
khang
Sắt đoàn
15
3
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 19:09 30/09/2024
Để giải hệ phương trình:
1. 4x+2y=24x+2y=2 (1)
2. 8x−3y=58x−3y=5 (2)
### Bước 1: Biểu diễn yy từ phương trình (1)
Từ phương trình (1):
2y=2−4x2y=2−4x
y=1−2xy=1−2x
### Bước 2: Thay yy vào phương trình (2)
Thay giá trị của yy vào phương trình (2):
8x−3(1−2x)=58x−3(1−2x)=5
8x−3+6x=58x−3+6x=5
14x−3=514x−3=5
### Bước 3: Giải phương trình để tìm xx
Giải phương trình trên:
14x=5+314x=5+3
14x=814x=8
x=814=47x=814=47
### Bước 4: Thay giá trị xx vào phương trình (1) để tìm yy
Thay xx vào phương trình (1):
4(47)+2y=24(47)+2y=2
167+2y=2167+2y=2
2y=2−1672y=2−167
2y=147−167=−272y=147−167=−27
y=−17y=−17
### Kết luận
Giải hệ phương trình, ta có:
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 19:08 30/09/2024
Câu trả lời của bạn: 19:07 30/09/2024
Câu trả lời của bạn: 19:07 30/09/2024
Tiếng Việt thuộc ngôn ngữ đơn lập, vì mỗi một tiếng (âm tiết) được phát âm tách rời nhau và được thể hiện bằng một chữ viết. Đặc điểm này thể hiện rõ rệt ở tất cả các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.
1. Đặc điểm ngữ âm: Trong tiếng Việt có một loại đơn vị đặc biệt gọi là "tiếng". Về mặt ngữ âm, mỗi tiếng là một âm tiết. Hệ thống âm vị tiếng Việt phong phú và có tính cân đối, tạo ra tiềm năng của ngữ âm tiếng Việt trong việc thể hiện các đơn vị có nghĩa. Nhiều từ tượng hình, tượng thanh có giá trị gợi tả đặc sắc. Khi tạo câu, tạo lời, người Việt rất chú ý đến sự hài hoà về ngữ âm, đến nhạc điệu của câu văn.
2. Đặc điểm từ vựng: Mỗi tiếng, nói chung, là một yếu tố có nghĩa. Tiếng là đơn vị cơ sở của hệ thống các đơn vị có nghĩa của tiếng Việt. Từ tiếng, người ta tạo ra các đơn vị từ vựng khác để định danh sự vật, hiện tượng..., chủ yếu nhờ phương thức ghép và phương thức láy.
Việc tạo ra các đơn vị từ vựng ở phương thức ghép luôn chịu sự chi phối của quy luật kết hợp ngữ nghĩa, ví dụ: đất nước, máy bay, nhà lầu xe hơi, nhà tan cửa nát... Hiện nay, đây là phương thức chủ yếu để sản sinh ra các đơn vị từ vựng. Theo phương thức này, tiếng Việt triệt để sử dụng các yếu tố cấu tạo từ thuần Việt hay vay mượn từ các ngôn ngữ khác để tạo ra các từ, ngữ mới, ví dụ: tiếp thị, karaoke, thư điện tử (e-mail), thư thoại (voice mail), phiên bản (version), xa lộ thông tin, siêu liên kết văn bản, truy cập ngẫu nhiên, v.v.
Việc tạo ra các đơn vị từ vựng ở phương thức láy thì quy luật phối hợp ngữ âm chi phối chủ yếu việc tạo ra các đơn vị từ vựng, chẳng hạn: chôm chỉa, chỏng chơ, đỏng đa đỏng đảnh, thơ thẩn, lúng lá lúng liếng, v.v.
Vốn từ vựng tối thiểu của tiếng Việt phần lớn là các từ đơn tiết (một âm tiết, một tiếng). Sự linh hoạt trong sử dụng, việc tạo ra các từ ngữ mới một cách dễ dàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển vốn từ, vừa phong phú về số lượng, vừa đa dạng trong hoạt động. Cùng một sự vật, hiện tượng, một hoạt động hay một đặc trưng, có thể có nhiều từ ngữ khác nhau biểu thị. Tiềm năng của vốn từ ngữ tiếng Việt được phát huy cao độ trong các phong cách chức năng ngôn ngữ, đặc biệt là trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Hiện nay, do sự phát triển vượt bậc của khoa học-kĩ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, thì tiềm năng đó còn được phát huy mạnh mẽ hơn.
3. Đặc điểm ngữ pháp: Từ của tiếng Việt không biến đổi hình thái. Đặc điểm này sẽ chi phối các đặc điểm ngữ pháp khác. Khi từ kết hợp từ thành các kết cấu như ngữ, câu, tiếng Việt rất coi trọng phương thức trật tự từ và hư từ.
Việc sắp xếp các từ theo một trật tự nhất định là cách chủ yếu để biểu thị các quan hệ cú pháp. Trong tiếng Việt khi nói "Anh ta lại đến" là khác với "Lại đến anh ta". Khi các từ cùng loại kết hợp với nhau theo quan hệ chính phụ thì từ đứng trước giữ vai trò chính, từ đứng sau giữ vai trò phụ. Nhờ trật tự kết hợp của từ mà "củ cải" khác với "cải củ", "tình cảm" khác với "cảm tình". Trật tự chủ ngữ đứng trước, vị ngữ đứng sau là trật tự phổ biến của kết cấu câu tiếng Việt.
Phương thức hư từ cũng là phương thức ngữ pháp chủ yếu của tiếng Việt. Nhờ hư từ mà tổ hợp "anh của em" khác với ttổ hợp "anh và em", "anh vì em". Hư từ cùng với trật tự từ cho phép tiếng Việt tạo ra nhiều câu cùng có nội dung thông báo cơ bản như nhau nhưng khác nhau về sắc thái biểu cảm. Ví dụ, so sánh các câu sau đây:
- Ông ấy không hút thuốc.
- Thuốc, ông ấy không hút.
- Thuốc, ông ấy cũng không hút.
Ngoài trật tự từ và hư từ, tiếng Việt còn sử dụng phương thức ngữ điệu. Ngữ điệu giữ vai trò trong việc biểu hiện quan hệ cú pháp của các yếu tố trong câu, nhờ đó nhằm đưa ra nội dung muốn thông báo. Trên văn bản, ngữ điệu thường được biểu hiện bằng dấu câu. Chúng ta thử so sánh 2 câu sau để thấy sự khác nhau trong nội dung thông báo:
- Đêm hôm qua, cầu gãy.
- Đêm hôm, qua cầu gãy.
Qua một số đặc điểm nổi bật vừa nêu trên đây, chúng ta có thể hình dung được phần nào bản sắc và tiềm năng của tiếng Việt.
Câu trả lời của bạn: 19:06 30/09/2024
Câu trả lời của bạn: 19:04 30/09/2024
thiên hạ
Câu trả lời của bạn: 19:02 30/09/2024
Câu trả lời của bạn: 19:28 04/04/2024
cho tui 5 sao nhé
Câu trả lời của bạn: 19:28 04/04/2024
Câu trả lời của bạn: 20:01 02/04/2024
đáp án D NHA thế kỉ 11
Câu trả lời của bạn: 19:40 02/04/2024
a 3,85: ba phẩy tám mươi lăm
Phần nguyên: 3
Phần thập phân: 85
Kể từ trái sang phải: 3 chỉ 3 đơn vị; 8 chỉ 8 phần mười; 5 chỉ 5 phần trăm
b 86,524
Phần nguyên: 86
Phần thập phân: 524
Kể từ trái sang phải:8 chỉ 8 chục; 6 chỉ 6 đơn vị; 5 chỉ 5 phần mười; 5 chỉ 5 phần trăm; 4 chỉ 4 phần nghìn
c 210,84
Phần nguyên: 210
Phần thập phân: 84
Kể từ trái sang phải: 2 chi 2 trăm;1 chỉ 1 chục; 0 chỉ 0 đơn vị; 8 chỉ 8 phần mười; 4 chỉ 4 phần trăm
d 0,006
Phần nguyên: 0
Phần thập phân: 006
Kể từ trái sang phải: 0 chỉ 0 đơn vị; 0 chỉ 0 phần mười; 0 chỉ 0 phần trăm; 6 chỉ 6 phần nghìn
Câu trả lời của bạn: 19:38 02/04/2024
Trước khi ký Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946), Đảng và Chính phủ ta đã thực hiện chính sách hòa bình, nhằm tìm kiếm sự hòa giải với Pháp thông qua đàm phán, đồng thời chuẩn bị sức mạnh cho cuộc kháng chiến nếu đàm phán thất bại. Cụ thể, Đảng đã tiến hành đàm phán với Pháp, ký kết Hiệp định Sơ bộ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị sức mạnh, tăng cường quốc phòng, xây dựng nền kinh tế, và tạo đoàn kết trong nước.
Sau khi ký Hiệp định Sơ bộ, khi thấy Pháp không tuân thủ các điều khoản của Hiệp định và tiếp tục hành động thù địch, Đảng và Chính phủ ta đã quyết định chuyển từ chính sách hòa bình sang chính sách kháng chiến. Đảng đã chỉ đạo toàn dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp để bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc.
Về suy nghĩ của em, em thấy rằng chủ trương và biện pháp của Đảng và Chính phủ ta trong giai đoạn này rất linh hoạt và sáng suốt. Việc chọn lựa chính sách phù hợp với từng giai đoạn của cuộc đấu tranh đã giúp ta đạt được mục tiêu cuối cùng là giành lại độc lập cho dân tộc. Em cảm thấy tự hào về sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chính phủ ta trong giai đoạn này.
Câu trả lời của bạn: 19:37 02/04/2024
số tự nhiên đó là 7