Đinh Nguyễn
Sắt đoàn
65
13
Câu trả lời của bạn: 12:45 03/01/2023
Hằng năm, cứ Tết, em và bố mẹ trở lại quê ăn Tết với ông bà. Sáng ngày 29 Tết, như thông lệ, ông bà thường gói bánh chưng.
Sáng khoảng cách 7 giờ, cô em vo gạo nếp và đỗ xanh đã được ngâm từ tối hôm trước. Những hạt trắng muốt, căng mẩy và những hạt đỗ vàng lần lượt được thu dọn bể bơi để làm sạch nước.
Trong bếp, ông thái miếng thịt lợn được bà đi chợ mua từ sớm từng miếng ăn bằng bàn tay em. Sau khi thái xong ướp thịt với muối và hạt tiêu.
Mẹ em nhanh chóng trải chiếu trước nhà, lau sạch lá rong đã được cô rửa sạch từ chiều hôm trước, phân ra hai loại lá to, lá nhỏ để chuẩn bị gói bánh.
Bố em khuân những cây nhãn từ góc vườn vào sân để chuẩn bị nấu bánh chưng.
Đến hơn 8 giờ sáng, mọi chuẩn công đoạn đã hoàn thành. Cả dây đeo ngày tháng trên chiếu cói và bánh gói. Mẹ xếp lần lượt 4 lượt lá sẵn sàng. Bà ấy đánh bại một trận đấu, một lần đỗ, rồi để đá chính giữa, rồi quay lại một lần đỗ, một trận đấu. Sau khi hoàn thành, bà chuyển việc đó hát cho ông gói. Ông với đôi tay khéo léo, nhanh chóng thoăn thoắt đã gói thành một chiếc bánh chưng vuông vức mà không cần định giá và buộc chặt và xếp hạng sang một bên.
Mỗi người một việc, vừa làm vừa trò chuyện vui vẻ. Ông bà hỏi thăm công việc của bố và việc học của em. Mẹ cũng hỏi thăm tình hình của họ. Khung cảnh thật là bình yên và ấm áp.
Đến khoảng 10 giờ, công ty đã hoàn thành gói bánh. 20 bánh chưng xanh đã được hoàn thành.
Ông và bố trí những chiếc bánh thành một chiếc nồi, rồi mang ra giữa sân, cái bếp mà vừa "thiết kế" từ những viên gạch cũ xếp ở vườn. Fire group rồi nhanh chóng up up. Một lúc sau nồi chưng nóng.
Khi đó, bà và mẹ cũng chuẩn bị xong cơm cho cả nhà. Cả nhà vừa ăn vừa trông bánh chưng.
Cả ngày hôm nay, em và bố cùng trông bánh chưng. Em rất thích ngồi cạnh bếp lửa để sưởi ấm và những củ khoai lang lấy từ trong bếp của bà vào đám cháy rực rỡ để nướng.
Đến 12 giờ đêm, lúc này bánh chín, cả nhà lau bánh. Em háo hức chờ lại gần để nhìn từng chiếc bánh răng thật. Từng chiếc bánh lần lượt được cất giữ tỏa ra khói tỏa nghi ngút. Mùi thơm của bánh chưng mới xong thật hấp dẫn. Dù đã tồn tại khá lâu nhưng em vẫn thấy màu xanh rất đẹp và màu xanh lá cây nhìn ra bên ngoài hệ thống.
Săn xong xếp cẩn thận trên bàn. Bà bảo em là để qua đêm cho nước nóng, đến mai là có bánh chưng để thắp hương ông bà tổ tiên.
Gói bánh chưng ngày Tết là tục lệ đẹp của gia đình em nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Em luôn mong đến Tết để được gói bánh chưng với ông.
Cảnh gói bánh chưng ngày Tết ở nhà em thật yên bình và ấm áp. Nó cho em thấy được tình cảm gia đình gắn bó, ý nghĩa của ngày Tết đối với mỗi người dân Việt Nam và thêm yêu mến, trân trọng những điều tốt đẹp của hệ thống truyền thông quê hương
Câu trả lời của bạn: 12:11 03/01/2023
TCCS - Tác động mạnh mẽ, toàn diện và sâu sắc của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đã khiến hầu hết các quốc gia trên thế giới phải điều chỉnh, định hướng lại chiến lược phát triển, hướng trọng tâm đầu tư vào khoa học - công nghệ, đồng thời có chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ảnh hưởng sâu rộng đến hầu hết các lĩnh vực trong đời sống xã hội (Trong ảnh: Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng phát triển)_Nguồn: Tỉnh đoàn Quảng Ninh
Về mặt khái niệm, đã có rất nhiều định nghĩa về “văn hóa”, nhưng nhìn chung đều xoay quanh một số điểm: Văn hóa bao gồm cả văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất; là sự hướng tới các giá trị chân - thiện - mĩ; có tính hệ thống chặt chẽ... Bên cạnh chức năng giao tiếp, giao lưu, văn hóa còn tác động đến xã hội, có ý nghĩa giáo dục con người, định hình nên bản sắc dân tộc. Đối với khái niệm “lối sống”, đây là những hành vi được lặp đi lặp lại, trở thành nét đặc trưng, điển hình của mỗi cá nhân; phản ánh thế giới quan và được thể hiện thông qua thái độ của cá nhân đối với các vấn đề trong đời sống xã hội.
Sự biến đổi văn hóa, lối sống diễn ra do nhiều tác động khác nhau trong mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử. Trong thời đại cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khoảng cách về không gian địa lý được thu hẹp tối đa. Điều đó đồng nghĩa với việc mối giao lưu, quan hệ giữa con người với con người được mở rộng. Các cộng đồng, các dân tộc, các nền văn hóa xích lại gần nhau hơn. Trong mỗi cộng đồng, văn hóa, lối sống của các cá nhân cũng chịu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Sự đan xen này trực tiếp góp phần thúc đẩy sự đa dạng văn hóa, nhưng cũng làm phát sinh tình trạng văn hóa lai căng khiến việc bảo vệ bản sắc trong đa dạng văn hóa trở thành nhiệm vụ không dễ dàng của mọi quốc gia, dân tộc.
Trong mọi lĩnh vực, các cuộc cách mạng đều bao hàm sự thay đổi cơ bản về chất, có tính đột biến, sâu sắc và triệt để, theo hướng tiến bộ. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm cho tri thức được vốn hóa, thâm nhập sâu vào nền sản xuất vật chất, vào mọi “ngõ ngách” của đời sống con người, làm thay đổi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Quá trình này diễn ra nhanh chóng trong thời gian ngắn và làm biến đổi nhiều đặc điểm văn hóa, lối sống của con người ở nhiều quốc gia - dân tộc, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc lại mang những nét văn hóa đặc sắc riêng. Do vị trí địa lý đặc biệt, sự giao lưu văn hóa của Việt Nam diễn ra phong phú, mạnh mẽ từ hàng nghìn năm trước. Trong thời kỳ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền văn hóa, lối sống con người Việt Nam tiếp tục có những biến đổi. Tuy nhiên, đó không chỉ là sự biến đổi do tiếp biến từ các nền văn hóa khác, mà phức tạp hơn là sự tự biến đổi ngay từ bên trong nội tại nền văn hóa theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực khi nó đi lệch các giá trị văn hóa chuẩn mực.
Trong bất kỳ xã hội nào, các quy định của pháp luật đều không thể điều chỉnh được hết các vấn đề trong đời sống thường ngày. Cùng với pháp luật, con người còn bị ràng buộc bởi các quy tắc bất thành văn, như đạo đức, văn hóa, lối sống, ứng xử... Tựu chung lại, đó chính là những yếu tố tạo nên cấu trúc văn hóa của mỗi dân tộc. Những quy tắc này không có sức mạnh như các quy định quy phạm pháp luật, nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi con người, được con người tôn trọng, tự giác tuân thủ. Vì vậy, khi các quy tắc bất thành văn này có nguy cơ biến đổi theo chiều hướng tiêu cực hoặc bị phá vỡ thì lối sống con người, đạo đức xã hội, văn hóa của một dân tộc sẽ bị đe dọa.
Phủ sóng về bản làng vùng cao_Ảnh: Tư liệu
Một số tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến văn hóa, lối sống người dân
Làm thay đổi môi trường sinh hoạt, môi trường làm việc, hình thức giao tiếp, ứng xử của cá nhân
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ảnh hưởng sâu rộng đến hầu hết các lĩnh vực trong đời sống xã hội, không loại trừ lĩnh vực văn hóa, cũng như con người - vốn là đối tượng chủ thể của các quan hệ xã hội, là hiện thân của văn hóa, là “bộ nhận diện” văn hóa của từng dân tộc. Thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác động mạnh mẽ đến xu hướng tiêu dùng của người dân, tạo ra một cuộc cách mạng lớn trong quan niệm và thói quen tiêu dùng. Nhờ sự phát triển của mạng internet, thương mại điện tử ra đời đã giúp người tiêu dùng lựa chọn, mua sắm hàng hóa bằng hình thức trực tuyến (ngồi tại nhà lựa chọn sản phẩm trên toàn thế giới qua mạng; thanh toán qua tài khoản điện tử; nhận hàng qua dịch vụ chuyển phát). Thông qua thương mại điện tử, người tiêu dùng Việt Nam tiếp cận gần hơn với thương mại thế giới.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ giúp con người có thể làm nhiều loại công việc bằng hình thức làm việc từ xa, không nhất thiết phải đến trụ sở, văn phòng, không phải giao tiếp trực tiếp với đồng nghiệp, cấp trên, thậm chí cả với đối tác... mà vẫn hoàn thành công việc. Đây là những lợi ích to lớn mà khoa học - công nghệ mang lại, nhưng điều này cũng khiến con người trở nên lệ thuộc vào máy tính, điện thoại thông minh, hệ thống mạng internet, khiến con người ít quan tâm đến các mối quan hệ trong cộng đồng, xã hội, thậm chí là cả quan hệ gia đình...
Giao tiếp, ứng xử của con người Việt Nam trước đây chủ yếu qua phương thức trực tiếp và thiên về sự kín đáo, tế nhị, theo khuôn phép, thậm chí còn nghi thức, cầu kỳ, nhưng nay, với tốc độ, nhịp độ sống nhanh hơn, con người có thể thực hiện giao tiếp bằng nhiều cách thông qua mạng internet, như sử dụng zalo, viber, sky, instagram, facebook... Các thành tựu công nghệ này khiến con người bỏ bớt đi những sự rườm rà, giao tiếp, ứng xử nhanh hơn nhưng đồng thời cũng không tránh khỏi hời hợt hơn.
Làm thay đổi hệ giá trị văn hóa chuẩn mực, tạo ra sự xung đột giữa các giá trị văn hóa, lối sống truyền thống với các giá trị văn hóa, lối sống hiện đại
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo cơ sở thuận lợi cho quá trình giao lưu văn hóa diễn ra mạnh mẽ, đồng thời cũng làm gia tăng sự xung đột giữa nhiều yếu tố, giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại khi cái cũ chưa bị mất đi và cái mới (trong đó, có một số yếu tố văn hóa du nhập từ nước ngoài) cũng chưa định hình rõ nét, chưa hoàn toàn được xã hội chấp nhận. Kết luận số 76-KL/TW của Bộ Chính trị, ngày 4-6-2020 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã chỉ ra những hạn chế, bất cập trong xây dựng hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ mới; chỉ rõ đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại, môi trường văn hóa có những mặt chưa thực sự lành mạnh… Dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, một số xu hướng, phong cách văn hóa, lối sống mới hình thành đã và đang gây tranh cãi. Đó là sự thay đổi một số quan niệm, thói quen của một bộ phận người dân, từ nặng về duy tình sang duy lý, vị tình sang vị tiền; là xu hướng cho rằng gia đình không còn là trung tâm; các yếu tố mang giá trị vật chất phần nào thay thế cho yếu tố tinh thần, tình cảm; là sự hình thành tư tưởng hoài nghi, chối bỏ các giá trị văn hóa truyền thống, lịch sử dân tộc; là sự băng hoại về đạo đức, sự xuống cấp trong các quan hệ xã hội, đặc biệt là sự lệch lạc về nhận thức, sống thiếu lý tưởng trong một bộ phận giới trẻ; là sự gia tăng khoảng cách các thế hệ trong nhận thức các giá trị văn hóa chuẩn mực... Biểu hiện chung nhất và dễ dàng nhận thấy trong xã hội là những biểu hiện phi văn hóa, phi đạo đức vẫn tồn tại khá phổ biến, trong khi đó, không ít hành vi đẹp, nghĩa cử đẹp ngày càng ít xuất hiện hơn, thậm chí trong một số trường hợp lại trở thành điều lạ lùng trong cuộc sống. Điều này phần nào phản ánh cấu trúc nhân cách trong bản thân mỗi con người đã có sự biến đổi, dẫn đến những xu hướng khác nhau trong nhận thức về hệ giá trị văn hóa chuẩn mực trong đời sống xã hội.
Sự xung đột về văn hóa chủ yếu giữa hai xu hướng: thứ nhất, cho rằng văn hóa truyền thống phải được gìn giữ một cách nguyên trạng; thứ hai, cho rằng văn hóa phải luôn có sự tiếp biến, bồi đắp, có sự tiếp nhận những tinh hoa của thời đại. Thực tế, trong nội tại từng xu hướng cũng có những mâu thuẫn, xung đột không dễ gì phân tách. Trong xu hướng thứ nhất, một bộ phận tuyệt đối hóa văn hóa truyền thống, trong khi một bộ phận cho rằng trong xã hội hiện đại có những yếu tố văn hóa mang tính truyền thống không còn phù hợp, nhưng cũng không chấp nhận nó được thay thế bởi văn hóa ngoại lai. Trong xu hướng thứ hai, cũng có sự phân nhóm khi có sự lựa chọn khác nhau về tiếp nhận các giá trị văn hóa thế giới...
Trong bối cảnh đó, chúng ta phải nhận thức, xác định rõ những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp cần bảo vệ và những điểm còn hạn chế để điều chỉnh cho phù hợp. Đất nước sẽ phát triển bền vững khi chúng ta biết gìn giữ, trao truyền bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời biết làm mới mình, tiếp biến các giá trị văn hóa tiên tiến của thế giới, để làm giàu có thêm nền văn hóa dân tộc; “hòa nhập” nhưng tuyệt đối không “hòa tan”.
Tận dụng sự phát triển của các thành tựu khoa học - công nghệ như một điều kiện thuận lợi cho việc lưu giữ, phát triển và truyền bá các giá trị văn hóa dân tộc ra thế giới_Ảnh: Tư liệu
Một số vấn đề đặt ra và giải pháp thời gian tới
Một số vấn đề đặt ra
Một là, sự biến đổi văn hóa của các dân tộc - quốc gia là tất yếu trong quá trình giao lưu, hội nhập. Mức độ biến đổi phụ thuộc vào chính sức mạnh văn hóa và nội lực quốc gia. Nếu có sức mạnh nội sinh lớn thì sự tiếp biến văn hóa diễn ra trên thế chủ động, nếu yếu tố nội sinh yếu, thì sự tiếp biến bị động, các giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc dễ bị mai một, thậm chí bị đồng hóa về văn hóa.
Thực tiễn quá trình tiếp biến văn hóa qua nhiều thời kỳ cho thấy, một số cái bị cho là “biến đổi”, thậm chí “mất đi” (một số nét văn hóa truyền thống), nhưng nếu nhìn nhận ở một khía cạnh khác thì đó chính là sự phát triển, bởi những di sản thực sự là bản sắc văn hóa các dân tộc trên thực tế sẽ không dễ mai một mà luôn có sự vận động, phát triển.
Hai là, những năm gần đây, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Việt Nam có cơ hội lớn tiếp thu những giá trị từ nhiều nền văn hóa, nhưng cũng đứng trước những nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Sự thay đổi trong văn hóa, lối sống là không tránh khỏi, vấn đề là cần hướng sự thay đổi đó theo xu thế tích cực; cần nhìn nhận và tận dụng sự phát triển của các thành tựu khoa học - công nghệ như một điều kiện thuận lợi cho việc lưu giữ, phát triển và truyền bá các giá trị văn hóa dân tộc ra thế giới.
Ba là, cần nhận thức và đánh giá đúng các thách thức lớn đối với nền văn hóa Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để tìm phương cách vượt qua, hạn chế tác động tiêu cực từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến văn hóa, lối sống người dân.
Một số giải pháp thời gian tới
Thứ nhất, tổ chức quán triệt và thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển, tăng cường năng lực ứng dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ, về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Thứ hai, xây dựng chiến lược tổng thể phát triển khoa học - công nghệ quốc gia đồng thời và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với định hướng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống pháp luật, khắc phục tình trạng luật có nhưng các văn bản dưới luật, nghị định hướng dẫn thi hành lại chậm, thiếu đồng bộ, thiếu cụ thể. Tăng cường giáo dục pháp luật, đổi mới các hình thức giáo dục pháp luật cho phù hợp với từng đối tượng trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Sử dụng các thiết bị công nghệ, mạng xã hội như một kênh thông tin pháp luật chính thống, vừa giúp người dân tiếp cận thông tin pháp luật nhanh, chính xác, vừa ngăn chặn được các luồng thông tin sai trái, xuyên tạc.
Thứ tư, tận dụng triệt để các thành quả, thế mạnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào phát triển hệ thống hạ tầng phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý, đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân. Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực nghiên cứu, năng lực tiếp cận, ứng dụng các thành quả công nghệ mới để phát huy năng lực sáng tạo của các nhà nghiên cứu, nhà quản lý văn hóa.
Thứ năm, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trước hết phải trên tinh thần vì lợi ích dân tộc, lợi ích nhân dân; phải có tính chủ động cao, tính định hướng sớm, tính khoa học và tính dân tộc; các giá trị văn hóa truyền thống chuẩn mực phải được gìn giữ, các giá trị văn hóa hiện đại phải được tiếp thu có chọn lọc, được chuyển hóa thành thái độ, động cơ, ý chí, hành động và kết tinh thành niềm tin và khát vọng phát triển trong mỗi con người Việt Nam.
Thứ sáu, tăng cường giáo dục đạo đức xã hội, xây dựng môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, bởi đây chính là yếu tố nền tảng quan trọng và bền vững để giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống, đẩy lùi các tác động tiêu cực đến văn hóa, lối sống người dân.
Thứ bảy, có cơ chế đào tạo, thu hút, sử dụng và thực hiện chế độ, chính sách thỏa đáng cả về kinh tế và tinh thần, tôn vinh các nhà nghiên cứu khoa học, nhà quản lý văn hóa. Ngoài nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước, cần xã hội hóa các nguồn lực đầu tư cho văn hóa, có các cơ chế tài chính đặc thù bởi đây là lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm, là nền tảng tinh thần của xã hội. Tăng đầu tư cho khoa học - công nghệ nghiên cứu về văn hóa, con người.
Thứ tám, tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tiếp thu và ứng dụng kịp thời các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến vào gìn giữ và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống; tiếp thu có chọn lựa các tinh hoa văn hóa thế giới; học hỏi kinh nghiệm các nước đã đạt được nhiều thành công trong ứng phó với những tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến văn hóa, lối sống người dân...
Thứ chín, tăng cường việc kiểm tra, kiểm soát, hướng tới làm chủ các nội dung thông tin được truyền tải trên nền tảng khoa học - công nghệ, nhất là trên không gian mạng, dần hình thành một môi trường văn hóa lành mạnh và giàu tính nhân văn trên không gian mạng./.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 20:53 02/01/2023
Kim Lân là nhà văn có sở trường viết truyện ngắn. Hầu hết các tác phẩm của ông chỉ viết về sinh hoạt của nông dân và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn Nghệ xuất bản năm 1948. Truyện tập trung nói về lòng yêu nước của ông Hai, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình và nó đã hoà nhập giữa làng và nước. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở nỗi người dân Việt Nam ta trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.
Qua hình tượng ông Hai, người đọc sẽ hiểu rõ hơn lòng yêu nước của nhân dân ta lúc bấy giờ.
Làng chợ Dầu có chiến sự, ông Hai phải tản cư đến làng Thắng, vùng tự do theo chính sách của cụ Hồ: “Tản cư là yêu nước”. Nhưng không phải ra khỏi làng chợ Dầu là ông Hai bỏ lại sau lưng tất cả mà ngược lại, lúc nào ông cũng trông ngóng tin tức và theo dõi những biến chuyển ở làng chợ Dầu. Đó là nơi tổ tiên ông sinh cơ lập nghiệp, nơi ông sinh ra và lớn lên. Biết bao tình cảm đã gắn bó với cảnh vật, với dân làng nơi mảnh đất quê hương ấy. Bởi lẽ đó mà mỗi khi nói đến làng chợ Dầu, ông nói với giọng “say mê và náo nức lạ thường”, ông Hai đã yêu làng chợ Dầu bằng một tình yêu thật đặc biệt. Ông yêu tất cả những gì ở làng ông: những nhà ngói san sát, đường lát toàn đá xanh, cái sinh phần của viên quan Tổng đốc...
Từ sau Cách mạng tháng Tám, lòng yêu làng quê của ông Hai có những chuyển biến rõ rệt. Trước kia ông hãnh diện vì làng ông giàu có, to đẹp. Giờ đây ông lại tự hào về những cái khác: phong trào cách mạng sôi nổi, những buổi tập quân sự, những buổi đắp ụ, hố, giao thông hào... luôn cả cái phòng thông tin, cái chòi phát thanh... Trong con mắt ông Hai, cái gì của làng chợ Dầu cũng đều đáng tự hào hết. Vì vậy từ lúc phải đi tản cư, ông khổ tâm day dứt không nguôi. Quả thật cuộc đời và số phận của ông thật sự gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn của mình đã trở thành truyền thống, là tâm lí chung của mọi người dân lúc bấy giờ.
Chính cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở những người nông dân tình cảm yêu nước hoà nhập thống nhất với tình cảm làng quê thành một thứ tình cảm rộng lớn nhất. Đến đây, tác giả đã đặt nhân vật vào một tình huống gay gắt đế bộc lộ sâu sắc lòng yêu làng, yêu nước của ông Hai. Tình huống ấy là cái tin làng chợ Dầu theo giặc: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”. Nghe tin đột ngột, ông Hai sững sờ “cổ ông lão nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được. Ông cảm thấy đau đớn và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quý của mình đã theo giặc Bao nhiêu điều tự hào trước kia giờ đây sụp đổ và nó trở thành nỗi xấu hổ vô cùng. Từ lúc ấy ông Hai không dám đi đâu, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ tưởng như người ta đang bàn tán đến chuyện ấy... Và từ nỗi ám ảnh nặng nề đó trở thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai với nỗi đau xót, tủi hổ trong lòng. Làng và nước trở thành đôi địch. Hai tình cảm này đã dẫn đến một cuộc xung đột nội tầm ở ông Hai. Vì thế có lúc ông nghĩ “làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Rõ ràng tình yêu nước rộng lớn hơn nên bao trùm lên tình yêu làng quê. Mặc dù đã xác định như vậy nhưng ông vẫn không dứt bỏ tình cảm với làng chợ Dầu được, nên nỗi ray rứt ngày càng văng thêm. Phải thật sự am hiểu sâu sắc về con người, nhất là tâm lí của người nông dân nên nhà văn Kim Lân mới diễn tả rất đúng tâm trạng nhân vật ông Hai như vậy.
Từ đó, ông Hai chỉ còn biết trút nỗi khổ tâm vào đứa con nhỏ ngây thơ: “Nhà ta ở làng chợ Dầu”, “ủng hộ cụ Hồ con nhỉ!” Những lời tâm sự ấy thực chất là tự nhủ với chính mình nhằm khẳng định lòng thuỷ chung với cách mạng, với kháng chiến mà biểu tượng là cụ Hồ. Lòng yêu nước của ông Hai còn được biểu hiện rõ nét hơn khi nghe tin đính chính: làng bị giặc tàn phá, không theo Tây. Những nỗi lo âu, xấu hổ tan biến đi thay vào đó là niềm vui mừng khôn xiết nên ông nói bô bô “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chúạ. Đốt nhẵn!”. Đây quả là một niềm vui kì lạ. Niềm vui mừng thể hiện một cách đau xót và đầy cảm động về tình yêu nước và cách mạng của ông Hai. Đây là tình cảm đặc biệt của ông Hai cũng là tình cảm chung của những nông dân hay đúng hơn là của nhân dân ta lúc bấy giờ, thời kháng chiến chống Pháp. Đối với họ trong lúc này, trước hết và trên hết là Tổ quốc. Vì Tổ quốc họ sẵn sàng hi sinh tất cả dù đó là tính mạng hay tài sản. Tình yêu nước của nhân dân ta là như thế.
Thành công của Kim Lân là xây dựng theo cốt truyện tâm lí, tạo tình huống có tính căng thẳng thử thách nội tâm nhân vật để từ đó bộc lộ tâm trạng, tính cách nhân vật. Đặt tác phẩm vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp ta mới thấy hết giá trị thành công của nó. Bởi lẽ thông qua nhân vật ông Hai với những ngôn ngữ, cử chỉ, tâm trạng... tiêu biểu là một người nông dân có cá tính riêng: vui tính, thích trò chuyện nhưng cũng ham nói chữ. Đó là nét tâm lí chung của quần chúng. Cách trần thuật tự nhiên, linh hoạt khiến cho truyện sinh động, hấp dẫn hơn.
Tóm lại, Làng của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc, khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kì kháng chiến: tình cảm quê hương, đất nước. Đây là một tình cảm mang tính cộng đồng. Nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện cụ thể, sinh động ở một con người, trở thành một nét tâm lí sâu sắc ở nhân vật ông Hai. Vì thế nó là tình cảm chung mà lại mang màu sắc riêng, tô đậm rõ cá tính của nhân vật. Tình yêu làng quê, yêu đất nước, yêu kháng chiến của nhân vật ông Hai trong truyện là tình cảm thực sự của nhân dân ta trong thời kháng chiến. Truyện giúp ta hiểu, yêu mến và khâm phục biết bao những người nông dân bình dị, chất phác mà lại có lòng yêu nước tha thiết và cao cả đến thế.
Câu trả lời của bạn: 20:51 02/01/2023
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 15:54 02/01/2023
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 15:52 02/01/2023
Câu trả lời của bạn: 15:51 02/01/2023
Đặc điểm:
* Thuận lợi:
- Địa hình: các tỉnh đều có địa hình núi, gò ở phía Tây, đồng bằng hẹp ở phía Đông bị chia cắt bởi nhiều dãy núi đam ngang ra sát biển, bờ biển khúc khuỷa có nhiều vũng vịnh.
- Khí hậu:
+ Nhiệt đới ẩm gió mùa.
+ Số giờ nắng nhiều.
- Tài nguyên đất:
+ Đất nông nghiệp ở đồng bằng thích hợp để trồng cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày.
+ Đất ở đồi núi phát triển rừng, chăn nuôi gia súc lớn.
- Tài nguyên biển:
+ Vùng có tiềm năng để phát triển tổng hợp kinh tế biển.
- Tài nguyên rừng:
+ Rừng có nhiều gỗ quý, trầm hương, kì nam, sâm quy,...
- Tài nguyên khoáng sản:
+ Cát thủy tinh, vàng, titan phát triển công nghiệp khai khoán
Hình 25.1. Lược đồ tự nhiên vùng Duyên hải Nam Trung Bộ
* Khó khăn:
- Hạn hán kéo dài.
- Thiên tai thường xuyên xảy ra
- Hiện tượng sa mạc hóa ở cực Nam Trung Bộ.
Câu trả lời của bạn: 15:48 02/01/2023
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 15:43 02/01/2023
Hằng là đại lượng có giá trị không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện chương trình. Tên_hằng = giá_trị; trong đó Tên_hằng là tự đặt, theo đúng quy tắc của một tên, còn giá_trị có thể là một hằng hoặc một biểu thức mà các toán hạng đều là hằng.
. KHAI BÁO HẰNG
- Hằng là một đại lượng có giá trị không thay đổi trong suốt chương trình.
- Cú pháp:
CONST < Tên hằng > = < Giá trị >;
hoặc:
CONST < Tên hằng >: = < Biểu thức hằng >;