môn khoa học khác đồng thời mở ra những hướng nghiên cứu mới trong các lĩnh vực như toán học hoặc triết học.
Vật lí học cũng có những đóng góp quan trọng qua sự tiến bộ các công nghệ mới đạt được do những phát kiến lí thuyết trong vật lí. Ví dụ, sự tiến bộ trong hiểu biết về điện từ học hoặc vật lí hạt nhân đã trực tiếp dẫn đến sự phát minh và phát triển những sản phẩm mới, thay đổi đáng kể bộ mặt xã hội ngày nay, như ti vi, máy vi tính, laser, internet, các thiết bị gia dụng, hay là vũ khí hạt nhân; những tiến bộ trong nhiệt động lực học dẫn tới sự phát triển cách mạng công nghiệp; và sự phát triển của ngành cơ học thúc đẩy sự phát triển phép tính vi tích phân.
vật lý là môn học giải nthisch các hiện tượng được cho là có tính chất gì đó, hay các hiện tượng tự nhiên
Vật lý là một môn khoa học nghiên cứu các quy luật của tự nhiên (physics phiên âm từ chữ cái Hy Lạp φύσις có nghĩa là "tự nhiên") [IMG] một hiện tượng phóng tia lửa điện trong không khí nằm trong.
Vật lý học là một môn khoa học tự nhiên tập trung vào sự nghiên cứu vật chất và chuyển động của nó trong không gian và thời gian, cùng với những khái niệm liên quan như năng lượng và lực. Vật lí học là một trong những bộ môn khoa học lâu đời nhất, với mục đích tìm hiểu sự vận động của vũ trụ.
Vật lý là một môn khoa học nghiên cứu các quy luật của tự nhiên (physics phiên âm từ chữ cái Hy Lạp φύσις có nghĩa là "tự nhiên")💯
Vật lí là một trong những ngành hàn lâm sớm nhất, và có lẽ là sớm nhất khi tính chung với thiên văn học.[6] Trong hai thiên niên kỷ vừa qua, vật lí là một phần của triết học tự nhiên cùng với hóa học, vài nhánh cụ thể của toán học và sinh học, nhưng trong cuộc Cách mạng khoa học bắt đầu từ thế kỷ XVII, các môn khoa học tự nhiên nổi lên như các ngành nghiên cứu riêng độc lập với nhau.[7] Vật lí học giao nhau với nhiều lĩnh vực nghiên cứu liên môn ngành khác nhau, như vật lí sinh học và hóa học lượng tử, giới hạn của vật lí cũng không rõ ràng. Các phát hiện mới trong vật lí thường giải thích những cơ chế cơ bản của các môn khoa học khác đồng thời mở ra những hướng nghiên cứu mới trong các lĩnh vực như toán học hoặc triết học.
Vật lí học cũng có những đóng góp quan trọng qua sự tiến bộ các công nghệ mới đạt được do những phát kiến lí thuyết trong vật lí. Ví dụ, sự tiến bộ trong hiểu biết về điện từ học hoặc vật lí hạt nhân đã trực tiếp dẫn đến sự phát minh và phát triển những sản phẩm mới, thay đổi đáng kể bộ mặt xã hội ngày nay, như ti vi, máy vi tính, laser, internet, các thiết bị gia dụng, hay là vũ khí hạt nhân; những tiến bộ trong nhiệt động lực học dẫn tới sự phát triển cách mạng công nghiệp; và sự phát triển của ngành cơ học thúc đẩy sự phát triển phép tính vi tích phân.
Mục lục
1Lịch sử
2Triết học vật lí
3Những lí thuyết cốt lõi3.1Vật lí cổ điển
3.2Vật lí hiện đại
3.3Sự khác nhau giữa vật lí cổ điển và vật lí hiện đại
4Liên hệ với những lĩnh vực khác4.1Tiền đề
4.2Ứng dụng và ảnh hưởng
5Nghiên cứu5.1Phương pháp khoa học
5.2lí thuyết và thực nghiệm
5.3Phạm vi và mục đích
5.4Lĩnh vực nghiên cứu5.4.1Vật chất ngưng tụ
5.4.2Vật lí nguyên tử, phân tử, và quang học
5.4.3Vật lí năng lượng cao (vật lí hạt) và vật lí hạt nhân
5.4.4Vật lí thiên văn
6Nghiên cứu hiện tại
7Xem thêm
8Tham khảo
9Nguồn tham khảo
10Liên kết ngoài
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Lịch sử vật lí học
Sir Isaac Newton (1643–1727)
Albert Einstein (1879–1955)
Max Planck (1858–1947)
Triết học tự nhiên được đề cập đến trong nhiều nền văn minh khác nhau. Trong giai đoạn 650 TCN – 480 TCN, khi các nhà triết học Hi Lạp trước Sokrates như Thales phản đối cách giải thích chủ quan duy ý chí cho các hiện tượng tự nhiên và ông cho rằng mọi sự kiện phải có nguyên nhân từ tự nhiên.[8] Họ đề xuất ra những ý tưởng nhằm lí giải các quan sát và hiện tượng, và nhiều giả thuyết của họ đã được chứng minh thành công bằng thí nghiệm,[9] ví dụ như Nguyên tử luận.
Vật lí cổ điển trở thành khoa học riêng khi người châu Âu cận đại sử dụng các phương pháp thực nghiệm và định lượng nhằm phát hiện ra các quy luật mà ngày nay gọi là các định luật vật lí.[10][11] Johannes Kepler, Galileo Galilei và Isaac Newton đã phát hiện và thống nhất nhiều định luật chuyển động khác nhau.[12] Trong thời gian di
Vật lý học (tiếng Anh: physics, từ tiếng Hi Lạp cổ: φύσις có nghĩa là kiến thức về tự nhiên) là một môn khoa học tự nhiên tập trung vào sự nghiên cứu vật chất[1] và chuyển động của nó trong không gian và thời gian, cùng với những khái niệm liên quan như năng lượng và lực.[2] Vật lí học là một trong những bộ môn khoa học lâu đời nhất, với mục đích tìm hiểu sự vận động của vũ trụ.[3][4][5]
Vật lí là một trong những ngành hàn lâm sớm nhất, và có lẽ là sớm nhất khi tính chung với thiên văn học.[6] Trong hai thiên niên kỷ vừa qua, vật lí là một phần của triết học tự nhiên cùng với hóa học, vài nhánh cụ thể của toán học và sinh học, nhưng trong cuộc Cách mạng khoa học bắt đầu từ thế kỷ XVII, các môn khoa học tự nhiên nổi lên như các ngành nghiên cứu riêng độc lập với nhau.[7] Vật lí học giao nhau với nhiều lĩnh vực nghiên cứu liên môn ngành khác nhau, như vật lí sinh học và hóa học lượng tử, giới hạn của vật lí cũng không rõ ràng. Các phát hiện mới trong vật lí thường giải thích những cơ chế cơ bản của các môn khoa học khác đồng thời mở ra những hướng nghiên cứu mới trong các lĩnh vực như toán học hoặc triết học.
Vật lí học cũng có những đóng góp quan trọng qua sự tiến bộ các công nghệ mới đạt được do những phát kiến lí thuyết trong vật lí. Ví dụ, sự tiến bộ trong hiểu biết về điện từ học hoặc vật lí hạt nhân đã trực tiếp dẫn đến sự phát minh và phát triển những sản phẩm mới, thay đổi đáng kể bộ mặt xã hội ngày nay, như ti vi, máy vi tính, laser, internet, các thiết bị gia dụng, hay là vũ khí hạt nhân; những tiến bộ trong nhiệt động lực học dẫn tới sự phát triển cách mạng công nghiệp; và sự phát triển của ngành cơ học thúc đẩy sự phát triển phép tính vi tích phân.
Vật lí là một trong những ngành hàn lâm sớm nhất, và có lẽ là sớm nhất khi tính chung với thiên văn học.[6] Trong hai thiên niên kỷ vừa qua, vật lí là một phần của triết học tự nhiên cùng với hóa học, vài nhánh cụ thể của toán học và sinh học, nhưng trong cuộc Cách mạng khoa học bắt đầu từ thế kỷ XVII, các môn khoa học tự nhiên nổi lên như các ngành nghiên cứu riêng độc lập với nhau.[7] Vật lí học giao nhau với nhiều lĩnh vực nghiên cứu liên môn ngành khác nhau, như vật lí sinh học và hóa học lượng tử, giới hạn của vật lí cũng không rõ ràng. Các phát hiện mới trong vật lí thường giải thích những cơ chế cơ bản của các môn khoa học khác đồng thời mở ra những hướng nghiên cứu mới trong các lĩnh vực như toán học hoặc triết học.
Vật lí học cũng có những đóng góp quan trọng qua sự tiến bộ các công nghệ mới đạt được do những phát kiến lí thuyết trong vật lí. Ví dụ, sự tiến bộ trong hiểu biết về điện từ học hoặc vật lí hạt nhân đã trực tiếp dẫn đến sự phát minh và phát triển những sản phẩm mới, thay đổi đáng kể bộ mặt xã hội ngày nay, như ti vi, máy vi tính, laser, internet, các thiết bị gia dụng, hay là vũ khí hạt nhân; những tiến bộ trong nhiệt động lực học dẫn tới sự phát triển cách mạng công nghiệp; và sự phát triển của ngành cơ học thúc đẩy sự phát triển phép tính vi tích phân.
Mục lục
1Lịch sử
2Triết học vật lí
3Những lí thuyết cốt lõi3.1Vật lí cổ điển
3.2Vật lí hiện đại
3.3Sự khác nhau giữa vật lí cổ điển và vật lí hiện đại
4Liên hệ với những lĩnh vực khác4.1Tiền đề
4.2Ứng dụng và ảnh hưởng
5Nghiên cứu5.1Phương pháp khoa học
5.2lí thuyết và thực nghiệm
5.3Phạm vi và mục đích
5.4Lĩnh vực nghiên cứu5.4.1Vật chất ngưng tụ
5.4.2Vật lí nguyên tử, phân tử, và quang học
5.4.3Vật lí năng lượng cao (vật lí hạt) và vật lí hạt nhân
5.4.4Vật lí thiên văn
6Nghiên cứu hiện tại
7Xem thêm
8Tham khảo
9Nguồn tham khảo
10Liên kết ngoài
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Lịch sử vật lí học
Sir Isaac Newton (1643–1727)
Albert Einstein (1879–1955)
Max Planck (1858–1947)
Triết học tự nhiên được đề cập đến trong nhiều nền văn minh khác nhau. Trong giai đoạn 650 TCN – 480 TCN, khi các nhà triết học Hi Lạp trước Sokrates như Thales phản đối cách giải thích chủ quan duy ý chí cho các hiện tượng tự nhiên và ông cho rằng mọi sự kiện phải có nguyên nhân từ tự nhiên.[8] Họ đề xuất ra những ý tưởng nhằm lí giải các quan sát và hiện tượng, và nhiều giả thuyết của họ đã được chứng minh thành công bằng thí nghiệm,[9] ví dụ như Nguyên tử luận.
Vật lí cổ điển trở thành khoa học riêng khi người châu Âu cận đại sử dụng các phương pháp thực nghiệm và định lượng nhằm phát hiện ra các quy luật mà ngày nay gọi là các định luật vật lí.[10][11] Johannes Kepler, Galileo Galilei và Isaac Newton đã phát hiện và thống nhất nhiều định luật chuyển động khác nhau.[12] Trong thời gian di
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
1 2597
-
3 1049