Quảng cáo
1 câu trả lời 359
Sau thất bại của cuộc xâm lược lần thứ nhất (năm 930, 931), vương triều Nam Hán chưa từ bỏ dã tâm thôn tính nước ta. Vì thế, sự cầu viện của tên phản quốc Kiều Công Tiễn là “thời cơ vàng” để chúng phát động chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Nhằm tránh lặp lại thất bại, vua Nam Hán đã chuẩn bị rất kỹ, với lực lượng hàng chục vạn quân lương thảo dồi dào và hàng trăm chiến thuyền cỡ lớn,… Theo ý đồ và kế hoạch đã vạch ra, địch chia quân làm hai đạo: đạo binh thứ nhất, gồm lực lượng chủ lực tinh nhuệ cùng nhiều chiến thuyền lớn do thái tử Lưu Hoằng Tháo cầm đầu, theo đường biển ồ ạt tiến vào nước ta; đạo binh thứ hai, do vua Nam Hán trực tiếp chỉ huy, áp sát biên giới để sẵn sàng ứng viện.
Mô hình Chiến thắng Bạch Đằng (năm 938)
Đoán trước được ý đồ “nội công, ngoại kích” của địch, Ngô Quyền đã tập hợp các tướng lĩnh, hào kiệt, kéo quân từ Ái Châu ra nhanh chóng diệt trừ tên phản quốc Kiều Công Tiễn và bè đảng của hắn - dập tắt mối họa bên trong, làm thất bại ngay từ đầu âm mưu dùng nội ứng của vương triều Nam Hán. Tiếp đó, chuẩn bị đất nước về mọi mặt để chống giặc. Trước thế giặc mạnh, Ngô Quyền một mặt kêu gọi, động viên nhân dân phát huy sức mạnh cố kết cộng đồng và khí thế độc lập của dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp để đối phó với chiến tranh xâm lược. Mặt khác, Ông chủ trương lợi dụng địa hình hiểm trở của núi rừng, sông nước vùng Đông Bắc bày một thế trận hiểm hóc và tập trung lực lượng mạnh để tiến hành trận chiến lớn, đánh bại quân địch ngay tại cửa sông Bạch Đằng. Theo kế sách này, quân ta đã bí mật bố trí các bãi cọc ngầm ở nơi hiểm yếu dưới lòng sông Bạch Đằng và triển khai các trận địa mai phục hai bên bờ, sẵn sàng đánh địch. Đúng như dự đoán của ta, khi bị kích động bởi bộ phận khiêu chiến, nhử địch, quân Nam Hán đã hùng hổ tiến vào sông Bạch Đằng hòng “ăn tươi, nuốt sống” quân ta và chúng đã mắc mưu - lọt vào trận địa mà ta đã bày sẵn. Khi nước thủy triều đang xuống, Ngô Quyền lệnh cho thủy quân từ các vị trí ở thượng lưu phản công kiên quyết, mãnh liệt đánh xuống chặn đầu, kết hợp với quân thủy, quân bộ mai phục hai bên bờ sông đánh vào bên sườn đội hình địch. Bị đòn đánh mạnh bất ngờ, quân địch không kịp trở tay, hoảng loạn tháo chạy hòng thoát ra biển, nhưng đâm vào trận địa cọc ngầm của quân ta. Trong thời gian ngắn, toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm, hầu hết quân địch bị tiêu diệt, trong đó có cả chủ soái Lưu Hoằng Tháo. Chiến thắng nhanh, gọn, triệt để của quân và dân Tĩnh Hải quân1 trên sông Bạch Đằng khiến vua Nam Hán không kịp ứng phó, tiếp viện mà chỉ có cách duy nhất là “thương khóc, thu nhặt tàn quân còn sót mà rút lui”2 và từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 có ý nghĩa lịch sử to lớn, là mốc son chói lọi chấm dứt hơn một nghìn năm Bắc thuộc; phá tan mưu đồ “đồng hóa” - một chính sách đặc trưng nổi bật của chủ nghĩa Đại Hán tộc; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên phát triển của quốc gia phong kiến độc lập, tự chủ, thời kỳ trưởng thành của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng đó đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý, nhất là nghệ thuật đánh bại quân xâm lược ngay từ cửa ngõ đất nước được thể hiện ở một số điểm sau:
Một là, quyết định “phương lược” đánh giặc sớm, đúng đắn, sáng tạo. Có thể thấy phương lược trong trận chiến Bạch Đằng là hết sức táo bạo nhưng đúng đắn, chính xác mà trước đó chưa hề có trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đắn về tương quan so sánh lực lượng, Ngô Quyền thấy rõ chỗ mạnh của địch: quân đông, vũ khí, trang bị mạnh, nhất là các thuyền chiến lớn. Nhưng quan trọng hơn, thấy rõ những điểm yếu chí tử của chúng; đó là: tướng giặc (Lưu Hoằng Tháo) còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trận mạc, kiêu ngạo, chủ quan, khinh địch, không có nội ứng lại cơ động từ xa đến, địa hình xa lạ, hiểm trở nên tinh thần mỏi mệt, cùng những ám ảnh bởi thất bại của lần xâm lược trước. Về phía ta, Ngô Quyền đã diệt trừ nội phản, ổn định nội bộ bên trong để rảnh tay chống giặc ngoại xâm; được nhân dân đồng tình ủng hộ, sự đồng lòng của các tướng lĩnh, hào kiệt quyết tâm đánh giặc giữ nước. Bởi thế, trong thời gian ngắn, lực lượng của ta đã có tới vài vạn người; trong đó, đạo quân Ái Châu do Ông trực tiếp tuyển mộ, huấn luyện làm nòng cốt. Tuy có nhiều thuận lợi, nhưng quân ta cũng gặp nhiều khó khăn, đó là: thời gian chuẩn bị ngắn, lực lượng kháng chiến chưa được huấn luyện kỹ, vũ khí, trang bị còn thô sơ so với địch. Song xét tổng quan, sức mạnh tổng hợp của ta mạnh hơn địch. Thứ nhất, yếu tố con người - toàn dân ủng hộ và tập hợp được các tướng lĩnh có tài thao lược. Thứ hai, khu vực ta lựa chọn đánh địch có địa hình thiên hiểm, thuận lợi cho ta bày thế trận để phát huy cao nhất sức mạnh của các lực lượng và trang bị, vũ khí (thuyền nhỏ, cung nỏ). Thứ ba, quân Nam Hán từ xa đến nên tinh thần uể oải, không thông thạo địa hình, thổ nhưỡng, thủy triều. Như vậy, quân ta hội tụ đủ ba nhân tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, lấy “sức nhàn thắng sức mỏi”. Do đó, khi bàn phương lược mưu, kế, thế trận chống giặc với các tướng sĩ, Ngô Quyền nói: “Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe được tin Công Ti
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK78501
-
Hỏi từ APP VIETJACK66833
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
39940 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
38836 -
32759
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
28227
