Kemon Po
Đồng đoàn
150
30
Câu trả lời của bạn: 20:00 26/03/2023
Câu trả lời của bạn: 12:38 17/10/2022
Ai cũng bảo “người em yêu nhất là mẹ và người yêu mẹ nhất là em nhưng em cho rằng điều đó không đúng. Người em yêu nhất là bố và bố là người yêu em nhất. Bố em là Nguyễn Kế Hiếu, 42 tuổi.
Bố em có dáng người thấp, đậm với cái bụng to, khác bố nhà người ta bụng thon 6 múi. Bố nhà người ta đầu bóng vì vuốt keo, bố em đây đầu bóng vì lâu ngày chưa gội. Bố nhà người ta trán cao, hiểu biết rộng dài, bố em đây trán dô, siêu "lầy".
Bố nhà người ta mắt ánh lên sự nghiêm nghị, bố em đây mỗi khi làm sai là mắt láo liên như quạ vào chuồng lợn. Bố nhà người ta môi bặm lại nghiêm túc, bố em miệng chỉ có cười suốt ngày.
Bố nhà người ta tài giỏi, độc lập, vợ con nể phục, bố em đây bị vợ mắng suốt ngày để rồi tối đến rủ em lên giường ngủ sớm, nhưng thực ra là để hai bố con trùm chăn nói xấu mẹ. Bố nhà người ta được cấp dưới ngưỡng mộ, bố em đây làm tài xế xe ôm cho các cô, các bác. Bố em còn thua xa bố nhà người ta.
Nhưng bố em sẵn sàng ký vào bản tự kiểm điểm của em mà không mách mẹ; sẵn sàng che giấu khuyết điểm của em; sẵn sàng nghe cuộc gọi phê bình của cô; sẵn sàng thức đến 3, 4 giờ sáng đợi em làm xong bài và đi ngủ; sẵn sàng ngồi bên cùng em "cày" Toán khó mấy tiếng đồng hồ; sẵn sàng thức dậy sớm mỗi sáng để gọi em dậy, mặc dù bố còn thèm ngủ hơn em; sẵn sàng nhường em miếng trứng cá ngon lành mà bố rất thích; sẵn sàng cho em mượn iPad vào cuối tuần với lý do là "cho nó giải trí thêm chút"; sẵn sàng đánh xe đến lớp đón em, cho dù phải bỏ một buổi họp quan trọng; sẵn sàng đấu hài với em, tán chuyện linh tinh cùng em để "giúp nó giảm stress"…
Bố em rất khéo năn nỉ mẹ đừng đánh em, hoặc nhận tội thay để em không bị mẹ mắng. Mấy câu ấy thường chỉ là mấy câu như: "Khiếp sáng sớm đài đã hát dân ca, cải lương hay vọng cổ rồi à?", "Trời đánh còn tránh miếng ăn nhé!", "Ê, hình như có Giọng hát Việt rồi kìa!",… đủ để nhắc khéo mẹ và em thoát nạn.
Nói thế thôi nhưng đối với em, một người bố như thế là tất cả rồi. Bố chả bao giờ khiến em buồn hay khóc. Bố luôn là anh hùng giải cứu em khỏi những trận lôi đình của mẹ, giúp em yêu Toán như xưa, giúp em đi học đúng giờ…
Cảm ơn bố rất nhiều! Con chúc "Papa" luôn mạnh khỏe, sớm hết bệnh tiểu đường và sống lâu mãi với chúng con, "Papa" nhé
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 13:53 11/10/2022
Đầu máy xe lửa
91 ngôn ngữ
Bài viết
Thảo luận
Đọc
Sửa đổi
Sửa mã nguồn
Xem lịch sử
Thêm
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bạn có tin nhắn mới (thay đổi gần đây).
Bài này không có nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp cải thiện bài bằng cách bổ sung các nguồn tham khảo đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì bạn có thể chép nguồn tham khảo bên đó sang đây.
Đầu máy Đổi mới thường được sử dụng trên tuyến Đường sắt Bắc Nam tại Việt Nam
Đầu máy xe lửa là loại đầu máy chạy trên đường sắt (đường ray) có sức kéo hàng nghìn mã lực, có khả năng kéo hàng chục toa tàu để chở nhiều tấn hàng hóa và con người. Bản thân đầu máy thường không chở hàng hóa mà chỉ dùng để đẩy và kéo đoàn tàu.
Đầu máy xe lửa có thể lấy than, dầu diesel hay điện làm nhiên liệu; hiện nay các đầu máy xe lửa thường chạy bằng điện như tại Đức, Pháp, Anh, Mỹ, Nhật...
Lịch sử đầu máy xe lửa[sửa | sửa mã nguồn]
Người đầu tiên chế tạo một đầu máy xe lửa chở hành khách là George Stephenson, một người thợ làm trong hầm mỏ tại Anh. Khi trước làm việc dưới hầm mỏ, Stephenson đã từng quen thuộc với các loại máy hơi nước của James Watt. Rồi theo các ý tưởng của William Murdock và Richard Trevithick, ông chế tạo một đầu tàu kéo được 90 tấn trên quãng đường 85 dặm. Stephenson chế tạo tiếp chiếc xe nữa, nặng 4 tấn rưỡi và bánh xe có đường kính 1,42 mét. Chiếc thứ ba có tên là Rocket và được cho chạy vào năm 1830. Trong những lần thử ban đầu, chiếc Rocket chở được 36 hành khách và chạy với tốc độ 30 dặm một giờ.
Đường ray xe lửa đầu tiên cũng được George Stephenson xây dựng, dài 32 cây số. Đầu máy Stourbridge Lion là chiếc xe lửa đầu tiên được dùng có tính cách thương mại tại Hoa Kỳ.
Năm 1831, đầu máy John Bull được Hoa Kỳ nhập khẩu từ Anh để chạy tuyến đường Camden và Amboy nhưng đầu máy này quá nặng nề đối với đường xe lửa mỏng manh của Hoa Kỳ. Năm 1830, Peter Cooper chế tạo chiếc đầu tàu Tom Thumb dùng cho đường xe lửa Baltimore - Ohio và xưởng đúc West Point cho ra đời chiếc xe Best Friend để sử dụng vào năm 1831 tại tiểu bang Nam Carolina, trên tuyến đường giữa Charleston và Hamburg. Các nồi súp-de (hơi) khi thì được đặt thẳng đứng, lúc sửa đổi thành nằm ngang. Chiếc đầu tàu xe lửa lịch sử De Witt Clinton của công ty hỏa xa Mohawk and Hudson do xưởng đúc West Point chế tạo có nồi súp-de nằm ngang. Vào tháng 8 năm 1831, chiếc đầu tàu lịch sử kể trên đã kéo một đoàn tàu không mui chạy quãng đường dài 17 dậm từ Albany tới Schenectady trong 1 giờ 45 phút và đã đạt được vận tốc tối đa là 30 dặm một giờ. Lúc trở về đoàn tàu đã chạy trong khoảng một giờ. Xe lửa De Witt Clinton đã được dùng trong 14 năm rồi mới chịu nhường chỗ cho các con tàu tân tiến hơn.
Xưởng Rogers Locomotive ở Paterson, New Jersey, các đầu tàu được chế tạo với các xy lanh nằm bên ngoài khung tàu. Chiếc đầu tàu chế tạo cho đường xe lửa New York, New Haven và Harford đã trở nên mẫu mực trong nửa thế kỷ cho các đầu tàu khác tại Hoa Kỳ. Chiếc đầu máy này có 8 bánh, 11 xi lanh dài 45 cm.
Đầu máy Virginian có chiều dài 32.6 mét nặng 450 tấn đủ sức kéo được 17,000 tấn. Nhờ khả năng chở nặng,
Sau thời kỳ động cơ hơi nước là động cơ diezen và động cơ điện, điện từ trường. Đầu máy được phổ thông hóa và xe lửa được nhiều người dùng tới.
Đầu máy xe lửa hiện đại[sửa | sửa mã nguồn]
Đầu máy dùng lực nâng từ trường ở Đức
Hiện trạng tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Một đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước do Việt Nam chế tạo năm 1964 được trưng bày tại Ga Sài Gòn
Đầu máy D12E kéo đoàn tàu mác LP tuyến Hải Phòng-Long Biên
Hiện trạng tại Việt Nam đang vận dụng các loại Đầu Máy (ĐM) Xe Lửa như sau:
ĐM D2M (Là 1 biến thể của ĐM Liên Xô D4H, vận dụng ở xí nghiệp toa xe Đà Nẵng) 1 chiếc 400 mã lực (công suất)
ĐM D4H (Liên Xô, có một số đầu máy khổ 1435mm) 77 chiếc 400 mã lực (công suất)
ĐM D4HR (Là 1 biến thể của ĐM Liên Xô D4H, vận dụng ở ga Đà Lạt) 2 chiếc 400 mã lực (công suất)
ĐM D5H (Úc) 13 chiếc 500 mã lực (công suất)
ĐM D8E (Việt Nam) 2 chiếc 800 mã lực (công suất) (hiện đã ngừng vận dụng)
ĐM D9E (Mỹ) 33 chiếc 900 mã lực (công suất) (hiện đã ngừng vận dụng từ 1/1/2021)
ĐM D10E (Nguyên bản là ĐM D9E nhưng được lắp động cơ Caterpilar 1000 HP) 2 chiếc 1.000 mã lực (công suất)
Đầu máy Đổi Mới D19E-927
ĐM D10H (Trung Quốc) 20 chiếc 1.000mã lực(công suất)
ĐM D11H (Rumani) 23 chiếc 1.100 mã lực (công suất)
ĐM D12E (Tiệp Khắc) 40 chiếc 1.200 mã lực (công suất)
ĐM D13E (Ấn Độ) 24 chiếc 1.300 mã lực (công suất)
ĐM D14E (Trung Quốc,khổ 1435mm) 5 chiếc 1.400 mã lực (công suất)
ĐM D18E (Bỉ) 16 chiếc 1.800 mã lực (công suất)
ĐM D19E (Số hiệu: Từ 901 đến 940: Trung Quốc, Từ 941 đến 980: Việt Nam 80 chiếc 1.900 mã lực (công suất)
ĐM D19Er (Trung Quốc, khổ 1435 mm) 5 chiếc 1.950 mã lực (công suất)
ĐM D20E (Đức) 16 chiếc 2.000 mã lực (công suất)
ĐM TU6P (Nga, có ở ga Đà Lạt) 2 chiếc 400 mã lực (công suất)
ĐM DD11 của Nhật Bản, bị bỏ hoang ở Công ty Xe lửa Gia Lâm 1 chiếc 400 mã lực (công suất)
Các đầu máy hơi nước (thuộc quản lý Gang thép Thái Nguyên, không thuộc quản lý của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam nhưng không còn sử dụng)
Ngoài ra còn có các đầu máy khác không thuộc quản lí của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam như: CK1E, CK6 của Công ty Apatit Việt Nam; CK1E, TY7E (hay TY7A3, 1 dạng khác của D4H) của Công ty Tuyển than Cửa Ông và CK1F của Công ty Kho vận Đá Bạc.
Câu trả lời của bạn: 17:44 10/10/2022
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá, chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 17:42 10/10/2022
Câu trả lời của bạn: 17:41 10/10/2022
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 17:36 10/10/2022
Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo Việt Nam mang những đặc điểm tương đồng và khác biệt so với Phật giáo của các nước khác trên thế giới. Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cổ đại nên mang nhiều nét của văn hóa Trung Hoa, đặc biệt là tôn giáo. Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam, mang nhiều ảnh hưởng của hệ phái Phật giáo Bắc tông.
Tuy nhiên, ở khu vực miền Nam, hệ phái Phật giáo Nam tông cũng có ảnh hưởng không nhỏ, nhất là trong cộng đồng người Khmer Nam bộ. Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam năm 2020, hiện có hơn 4,600,000 tín đồ Phật giáo [1], còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ quy y tam bảo, có 1002 đơn vị gia đình Phật tử[2] và khoảng 44.498 tăng ni, hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường.
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Xem thêm: Lịch sử Phật giáo Việt Nam
Một phần của loạt bài về
Thiền sư Việt Nam
Sơ khai[hiện]
Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi[hiện]
Thiền phái Vô Ngôn Thông[hiện]
Thiền phái Thảo Đường[hiện]
Thiền phái Trúc Lâm[hiện]
Lâm Tế tông[hiện]
Tào Động tông[hiện]
Cổng thông tin Phật giáo
x
t
s
Bản in Kinh Phật Diệu pháp liên hoa cổ của Việt Nam
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên theo đường hải và đường bộ. Những vết tích đầu tiên được được ghi nhận với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Đầu công nguyên, Luy Lâu (Bắc Ninh) là thủ phủ của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các dấu tích của Phật giáo tại Việt Nam được ghi nhận qua các truyền thuyết như Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189[3], Phật giáo hình thành nên hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp.[4]
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt"[3] và "Bụt Đà", từ đó chữ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Phật giáo Nam truyền được địa phương hóa; Bụt được dân gian hóa coi như một vị thần cứu giúp người tốt. Sau này, vào thế kỷ thứ IV - V, do ảnh hưởng của Phật giáo từ Trung Hoa mà từ "Bụt" bị thay thế dần bởi từ "Phật".
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến thời nhà Đinh - Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của phong trào chấn hưng Phật giáo của các nước, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu [5].
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp;
Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần là giai đoạn cực thịnh;
Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn chấn hưng.
Dưới đây là một số tông phái Phật giáo có ảnh hưởng lớn tại Việt Nam:
Thiền tông[sửa | sửa mã nguồn]
Thiền phái Trúc Lâm mang đậm bản sắc thiền của Phật giáo Việt Nam
Thiền tông được Bồ-đề-đạt-ma truyền sang Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 6. Theo các nhà nghiên cứu Phật giáo, Thiền tông ngay sau đó không lâu cũng được truyền sang Việt Nam, với dấu ấn của dòng Thiền Tì-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci). Sư vốn là người Ấn Độ, qua Trung Quốc đắc pháp với Tam tổ Tăng Xán rồi đến Việt Nam vào năm 580, tu tại chùa Pháp Vân (hay chùa Dâu), thuộc huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh và truyền cho tổ thứ hai là Pháp Hiền. Dòng thiền này truyền được đến 19 thế hệ[6].
Khi Lục tổ Huệ Năng phát dương rực rỡ Thiền tông Trung Quốc, nhưng đặc tính của nó cũng xuất hiện ở Việt Nam với các dòng Thiền Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Dòng thiền tu thứ hai do Vô Ngôn Thông, người Trung Quốc lập ra vào năm 820, tu tại chùa Kiến Sơ, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Dòng thiền này truyền được đến 17 đời[6]. Dòng thiền thứ ba do Thảo Đường, người Trung Hoa, vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm Thành và được vua Lý Thánh Tông phóng thích cho hoằng đạo tại chùa Khai Quốc vào năm 1069. Dòng thiền này truyền được đến 6 đời[6].
Năm 1299, vua Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn của thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ, ông xuất gia và lên tu ở núi Yên Tử, thuộc huyện Uông Bí, Quảng Ninh, thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và lập nên Thiền phái Trúc Lâm. Sau này, một số thiền phái khác xuất hiện như phái Tào Động dưới thời Trịnh-Nguyễn, phái Liên Tôn vào thế kỷ 16-19 (có trụ sở tại chùa Bà Đá và chùa Liên Phái, Hà Nội), phái Liễu Quán (Liễu Quán là tên một vị tổ thuộc dòng Lâm Tế) vào thế kỷ 18 (miền Trung), phái Lâm Tế dưới thời nhà Nguyễn (miền Trung, và sau này phát triển ở miền Nam).
Thiền tông Việt Nam đề cao cái "tâm"[7]: "Phật ở tại tâm", tâm là Niết Bàn, hay Phật. Trần Nhân Tông viết trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo:
"Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, Cơ tắc xan hề khốn tắc miên. Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền."
Dịch: "Ở đời vui đạo hãy tùy duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền."
Tịnh độ tông[sửa | sửa mã nguồn]
Chùa Hoằng Pháp theo pháp môn tịnh độ, nơi tổ chức các khóa tu nhiều và lớn nhất Việt Nam
Tịnh độ tông là một tông phái Phật giáo, chủ trương tu tâm dựa vào tha lực của Phật A Di Đà để đắc đạo.[8][liên kết hỏng] Dù vậy đương sự vẫn phải tự lực dốc lòng niệm Phật. Phật Thích Ca Mâu Ni có lần thuyết giảng: "Một viên đá dù nhỏ đến mấy mà ném xuống nước thì nó cũng chìm, nhưng nếu một hòn đá dù to đến mấy mà đặt trên bè thì nó cũng nổi" nên Tịnh độ tông cho là dù nghiệp nặng tới đâu việc thành tâm niệm Phật cũng sẽ là phương tiện giúp tín đồ sau khi mãn kiếp sẽ tới miền Cực lạc.
Theo Tịnh độ tông cõi Cực lạc là một nơi sinh linh không bị buộc vào vòng luân hồi. Nơi đó Phật A Di Đà (tiếng Phạn: Amitabha) là giáo chủ. Phật tử có thể dùng công đức, làm việc thiện, đọc kinh, niệm Phật (nhất là tụng danh Phật A Di Đà), hồi hướng thiện tâm mà góp sức cứu sinh linh lớn nhỏ thì mai sau cũng sẽ đắc quả. Không như Thiền tông dựa vào tâm lực để giác ngộ, Tịnh Độ tông mở lối cho Phật tử vi giác qua công quả, có phần thực tế và giản dị hơn việc luyện trí tập thiền nên tông phái này rất phổ biến ở Việt Nam. Vì vậy mà đi đến chùa nào cũng nghe câu "Nam mô A Di Đà Phật" (có nghĩa là "Nguyện quy y đức Phật A Di Đà") và gần như chùa nào cũng lập tượng Phật A Di Đà để thờ.
Mật tông[sửa | sửa mã nguồn]
Mật tông là một tông phái Phật giáo chủ trương sử dụng những phép tu tụng niệm các mật chú để đạt đến chân lý giác ngộ[9]. Cũng còn gọi là Lạt Ma tông, Mật tông là sự hợp nhất giới luật của thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) và nghi thức tác pháp của Kim Cương thừa. Bước quyết định trong nghi thức này là lễ Quán Đỉnh (Abhiseka) do một vị sư cả (guru hay "lạt ma") ban phép cho người đệ tử được nhập thiền định tâm vào một vị Phật cụ thể bằng cách đọc chân âm (mantra), suy niệm đồ hình Mạn đà la (mandala) và thực thi ấn quyết (mudra) để đạt đến độ thăng hoa loại bỏ ý niệm nhị nguyên (duality) để nhập vào Chân Như, vào cõi Không. Trạng thái đó được biểu tượng bằng Kim cương chử (Vajra). Để làm chủ được các nghi thức tác pháp của Mật tông (còn gọi là Kim Cương thừa - Vajrayana) thì điều tiên quyết là phải thấu hiểu giáo nghĩa của Bát-nhã-ba-la-mật-đa (Prajnaparamita) của Long Thụ và Vô Trước. Giáo nghĩa Bát-nhã-ba-la-mật-đa được gọi là "Nhân thừa", và giáo nghĩa Kim Cương thừa được gọi là "Quả thừa". Tương truyền rằng Mật tông do đức Phật Đại Nhật khởi xướng. Mật tông có hai bộ kinh cơ bản là Đại Nhật kinh và Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh. Như vậy, từ thế kỉ thứ 3 đến thế kỉ thứ 7, Thiền tông Việt Nam mang đậm giáo nghĩa Tam Luận tông của Long Thụ, mà đặc biệt là tư tưởng Bát-nhã-ba-la-mật-đa của Long Thụ và Vô Trước. Các thiền sư thuộc Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi không chỉ uyên thâm về Phật pháp mà nhiều vị rất có uy tín với triều đình và biểu thị rõ ý thức độc lập tự chủ của đất nước. Các thiền sư Pháp Thuận, Ma Ha (thế kỉ thứ 10), Sùng Phạm (thế kỉ 12),... đều làm cố vấn cho nhà vua không chỉ việc đạo mà cả việc đời, việc ngoại giao. Đặc biệt, các thiền sư dòng Tì Ni Đa Lưu Chi thường có hình thức tu tập "Tổng Trì Tam Muội" (Dharani samadhi), một hình thức tu tập phổ biến của Mật giáo (Tantrism), dùng chân âm kết hợp với ấn quyết trong trạng thái đại định để giữ được thân, khẩu, ý. Ở Hoa Lư (Ninh Bình), một cột kinh Phật bằng đá vào thế kỉ thứ 10[10] có khắc bài thần chú Phật Đỉnh Tối Thắng Đà La Ni (Usnisavijaya dharani), một thần chú phổ biến của Mật tông, đã được phát hiện.
Khi vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa lẫn vào dòng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu đồng, pháp thuật, yểm bùa, trị tà ma, chữa bệnh,...
Nam tông[sửa | sửa mã nguồn]
Bảo tháp xá lợi đức Phật Gotama Cetiya chùa Bửu Long
Phật giáo Nam tông được truyền rất sớm vào Việt Nam do các tổ sư Ấn Độ truyền bá nhưng đến khi Đại thừa truyền vào từ Trung Quốc thì dần dần thay thế Phật giáo Nam truyền.
Hiện nay Phật giáo Nam tông phát triển mạnh ở miền nam chủ yếu là Phật tử đồng bào dân tộc Khmer. Mãi đến cuối những năm 1930, thì các sư Hộ Tông, Bửu Chơn, Thiện Luật... truyền bá Phật giáo Nam tông từ Campuchia. Hiện nay, Phật giáo Nam tông (Theravada) là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Tượng Phật Tổ phủ sơn, phong cách Việt Nam
Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực hiện hai điều đó là khế lý và khế cơ. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố này Phật giáo sẽ chẳng còn là Phật giáo nữa. Duy trì và phát triển hai yếu tố này, Phật giáo được truyền vào Việt Nam và các nước khác.
Khế lý là nói về mặt tư tưởng, nhờ khế lý nên dù ở thời gian và không gian nào, giáo lý Phật-đà vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn luôn luôn phong phú, sâu sắc mà vẫn giữ được bản chất của mình và chỉ có một vị đó là vị giải thoát.[11]
Khế cơ thiên trọng về mặt lịch sử, nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và quốc độ nào thì sự sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng.[11] Tùy theo phong tục tập quán của mỗi quốc gia mà vẫn không hề mất gốc (Phật giáo). Nói một cách khác thì có thể tùy nghi phương tiện theo từng vùng miền để truyền bá giáo lý Phật-đà nhưng không làm mất đi bản sắc của Phật giáo là ứng hợp với mọi tầng lớp và căn cơ chúng sanh.
Tên gọi tuy có khác nhưng giáo lý vẫn là một tên gọi là khế lý, dù một mà không phải một, nên có lắm tên Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Thái Lan... tất cả đều có tên chung là Phật giáo, bảo rằng giống cũng được nhưng bảo rằng không thì là sai. Đây gọi là khế cơ, là bản địa hóa, hay sắc thái Phật giáo của từng vùng miền.
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt bản địa hóa, khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Phật giáo đã cùng sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong những thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý Trần đều là những lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh và các vị thiền sư có vị trí quan trọng trong các Triều đại đó. Dù được bản địa hóa để quyện mình vào lòng dân tộc nhưng tam tạng kinh điển Phật giáo Việt Nam vẫn được truyền thừa trong suốt hơn 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam[5].
Tính dung hòa[sửa | sửa mã nguồn]
Dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng bản địa[sửa | sửa mã nguồn]
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được "Phật giáo hóa". Các pho tượng này thường được gọi tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu Thần" hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất.
Dung hòa giữa các tông phái Phật giáo[sửa | sửa mã nguồn]
Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều giỏi pháp thuật và có tài thần thông biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Các điện thờ ở chùa miền Bắc vô cùng phong phú các loại tượng Phật, Bồ tát, La hán và các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng dung hợp hai truyền thống truyền thừa. Nhiều chùa mang hình thức Nam truyền (chỉ thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, sư đắp y vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh y vàng còn có áo nâu, áo lam.
Hòa hợp giữa Phật giáo với Khổng, Lão[sửa | sửa mã nguồn]
Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên. Sau đó Phật giáo bắc truyền tiếp nhận Đạo giáo. Rồi cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn giáo có cùng một mục đích) truyền vào Việt Nam qua đường Bắc thuộc. Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người.[12] Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh "Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt.[13]
Ngoài ra giáo lý Phật giáo còn được hòa trộn với các tôn giáo khác để hình thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên nhân hợp nhất" và "Vạn giáo nhất lý".
Tượng Quan Âm Nam Hải ở Bạc Liêu
Phật giáo ảnh hưởng của mẫu hệ[sửa | sửa mã nguồn]
Nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam, làm cho Phật giáo Việt Nam có phần nữ tính hóa.
Các vị Phật Ấn Độ xuất hiện với thân nam, khi vào Việt Nam bị biến thành "Phật ông - Phật bà". Mẹ Quan Âm (Quán Thế Âm Bồ Tát) là vị "thần" cứu giúp cho nhân dân, người miền biển còn gọi là Quan Âm Nam Hải (biển đông). Ngoài ra người Việt còn có những vị "Phật-Mẫu" riêng của mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba).
Các tôn giáo chịu ảnh hưởng của Phật giáo[sửa | sửa mã nguồn]
Hệ phái Khất sĩ Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam
Lễ tưởng niệm 60 năm ngày tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng, tại Pháp viện Minh Đăng Quang.
Đạo phật Khất sĩ Việt Nam là một tông phái Phật giáo nội sinh do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập từ 1944, lấy chí nguyện " Nối truyền Thích ca chính Pháp", sư đã dung hợp hai truyền thống Đại thừa phát triển mạnh và Nam truyền gần gũi với lời dạy gốc của Đức Phật. Đi trước phong trào chấn hưng phật giáo những đóng góp của sư có vai trò to lớn trong sự phát triển của Phật giáo Việt Nam nửa sau thế kỷ XX. Bộ sách Chân lý đã đúc kết những nguyện vọng, tông chỉ, đường hướng hoằng đạo của ngài cho các đệ tử.
Bửu Sơn Kỳ Hương[sửa | sửa mã nguồn]
Bửu Sơn Kỳ Hương hay đạo Lành do Đoàn Minh Huyên, đạo hiệu Giác Linh khai sáng vào năm 1849, là một giáo phái dựa vào sự tích Bồ tát Di Lặc hạ sinh để rao giảng về hội Long Hoa của Phật Di Lặc. Bửu Sơn Kỳ Hương đơn giản hóa các triết lý sâu xa của đạo Phật. Đạo đề cao tứ ân, tôn người lập đạo là Phật thầy Tây An.
Tứ Ân Hiếu Nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]
Tứ Ân Hiếu Nghĩa, gọi tắt là đạo Hiếu Nghĩa[1], do Ngô Lợi (thường được tín đồ gọi là Đức Bổn sư) sáng lập. Buổi đầu, đạo là một trong những phong trào Cần Vương, nhưng dùng hình thức tôn giáo để qui tập tín đồ và để che mắt thực dân Pháp. Sau khi vua Hàm Nghi bị đày, Ngô Lợi mất, phong trào tan rã chỉ còn lại những hoạt động tín ngưỡng. Đạo hình thành trên tư tưởng của Bửu Sơn Kỳ Hương nên ngày càng xa với triết lý của Phật dạy.
Đạo Hòa Hảo[sửa | sửa mã nguồn]
Đạo Hòa Hảo hay còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo, là một giáo phái dựa trên nền đạo đức triết lý Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm 1939, lấy pháp môn Tịnh Độ tông làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia. Số tín đồ Đạo Hòa Hảo ước tính khoảng 2 triệu người, tập trung chủ yếu ở Nam bộ, nhất là ở Tây Nam bộ.
Thực chất Phật giáo Hòa Hảo là tiếp nối của một tông phái Phật giáo có từ gần một trăm năm trước ở đồng bằng Nam bộ có tên là Bửu Sơn Kỳ Hương do Phật Thầy Tây An (Đoàn Minh Huyên) sáng lập vào năm 1849 tại vùng Bảy Núi (tỉnh An Giang). Tiếp sau Phật Thầy Tây An là Tứ ân hiếu nghĩa của Phật Trùm, Ngô Lợi (Đức Bổn Sư) rồi đến Huỳnh Phú Sổ. Thời kỳ Huỳnh Phú Sổ là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của đạo Hòa Hảo.
Giáo lý là sự kết hợp của Tịnh Độ tông với Đạo Ông Bà. Tôn chỉ là "Học Phật Tu Nhân", noi theo giáo lý Đức Phật mà tu sửa con người, tích cực thực hành thuyết "Tứ ân (ơn)": cha mẹ, đất nước, tam bảo (Phật-Pháp-Tăng), nhân loại.
Cách thức tu hành của Phật giáo Hòa Hảo rất đơn giản là "tu hành tại gia". Người "cư sĩ tại gia" cúng lạy vào hai buổi sớm mai và chiều tối với 16 lạy như một bài thể dục toàn thân ở "bàn thông thiên", ăn chay một tháng 4 ngày để cơ thể khỏe mạnh; thờ trần đỏ hoặc trần dà với ý nghĩa hòa hợp; không chấp nhận mê tín dị đoan (không đốt vàng mã, không cúng tà thần...); thực hành tiết kiệm triệt để như không dâng cúng thực phẩm cho Phật mà chỉ cúng bông hoa nước sạch, không ăn thịt trâu, chó, bò để giữ sức kéo...; không hình thức: không đúc tượng, không chuông mõ, "tử thì táng", không có hàng giáo phẩm và không có tổ chức đạo (trước năm 1947).
Tịnh độ cư sĩ Phật hội[sửa | sửa mã nguồn]
Thôn hội tịnh độ cư sĩ ở Vĩnh Long
Do đức Tôn sư Minh Trí sáng lập dựa vào pháp môn tịnh độ lấy giáo lý Đức Phật làm gốc, nhưng diễn đạt đơn giản, dễ hiểu phù hợp với quần chúng nông dân hơn. Phương châm hành đạo "Phước Huệ song tu" lấy việc chữa bị bệnh chăm sóc sức khỏe bằng thuốc nam và Đông y làm phương tiện hành đạo - Phước; lấy pháp môn niệm phật A Di Đà học tập kinh A Di Đà, Vô Lương Thọ, Quán Vô Lượng Thọ - Huệ.
Đạo lấy giáo lý của tôn sư Minh Trí làm căn bản dạy cư sĩ tu tập theo các quyển "kinh, luật, luân" như: Lục Phương lễ bái, Phu thê ngôn luận, Đạo đức, Giới luật, Phật học vấn đáp, Phương pháp kiến tánh.
Nhìn chung trong bối cảnh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Phật giáo suy vi, đất nước chiến tranh loạn lạc, hạn hán mất mùa liên lục ở miền nam tạo ra chỗ trống về tín ngưỡng sự ra đời của các tôn giáo tông phái là để đáp ứng nhu cầu đó các đạo điều dựa trên tư tưởng từ bi của Phật và đạo đức hiếu hạnh, ái quốc của dân tộc để hành đạo. Có nhiều điểm chung giữa các đạo này là lấy việc học đạo làm người làm tiền đề tu học, lấy việc bốc thuốc chữa bệnh làm phương tiện truyền đạo, khi các tín đồ vào đạo thì lấy pháp môn tịnh độ tu tập hướng tới tịnh độ Cực Lạc tây phương của Phật A Di Đà hay tịnh độ của Phật Di Lặc.
Phật giáo và văn hóa Việt[sửa | sửa mã nguồn]
Một bức tượng đức Phật cở nhỏ theo phong cách đơn sơ, giản dị kiểu Việt Nam
Trong văn học dân gian thì truyện bình dân kể lại truyện Bà Chúa Ba tức truyện Quan âm chùa Hương. Nghệ thuật trình diễn có vở chèo Quan Âm Thị Kính. Truyện Kiều của Tố như Nguyễn Du cũng hàm chứa nhiều tư tưởng Phật giáo.
Số tục ngữ ca dao liên quan đến Phật giáo rất đa dạng:
Dù xây chín bậc phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người.
Hiền như Bụt.
Khẩu xà tâm Phật / Khẩu Phật tâm xà.
Phật tại tâm, tâm tức Phật.
Bụt nhà không thiêng.
Đi với Bụt mặc áo cà-sa
Đi với ma mặc áo giấy.
Miệng thì nam-mô, bụng bồ dao găm[14].
Giáo hội Phật giáo và quan hệ với chính quyền[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Bài chi tiết: Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
Các tu sĩ trẻ tuổi tại thiền viện Thường Chiếu (Đồng Nai).
Thời nhà Đinh, nhà tiền Lê, nhà Lý, và nhà Trần Phật giáo Việt Nam có ảnh hưởng lớn đến các Triều đại. Đã có nhiều vị cao tăng được triều đình trọng dụng như thiền sư Pháp Thuận, Khuông Việt, Vạn Hạnh, Minh Không, Pháp Loa, v.v. ra giúp tham chính và cố vấn, giúp chèo lái con thuyền đất nước trong những lúc khó khăn. Đinh Tiên Hoàng đế lập ra chức tăng thống và Tăng lục để đại diện cho Phật giáo với chính quyền.
Thời kỳ thuộc Minh, khi nhà Hồ chấn chỉnh đạo đến thời thuộc Minh, nhà Minh tàn phá tự viện, đập phá tượng Phật, đốt kinh sách, bắt bớ tu sĩ làm cho đạo Phật bị suy yếu. Tới thời Lê sơ, Lê trung hưng chính quyền Lê, Trịnh tôn sùng Nho giáo kìm hãm Phật giáo, còn miền Nam các chúa Nguyễn lại là các Phật tử nên đã chấn hưng Phật giáo, đạo Phật có một thời gian khởi hưng ngắn cho đến hết thời Tây Sơn.
Đến thời nhà Nguyễn, Gia Long cũng lấy Nho giáo làm trọng, Phật giáo bấy giờ bắt đầu suy vi mãi đến khi phong trào chấn hưng Phật giáo được phát động.
Vào cuối thời chống Pháp dưới chính thể Quốc gia Việt Nam năm 1951 Tổng hội Phật giáo Việt Nam ra đời. Đây là tổ chức đầu tiên với ý định thống nhất các tổ chức Phật giáo rời rạc. Tổng hội thành công trong việc liên kết các tự viện Đại thừa khắp ba miền Nam, Trung, Bắc. Tuy nhiên Tổng hội không có cơ cấu điều hành ngoài việc mở đường liên lạc.[15]
Khoảng thập niên 1960 Phật giáo đấu tranh chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa dẫn đến Biến cố Phật giáo, 1963. Hiến chương 1964 đặt nền móng cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một tổ chức quy tụ nhiều giáo phái ở phía nam vĩ tuyến 17 thành một lực lượng tôn giáo đáng kể.
Năm 1958 tại miền bắc, Đảng Lao động Việt Nam cho phép thành lập Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam[16].
Sau năm 1975, mãi đến năm 1981 chính quyền mới cho phép thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tổ chức Phật giáo duy nhất là đại diện cho Phật giáo tại Việt Nam, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Giáo hội được thành lập vào ngày 7 tháng 11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, trên cơ sở hợp nhất tất cả tổ chức Phật giáo trong nước. Hiện nay, sau khi Đệ Tam Pháp chủ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ qua đời vào ngày 21 tháng 10 năm 2021, Trưởng lão Hòa th
Câu trả lời của bạn: 17:35 10/10/2022
Ba tổ còn lại thu được tổng số ki-lô-gam giấy vụn là :
9 x 3 = 27 (kg)
Lớp 3A thu được số ki-lô-gam giấy vụn là :
27 + 10 = 37 (kg)
Đáp số : 37kg.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 17:34 10/10/2022
Câu trả lời của bạn: 17:33 10/10/2022
24 phút =2/5 giờ
quãng đường ô tô đi là
2/5x35=14 km
đáp số:14 km
nhớ h mình nha
Câu trả lời của bạn: 17:32 10/10/2022
Câu trả lời của bạn: 17:25 10/10/2022
Em hãy làm 1 sản phẩm mang thông điệp yêu thương?
• Em hãy kể tên những hoạt động, phong trào có ý nghĩa lan tỏa yêu thương con người ở trường hoặc ở địa phương em. Em đã và sẽ có những hành những động cụ thể như thế nào để hưởng ứng những hoạt động phong trào ở trường và địa phương em?
02Bài giải:
• Những hoạt động, phong trào có ý nghĩa lan tỏa yêu thương con người ở trường hoặc ở địa phương em: quyên góp giúp đỡ người nghèo và các cụ già neo đơn
• Em đã và sẽ có những hành những động cụ thể để hưởng ứng những hoạt động phong trào ở trường và địa phương em: em đã nhịn ăn quà vặt để dành một số tiền nho nhỏ để quyên góp vào quỹ hội chữ thập đỏ của trường cùng như địa phương.
Câu trả lời của bạn: 17:22 10/10/2022
Diện tích hình chữ nhật ABCD là:
16 x 8 = 128 (cm²)
Diện tích hình tam giác KCD là:
16 x 8 : 2 = 64 (cm²)
Vậy diện tích hình tam giác KCD bằng 1/2 diện tích hình chữ nhật ABCD. Suy ra diện tích hình tam giác KCD bằng tổng diện tích hai hình tam giác KBC và KAD.
Câu trả lời của bạn: 17:21 10/10/2022
daongocanh9900
29/01/2020
Đáp án:
2h
Giải thích các bước giải:
Khi người đi xe đạp chở người đi bộ 2 đến D thì người đi bộ 2 ở đó.
Trong khi đó, người đi bộ 1 đến điểm E nào đó trong khoảng AC
Khi người đi xe đạp quay lại để đón người đi bộ 1, thì 2 người gặp nhau ở C
Khi người đi xe đạp và người đi bộ 1 gặp nhau ở C thì người đi bộ 2 từ D đã đi đến một điểm F nào đó trong khoảng DV
Sau đó người đi xe đạp đèo người đi bộ 1 từ C về B thì cùng lúc đó gặp người đi bộ 2 ở B
Ta có thời gian người đi xe đạp đi từ A-D-C là:
t=sAC+sCD+sCD20=2sCD+sAC20t=sAC+sCD+sCD20=2sCD+sAC20
Thời gian người đi bộ 1 đi từ A-C là: t1=sAC4t1=sAC4
Mà thời gian người đi xe đạp đi từ A-C-D bằng thời gian người đi bộ từ A-C ( do xuất phát cùng thời điểm, từ A và gặp nhau tại C)
⇒2sCD+sAC20=sAC4⇒sCD=2sAC(1)⇒2sCD+sAC20=sAC4⇒sCD=2sAC(1)
Ta lại có, thời gian người đi xe đạp từ D-C-B bằng thời gian người đi bộ 2 đi từ D-B
⇒sCD+sCD+sDB20=sDB4⇒sCD=2sDB(2)⇒sCD+sCD+sDB20=sDB4⇒sCD=2sDB(2)
Từ (1) và (2) ta có: sCD=2sAC=2sBDsCD=2sAC=2sBD
Mà sAC+sDC+sDB=sAB⇔4sAC=20km⇒sAC=5kmsCD=10km;sDB=5kmsAC+sDC+sDB=sAB⇔4sAC=20km⇒sAC=5kmsCD=10km;sDB=5km
Tổng thời gian chuyển động:
T=sAC+sDC20+sDB4=5+1020+52=2(h)
Câu trả lời của bạn: 15:22 09/10/2022
a/ Xét phép lai 1 thấy F1 thu được tỷ lệ ~ 3: 1 => tính trạng hạt tròn trội hoàn toàn so với tính trạng hạt dài
b/ Phép lai 1: F1 thu được tỷ lệ ~ 3: 1 => bố mẹ dị hợp => KG (Aa x Aa)
P: Aa x Aa
G: A, a_A, a
F1: 1AA: 2Aa: 1aa
Phép lai 2: F1 thu được tỷ lệ ~ 1: 1 => bố dị hợp, mẹ đồng hợp lặn => KG (Aa x aa)
P: Aa x aa
G: A, a _ a
F1: 1Aa: 1aa
Phép lai 3: F1 thu được tỷ lệ 100% hạt tròn => có thể có các trường hợp:
3.1. Bố, mẹ đồng hợp trội => KG (AA x AA)
P: AA x AA
G: A _ A
F1: AA
3.2. Mẹ đồng hợp trội, bố đồng hợp lặn => KG (AA x aa)
P: AA x aa
G: A _ a
F1: Aa
3.3. Mẹ đồng hợp trội, bố dị hợp (hoặc ngược lại) => KG (AA x Aa)
P: AA x Aa
G: A _ A, a
F1: 1AA: 1 Aa
Câu trả lời của bạn: 15:22 09/10/2022
Câu trả lời của bạn: 15:21 09/10/2022
Đại hội thành lập Quốc tế III tổ chức ở Mátxcơva từ ngày 2 đến 6-3-1919, có 51 đại biểu thay mặt cho 30 nước tới dự. Ngoài đại biểu phương Tây còn có đại biểu các nước phương Đông: Triều Tiên, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, chứng tỏ Quốc tế III là tổ chức của giai cấp lao động của cả các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đại hội được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Lênin. Lênin khẳng định: "chỉ có nền dân chủ tư sản và dân chủ vô sản, không có nên dân chủ thứ ba. Dân chủ vô sản là nền dân chủ cao nhất, do vậy nhiệm vụ của Quốc tế III là phải xác lập được dân chủ vô sản".
I. Sự thành lập
1. Hoàn cảnh ra đời của Quốc tế III
Có hai điều kiện dẫn đến sự thành lập Quốc tế III.
Một là. sự phá sản của Quốc tế II làm cho phong trào công nhân bị chia rẽ về tổ chức, giai cấp công nhân không còn một tổ chức thống nhất để chỉ đạo phong trào. Quốc tế II phân liệt thành phái hữu, phái giữa, phái tả khiến cho trong nội bộ một số Đảng cũng có sự phân liệt như vậy.
Hai là, phong trào cách mạng thế giới phát triển thành cao trào mới do ảnh hưởng trực tiếp của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Năm 1918, đã xuất hiện một loạt các đảng cộng sản như Đảng Cộng sản Áchentina, Phần Lan, Áo, Hungari, Ba Lan, Đức. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đánh dấu sự chiến thắng của giai cấp công nhân trực tiếp tạo điều kiện thúc đẩy việc thành lập Quốc tế Cộng sản.
2. Quá trình chuẩn bị thành lập Quốc tế III
Trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất, phái tả trong Quốc tế II tổ chức hai hội nghị quốc tế tại Dimmecvan (9-1915) và Kienta (4-1916), do vậy phái này được gọi là phái tả Dimmecvan. Họ “đã lên tiếng chống chiến tranh đế quốc đòi hòa bình, giành chủ nghĩa xã hội''. Phái tả Dimmecvan chủ trương đoạn tuyệt với Quốc tế II, đoàn kết các lực lượng cách mạng lại trong một tổ chức quốc tế mới. Đó là bước chuẩn bị cho sự ra đời của Quốc tế III, mặc dù còn nhiều hạn chế như không chấp nhận đường lối đấu tranh triệt để của Lênin và Đảng Bônsêvích Nga: ''Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng, làm thất bại các chính phủ trong chiến tranh''.
Ngày 1-1-1914, Đảng Bônsêvích Nga, dưới sự lãnh đạo của Lênin, ra tuyên ngôn: biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng'' và ''tuyên bố đoạn tuyệt với Quốc tế II''. Tại các cuộc hội nghị của những người xã hội quốc tế, Lênin đã tập hợp phái tả đề ra cương lĩnh riêng (thư trên). Phái tả gồm Đảng Bônsêvích Nga, đại biểu những người xã hội phái tả ở Đức, Bungari, Ba Lan, Lituyani, Thụy Điển, Na Uy, Thụy Sĩ, Hà Lan. Mặc dù trong phái tả Dimmecva
Câu trả lời của bạn: 15:20 09/10/2022
a,Em sẽ bảo bạn sửa chữa lại khuyết điểm(nhận tội trước pháp luật để hưởng sự khoan hồng)
b,Em sẽ bảo bạn không nên làm thế vì sẽ dễ nghiện và rất khó để điều chỉnh hành vi của mình
c,Em sẽ động viên bạn để bạn có thêm niềm tin vào cuộc sống
d,Em sẽ thông cảm cho bạnvà san xẻ nỗi buồn cùng bạn
đ,Em sẽ không nói gì vì bạn ấy làm như thế là rất đúng
e,Em sẽ làm cho tình bạn của họ trở nên tốt đẹp hơn
Chúc bạn học tốt nhé! ^^