
MIN LI
Sắt đoàn
60
12
Câu trả lời của bạn: 10:34 12/02/2022
đếm được: chair, book, table, pen, pencil, ruler, egg, bread, banana, onion, box
còn lại là không đếm được
Câu trả lời của bạn: 10:33 12/02/2022
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết: "Con dù lớn vẫn là con của mẹ/ Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con". Đối với em, mẹ chính là điểm tựa tinh thần, là người quan trọng và thiêng liêng nhất với em, là động lực và che chở cho em trong suốt những năm tháng ấy. Một trong những kỷ niệm sâu sắc nhất của em với mẹ đó là hôm mà em bị ốm, mẹ đã chăm sóc cho em vô cùng tận tình. Chiều hôm đó, em lỡ dính mưa và bị cảm lạnh. Đến đêm, em lăn đùng ra sốt cao và toàn thân nóng như cục than. Bố em lại đi công tác nên chỉ có em và mẹ ở nhà. Em vẫn còn nhớ gương mặt mẹ lo lắng cho em đến mức độ nào. Mẹ cho em nằm ngay ngắn trên giường, mẹ đắp chăn và chườm khăn cho em. Rồi mẹ chạy đi mua thuốc, nấu cháo, chạy ngược chạy xuôi để chăm sóc cho em suốt cả một đêm. Trong cơn sốt mê man, em vẫn còn cảm nhận được hơi ấm từ lòng bàn tay mẹ truyền đến mặt và tay em. Đó chính là tất cả tình yêu thương mà em cảm nhận được của mẹ. Em cũng nghe thấy tiếng nói ấm áp của mẹ "Ôi con tôi,...". Sáng hôm sau, khi em vừa mở mắt dậy thì mẹ cũng dậy theo. Cả đêm, mẹ chỉ chợp mắt được một tí. Thấy em đỡ sốt, mẹ mừng lắm, mẹ ôm lấy em, nước mắt mẹ và em cứ thế mà trào ra. Đó sẽ mãi mãi là kỷ niệm với mẹ mà em không bao giờ quên được.
Câu trả lời của bạn: 10:32 12/02/2022
1. extremed
2. If we don't leave now , we will miss the plane
3. happy
Câu trả lời của bạn: 13:41 11/02/2022
B. Dòng biển lạnh và dòng biển nguội
Câu trả lời của bạn: 12:19 11/02/2022
1. can/we/What/to/help/do/our community?
=>What do help our community can to we?
Câu trả lời của bạn: 12:17 11/02/2022
-Số chu kì xoắn là:
6000:2=300(vòng)
-Chiều dài ADN là:
300.34=10200(Å)
Số liên kết H là:
Câu trả lời của bạn: 12:16 11/02/2022
Sao giờ này chưa ngủ em
Lời giải:
Mua 1 mét vải như thế hết số tiền là:
90 000 : 6 = 15 000 (đồng)
Mua 10m vải như thế hết số tiền là:
15 000 x 10 = 150 000 (đồng)
Đáp số: 150 000 đồng.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 11:51 11/02/2022
Cứ mỗi dịp hè, em lại được về thăm ông bà nội. Về quê rất thích vì ông bà em có một khu vườn rộng với bao nhiêu là cây trái: ổi, cam, xoài, táo, chuối. Trong đó, em thích nhất là chuối.
Chuối không đứng đơn lẻ mà mọc thành từng bụi, cây lớn có, cây nhỏ có giống như một gia đình. Thân cây tròn, nhẵn bóng, hơi thuôn về phía ngọn, chỗ màu xanh, chỗ màu mận chín, sờ tay vào có cảm giác mát lạnh, dễ chịu. Lá chuối trông như mọc trực tiếp từ thân. Lá to và dài, mặt trên màu xanh đậm, mặt dưới màu nhạt hơn và có phủ lớp phấn trắng.
Quả chuối mọc thành nải, nải to được khoảng gần 20 quả. Các nải lại được xếp thành buồng từng tầng từng tầng một gọn gàng, đẹp mắt. Một buồng chuối to dài khoảng nửa mét và có khoảng trăm quả. Khi chuối đã già, buồng chuối được cắt về chia ra thành từng nải xếp vào một chiếc thùng, thắp vài nén hương và bọc kín lại. Bà em bảo, làm như vậy để chuối chín nhanh, đều và thơm hơn.
Chuối chín có màu vàng rộm, vị ngọt đượm, thơm lừng. Chuối chín ngon và nhiều chất dinh dưỡng nên được rất nhiều người ưa chuộng. Chuối có rất nhiều công dụng như chuối xanh và củ chuối để nấu ốc, kho cá, thân cây chuối để cho lợn ăn, lá chuối để gói bánh như bánh chưng, bánh giò, bánh gai... Chuối chín đem phơi khô được món mứt chuối, dẻo dẻo, dai dai ăn rất ngon và thú vị. Chè chuối trân châu cũng là món ăn mà em rất thích.
Mùa hè, màu xanh tươi mát của lá chuối cùng những cơn gió hiu hiu làm tan đi cái nắng oi ả khó chịu. Tiếng những tàu lá chuối xào xạc, ve kêu râm ran, chim hót líu lo tạo thành bản giao hưởng mùa hè của tuổi thơ em.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 09:23 11/02/2022
Chọn một ô hoặc phạm vi ô.
Trên tab Trang đầu, chọn Số từ menu thả xuống.
Hoặc, bạn có thể chọn một trong các tùy chọn sau:
Nhấn CTRL + 1 và chọn số.
Bấm chuột phải vào ô hoặc phạm vi ô, chọn Định dạng ô…, rồi chọn Số.
Chọn công cụ khởi động hộp thoại bên cạnh số rồi chọn số.
Câu trả lời của bạn: 09:15 11/02/2022
,Dàn ý tả cây bưởi
1. Mở bài
- Giới thiệu về cây ăn quả em sẽ tả (em tả cây bưởi).
Ai mua hoặc ai tặng? (ba em mua về trồng).
Mua hoặc tặng vào dịp nào? (ba em mua nhân một chuyến đi công tác ở tỉnh Đồng Nai).
2. Thân bài
Tả từng bộ phận của cây: gốc cây, thân cây, cành cây, lá cây, trái cây (gốc cây màu xám mốc, thân cây màu xanh đậm, cành lá xum xuê, trái bưởi to, tròn...
3. Kết bài
Nêu tác dụng của của bưởi.
Cảm nghĩ của em đối với cây bưởi em tả.
Câu trả lời của bạn: 09:13 11/02/2022
- Các trang phục ở Hình 7.6 được làm từ các loại vải trong bảng sau:
Hình
Loại vải
a
làm hoàn toàn từ loại vải sợi tổng hợp
b
trang phục được làm từ 80% vải sợi thiên nhiên, 20% vải sợi tổng hợp
c
làm hoàn toàn từ vải sợi thiên nhiên
Câu trả lời của bạn: 09:09 11/02/2022
a.Xét ΔIDB,ΔHABΔIDB,ΔHAB có:
ˆDIB=ˆAHB=90oDIB^=AHB^=90o
DB=BADB=BA
ˆDBI=180o−ˆABD−ˆABH=180o−90o−ˆABH=90o−ˆABH=ˆBAHDBI^=180o−ABD^−ABH^=180o−90o−ABH^=90o−ABH^=BAH^
→ΔIDB=ΔHBA→ΔIDB=ΔHBA(cạnh huyền-góc nhọn)
b.Từ câu a
→BH=DI→BH=DI
Chứng minh tương tự →EK=CH→EK=CH
→BC=BH+CH=DI+EK
Câu trả lời của bạn: 09:06 11/02/2022
32,65
0,04
Câu trả lời của bạn: 09:03 11/02/2022
mik đã trả lời câu b r đó
Câu trả lời của bạn: 09:02 11/02/2022
Nhắc đến những nhà văn chính luận lỗi lạc của văn học trung đại chúng ta không thể nào không nhắc đến Nguyễn Trãi. Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình sâu sắc mà còn là một nhà văn chính luận kiệt xuất với các tác phẩm: "Quân trung từ mệnh tập", các chiếu biểu viết dưới thời nhà Lê và tiêu biểu nhất là tác phẩm Bình Ngô đại cáo. Các áng văn chính luận này đã thể hiện được lòng yêu nước, thương dân của tác giả.
Ngay câu đầu bài cáo đã bộc lộ tư tưởng nhân nghĩa ấy:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
"Nhân nghĩa" là tấm lòng thương yêu người, là những hành động vì lợi ích của nhân dân, cộng đồng. Bên cạnh đó, "nhân nghĩa" cũng là sự tôn trọng lẽ phải, bênh vực lẽ phải. Chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên đối với Nguyễn Trãi, "nhân nghĩa" là "yên dân", "trừ bạo", cuộc sống và sự no ấm của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. Giữa con người phải có tình yêu thương lẫn nhau, cùng chiến đấu để bảo vệ đất nước, thoát khỏi đời sống khổ cực, lầm than. Để được như vậy thì phải diệt trừ những kẻ bạo tàn, những thế lực xâm lược hung hãn, đó chính là giặc Minh đang xâm chiếm đất nước ta lúc bấy giờ. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc.
Để khẳng định chủ quyền của đất nước, tác giả đã đưa ra những dẫn chứng xác đáng và vô cùng thuyết phục:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có".
Nền văn hiến đã có từ lâu đời và được hình thành từ khi đất nước ta tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên một diện mạo riêng của dân tộc. Cùng với đó là sự phân chia về lãnh thổ, núi sông và các phong tập tập quán đặc trưng của hai miền Nam, Bắc đã thể hiện đất nước ta là một đất nước có chủ quyền, có các anh hùng hào kiệt luôn cống hiến, chiến đấu hết mình để bảo vệ non sông. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn đặt các triều đại của nước ta ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc như Hán, Đường, Tống, Nguyên. Nếu các triều đại phương Bắc phát triển hưng thịnh thì các triều đại Việt Nam cũng phát triển hùng mạnh không kém. Điều đó đã thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc sâu sắc của tác giả.
Ông đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:
"Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi".
Những tướng của nhà Tống, nhà Nguyên đều bị các tướng giỏi của ta đánh cho thất bại. Chúng vì "tham công", "thích lớn" nên phải chịu hậu quả nặng nề. Các sự kiện ấy còn được nhân dân ta lưu lại trong sử sách để muôn đời ghi nhớ. Các phép đối, so sánh ngang hàng các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phương Bắc cùng phép liệt kê và giọng điệu hào hùng, trang nghiêm ở đoạn thứ nhất của bài cáo đã thể hiện nổi bật tư tưởng nhân nghĩa của tác giả.
Ông đã vạch trần, tố cáo những tội ác mà quân Minh xâm lược thực hiện với nhân dân ta:
"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh".
Quân Minh đã lợi dụng "chính sự phiền hà" của nhà Hồ để chớp lấy thời cơ xâm chiếm nước ta. Bước chân xâm lược của chúng giày xéo lên đất nước ta khiến nhân dân vô cùng oán hận, căm thù. Cũng lợi dụng điều đó mà bọn gian tà chỉ biết nghĩ đến lợi ích của cá nhân đã tiếp tay cho kẻ thù xâm lược để mang lại những vinh hoa, lợi lộc cho bản thân mà không chiến đấu vì nhân dân, tổ quốc.
Giặc Minh đã gây ra những tội ác không thể dung tha:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi".
Nhân dân ta phải chịu cảnh khổ cực, lầm than dưới gót chân xâm lược của chúng. Chúng đem "nướng", "vùi" nhân dân ta trên ngọn lửa và "dưới hầm tai vạ". Chúng cai trị nhân dân ta bằng các loại thuế vô lí, các kế sách lừa lọc nham hiểm và cả sự tra tấn dã man, hung bạo. Những người dân vô tội phải chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề của giặc Minh.
Không chỉ vậy, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên của dân tộc ta:
"Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt".
Chịu sự đô hộ của quân Minh cũng đồng nghĩa với việc nhân dân ta phải đối mặt với sự cai trị tàn bạo và những hành động hung hãn của chúng. Chúng vô nhân tính đến mức bắt ép dân đen "xuống biển dòng lưng mò ngọc", "vào núi đãi cát tìm vàng", bắt nhân dân ta đến những nơi nguy hiểm luôn rình rập, đe dọa đến tính mạng để tìm kiếm những vật có giá trị cho quân cuồng Minh. Nhân dân ta bị biến thành nô lệ cho kẻ thù và cũng là miếng mồi ngon cho các loài động vật cá mập, thuồng luồng hung dữ. Chúng xâm chiếm nước ta để vơ vét hết sản vật quý hiếm như chim trả dùng để làm áo và đệm, hươu đen dùng để làm vị thuốc bổ. Có thể nói, tham vọng xâm lược nước ta của giặc Minh vô cùng lớn.
Không chỉ đẩy dân ta vào nguy hiểm, chết chóc mà chúng còn "tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ". Do quân Minh "máu mỡ bấy no nê chưa chán", xây nhà đắp đất liên miên nên nhân dân ta rơi vào cảnh ngộ đầy bi thương, khốn khổ:
"Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi".
Những tội ác của quân Minh không sao kể hết bởi lẽ:
"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được"?
Ngay cả trúc Nam Sơn, nước Đông Hải cũng không thể ghi hết tội ác và rửa sạch mùi dơ bẩn của quân xâm lược. Những hành động tàn ác, dã man của chúng khiến trời đất cũng không thể dung tha huống chi là con người. Câu hỏi tu từ cuối đoạn thứ hai đã nhấn mạnh thêm một lần nữa tội ác của kẻ thù. Chúng ta không thể nào tha thứ cho những kẻ đã tàn sát đồng bào, tàn hại cả cây cỏ thiên nhiên của đất nước mình.
Hình ảnh đối lập giữa những người dân đen vô tội bị bóc lột tàn bạo và kẻ thù vô nhân tính cùng giọng điệu cảm thương, đanh thép, lí luận sắc bén đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Hai đoạn đầu của bài cáo là bản cáo trạng hùng hồn tố cáo những hành động dã man của quân Minh. Đó là minh chứng tiêu biểu nhất cho sự khổ cực, áp bức, sự cướp bóc, bóc lột trắng trợn mà nhân dân ta phải gánh chịu trong suốt thời gian chúng "Gây binh kết oán trải hai mươi năm".
Câu trả lời của bạn: 09:01 11/02/2022
Mỗi vùng miền đều có những món ăn đặc trưng, đặc sản mang nét độc đáo, phong vị riêng theo khí hậu và địa lý thổ nhưỡng. Ngoài ra, tùy theo tính cách, lối sinh hoạt của con người từng vùng, từng miền mà ẩm thực cũng có sự khác nhau trong cách chế biến và thưởng thức. Ba miền Tổ quốc trải dài từ Bắc đến Nam không nơi nào là không được thiên nhiên ưu đãi tốt cho “cái sự ăn uống” của con người. Nếu như miền Bắc tiêu biểu có canh rau đay cua đồng ngon ngọt ăn với cà pháo chấm mắm tôm; miền Trung có cơm Hến, bún bò Huế thì vùng đất miền Nam phóng khoáng lại có món canh chua đi kèm với cá kho tộ. Mà khi nhắc đến món cá kho nói chung là là nhắc đến một món ăn có thể nói là chủ lực, khó có thể thiếu trong các bữa ăn gia đình Việt. Theo dân gian, khi vừa mới khỏi bệnh mà ăn cá kho (không kể đến các món khác) là tốt nhất, lành nhất, không sợ trúng thực hay dị ứng…
Vùng đất phương Nam sông suối, kênh rạch chằng chịt cung cấp ngồn nước quanh năm, đồng thời cũng phục vụ nguồn thủy sản dồi dào phong phú, đa dạng với nhiều chủng loại. Nhiều nhất vẫn là cá, rồi đến tôm, cua… Vì thế ở nơi đây cũng không thiếu nhiều phương thức chế biến độc đáo. Riêng đối với cá có nhiều cách như nấu cháo, nấu canh chua, chiên, nướng, kho… nhưng tiêu biểu nhất vẫn là món kho. Người dân Nam bộ có một kiểu kho đặc trưng mà chúng ta thường gọi là kho tộ. Nói đến cá kho tộ thì đầu tiên phải đề cập đến là cái tộ, tộ ở đây thường là cái tô đất hay nồi đất và chỉ có kho trong tộ đất thì cá mới ngon, mới mang hương vị “nguyên chất” mà không một loại nồi, niêu, xoong chảo nào có được. Cá kho trong chiếc tộ đất phản ánh một thời lưu dân vào miền đất mà dưới sông cá lội trên trời chim bay, muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh như bánh canh khai phá, mở mang bờ cõi khi mọi thiếu thốn về phương tiện, sinh hoạt vật chất của cuộc sống gia đình. Ngày nay, chiếc tộ đất dùng để kho cá thường thấy nhất ở các miền quê, ở thành thị thì hầu như ít thấy bởi sự phồn hoa đô hội với những dụng cụ hiện đại đã trở thành một phần trong cuộc sống, không thể thiếu được. Có chăng những vật dụng “nhà quê” ấy chỉ xuất hiện một cách âm thầm lặng lẽ trong các nhà hàng, những quán ăn của gia đình muốn lưu giữ, cất giấu một giá trị, một văn hóa đang mất dần theo lớp bụi vô tình của thời gian.
Các loại cá dùng để kho tộ thì có rất nhiều, nhưng trải qua sự chọn lựa, chắt lọc thì phải nhận định rằng không phải loại cá nào cũng có thể đáp ứng được, cuối cùng thì chỉ có các loại như cá bông lau, cá lóc, cá trê vàng, cá rô, hay cá kèo… được coi là ngon và thích hợp nhất.
Cá kho tộ ai cũng làm được. Nhưng đừng vì vậy mà lầm tưởng rằng để thực hiện được món cá kho tộ sao cho ngon, sao cho bổ là dễ dàng. Thực ra nó phức tạp và cầu kỳ, lắm kiểu, nhiều cách. Tùy theo từng loại cá đem kho sẽ có một hương vị khác nhau, tùy theo gia vị và cũng tùy theo khẩu vị từng địa phương mà mỗi người sẽ cho ra một “sản phẩm” mang phong vị riêng “đóng dấu chất lượng” của mình.
Thường khi kho tộ, cá được chọn như thế nào cũng được, không câu nệ. Song để có một món cá kho ngon nhất, thì cũng giống như nhiều món ăn khác, phần chọn nguyên liệu là cả một quá trình công phu. Kinh nghiệm của nhiều người, nhiều chuyên gia về ẩm thực cho rằng, cá phải to một chút, không lớn quá cũng không nhỏ quá. Lớn quá thì cá không được săn dễ mềm nhìn không ngon, cá nhỏ quá thì lại dễ nát và nhiều xương gây mất thiện cảm từ cái nhìn đầu tiên. Cá vừa vừa thì thịt chắc, ít xương, cá loại này khoảng từ 400 – 500 gram một con là vừa nhất, tuy nhiên cũng tùy theo từng người thực hiện mà có cách lựa chọn khác phù hợp hơn. Khi làm cá, ta không nên lạn bỏ phần da có vảy mà phải cạo bỏ vảy, nếu không cá sẽ nhìn không ngon.
Tùy theo sở thích của từng người mà cá đem kho có thể đề nguyên con hoặc xắt thành từng khoanh. Nếu là cá kèo thì để nguyên con tốt hơn, các loại cá lóc, cá trê, bông lau… xắt khoanh. Ướp cá với nước mắm thật ngon, nêm nếm gia vị cho vừa ăn như bột ngọt, muối, đường… đặc biệt khi kho cá nên cho nước màu. Nước màu có thể được làm từ đường tự thắng với nước nắm được làm tại nhà hoặc ra chợ mua. Tuy nhiên, để cá cho kho ngon, béo, mềm và đậm đà hương vị chúng ta nên sử dụng loại nước màu được chế biến từ nước dừa, bởi nước màu dừa này thơm và ngọt, không đắng như nước màu được làm từ đường. Sau đó đợi từ 5 – 10 phút cho cá ngấm đều gia vị rồi mới đem kho.
Kho cá không nên kho bằng bếp ga hay bếp dầu vì nó không còn gì để gọi là phù hợp cả với lại cá sẽ mất đi 40% – 60% hương vị nguyên chất ban đầu. Cứ thử nghĩ cá kho trong một cái tộ bằng đất chân chất đậm nét chân quê mà lại bắc lên một cái bếp hiện đại, nhìn cứ chướng mắt làm sao, trông chẳng khác gì “râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Cá kho tốt nhất là kho bằng củi hay than củi bắc trên cái kiềng, cái cà ràng hoặc ba ông đầu rau chụm lại. Nói để cho chúng ta thấy rằng không phải là cầu kỳ hay khó tính trong việc này mà vì phải đưa nó trở về với nguyên bản xa xưa vốn có của nó, cái thời mà ông cha ta mới đến khai hoang lập nghiệp. Giữ nguyên cái bản sắc ấy mới thấy thú vị, thấy ấm lòng người, ấm lòng quê hương.
Khi cá kho sôi lên độ chừng 3 – 5 phút là ta bắt đầu canh lửa lớn để tộ cá sôi mạnh hơn cho đến khi gần cạn nước thì mình bớt lửa lại, cho vào nồi cá một ít dầu ăn hoặc mỡ nước để cá bóng đẹp và săn chắc. Giai đoạn này khá quan trọng, chúng ta nên canh cẩn thận nếu không cá sẽ bị khét. Tùy từng người muốn ăn nhiều nước hay ít mà chúng ta canh nước cho vừa. Lúc này nên cho vào tộ cá kho vài trái ớt hiểm tươi hoặc ớt sừng xắt lát để tạo hương vị cho món cá kho tộ thêm đậm đà. Trong quá trình kho, khi nào cần lửa lớn, lúc nào để lửa riu riu thì cũng là một bí quyết cho món cá thêm ngon. Khi cá sắp được rắc thêm tiêu tán nhỏ để dậy thêm mùi thơm cho món ăn.
Ăn kèm với cá kho tộ, như nhắc ở trên phải có món canh chua nấu vừa chua chua, ngọt ngọt của cá, lá giang, của đường, của dứa, cà chua… hòa quyện với cái cay cay của ớt thật hấp dẫn, quyến rũ. Ở nhiều nơi món cá này dùng chung với rau sống. Rau sống có thể là lá xoài non, dứa (thơm), dưa leo, rau cần nước, dưa bồn bồn, bông và dưa điên điển… các loại rau chấm với nước cá kho thì hết ý, không chê vào đâu được.
Còn tuyệt gì hơn khi trong cái không khí oi ả, nóng bức của buổi trưa sau khi làm đồng về đến nhà vừa háo nước, vừa mệt mỏi mà được thưởng thức món cá kho tộ với canh chua thì không có gì thú bằng, bao nhiêu cơm ăn cũng không thấy no, cứ muốn ăn mãi, ăn mãi đến khi vét hết cơm trong nồi rồi mà cứ cảm thấy muốn thêm nữa.