
Nguyễn Minh Nguyệt
Đồng đoàn
105
21
Câu trả lời của bạn: 09:26 25/01/2022
1. What is your native language
2. Where do you study?
3. Why are you helping him?
4. Where does Tim live?
5. When do you finish school?
6. How many sister do you have?
7. What time do you usually get up?
8. How often do you play football?
9. What colour is your dress?
10. Where do you play the guitar?
11. What time do you have your lunch?
12. When does Tim usually go to bed?
13 What is he reading now?
CHÚC BẠN HỌC TỐT!
Nhớ vote cho mình 5 sao VÀ 1 CẢM ƠN NHÉ
THANK YOU VERY MUCH
Câu trả lời của bạn: 07:44 24/01/2022
My younger sister collected dolls two years ago
Chúc bạn học tốt !
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 07:39 24/01/2022
Nay mừng những kẻ nông phu,
Cầu cho hòa cốc phong thu bình thời,
Vốn xưa nông ở bậc hai,
Thuận hòa, mưa gió nông thời lên trên.
Quý hồ nhiều lúa là tiên,
Rõ ràng phú túc bình yên cả nhà.
Bốn mùa xuân hạ thu đông.
Muốn cho tiền lúa đầy nhà hán sương.
Bước sang hạ giá thu tàng,
Thu thu liễn hoạch giàu ngang Thạch Sùng.
Quý nhân cùng kẻ anh hùng,
Rắp toan muốn hỏi nhà ông ê đề.
Thực thà chân chỉ thú quê,
Chuyên nghề nông nghiệp là nghề vinh quang.
Vote cho mình năm sao + cảm ơn nhé
THANK YOU VERY MUCH!
Chúc bạn học tốt !
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 15:27 22/01/2022
Cà khịa là khẩu ngữ vay mượn từ tiếng Khmer có nghĩa gây sự để cãi vã, đánh nhau, gây gổ hay xen vào chuyện của người khác. Trước đây từ ngữ thường được dùng phổ biến ở miền Tây Nam Bộ nhất là những vùng có nhiều người Khmer sinh sống. Từ ngữ này không mang ý nghĩa tích cực cho lắm khi các câu nói hay hành động gây sự có thể gây hiểu lầm không đáng có.
Sau này cà khịa đã lan rộng khắp các tỉnh thành thông qua mạng xã hội Facebook với tốc độ “chóng mặt” và được dùng bởi rất nhiều người, không phân biệt tỉnh thành
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 15:25 22/01/2022
Bạn học ở lớp nào
Câu trả lời của bạn: 15:24 22/01/2022
sits
Câu trả lời của bạn: 15:23 22/01/2022
Các câu kể Ai là gì
(1 ) Các con của mẹ đều là những đứa trẻ ngoan, biết vâng lời mẹ.
(3) Thỏ em là người luôn nghĩ đến mẹ.
(5)Thỏ anh là người chu đáo.
- (7) Thỏ anh là anh mà mẹ !
Tác dụng là: Chỉ ra sự vật, con vật, đồ vật
Câu trả lời của bạn: 15:16 22/01/2022
truyện Sự tích Hồ Gươm nhằm giải thích cho tên gọi hiện nay của Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.
- Ca ngợi cuộc chiến chống giặc ngoại xâm là cuộc chiến chính nghĩa của Lê Lợi, thể hiện mong ước sống trong hòa bình của nhân dân.
- Khẳng định vai trò lãnh đạo của người anh hùng Lê Lợi giúp đất nước giành được độc lập, nhân dân sống ấm no, hạnh phúc.
Chúc bạn học tốt nhé
Vote cho mình 5 sao nhé và cảm ơn
THANK YOU VERY MUCH!
Câu trả lời của bạn: 15:10 22/01/2022
Mỗi con người được sinh ra trên đời đều trải qua các giai đoạn khác nhau của quá trình: Sinh, lão, bệnh, tử. Đến cuối cùng, rồi ai cũng đi đến kết thúc. Kết thúc có hậu hay không là còn tùy thuộc vào những tình tiết, cốt truyện do mỗi người tự tạo ra. Nếu sống tốt thì hệ quả sẽ tốt, và ngược lại. Như một câu nói của Bailey: Khi bạn chào đời bạn khóc, còn mọi người xung quanh cười. Hãy sống sao cho đến khi qua đời, mọi người khóc, còn bạn, bạn cười. Câu nói trên mang ý nghĩa khuyên răn ta nên sống một cuộc đời thật hữu ích, mang đến những điều tốt lành cho mọi người xung quanh. Và như vậy, đến cuối đời, ta sẽ được nhận lại những hạnh phúc đã vun đắp. Khi chào đời bạn khóc, còn mọi người xung quanh cười. Vâng! Tiếng khóc ấy là báo hiệu sự sống của một sinh linh đã hiện hữu trước cuộc đời... Còn nụ cười kia hòa chung vào nước mắt để sự mừng vui, chào đón trở nên ấm áp. Rồi khi qua đời, đến khi kết thúc một cuộc sống của cá thể, mọi người khóc và bạn cười. Đó là tiếng khóc của sự mất mát, thương tiếc, của nỗi xót xa, ngậm ngùi. Đó là nụ cười của ngày ra đi thanh thản, mãn nguyện vì đã sống trọn vẹn một đời người với tất cả những hoạch định, những ước mơ trọn vẹn và niềm hạnh phúc tràn đầy nhất... Tất cả những điều đó chỉ có thể xảy ra khi bạn thật sự là một người sống tốt, tốt với gia đình, tốt với mọi người và hữu ích với xã hội. Hãy sống có mục tiêu, có lí tưởng họp lí, vừa sức và hài hòa giữa các giá trị. Giá trị vật chất, giá trị nhân văn, giá trị tinh thần... phải thực sự hài hòa trong quan hệ tương tác. Còn riêng tôi và bạn, chúng ta hãy đem tài năng và đạo đức của mình để cống hiến cho xã hội, hãy đem tất cả năng lực, trí thức, nhân cách sẵn có để góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Với gia đình, ta sẽ bàng tất cả tình thương và trách nhiệm của tâm hồn, chăm lo cho ba mẹ, ông bà, anh chị em,... Và với riêng bản thân, mỗi chúng ta phải không ngừng rèn luyện, trau dồi năng lực, nhân cách, nghiêm khắc với chính mình.
\Như thế ở thì tương lai xa kia, tôi và bạn sẽ cùng nở một nụ cười “ra đi” trọn vẹn và hạnh phúc nhất
Câu trả lời của bạn: 09:03 22/01/2022
......( tên địa phương), ngày ....tháng .....năm 20..
Kính gửi Bộ trưởng Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi Trường!
Vấn đề khủng hoảng khí hậu là một vấn đề mang tầm vĩ mô trên phạm vi toàn cầu, và có liên hệ trực tiếp đến cuộc sống của từng người dân. Tuy vấn đề này đã được nói rất nhiều và từ rất lâu, nhưng đến nay vẫn chưa giải quyết triệt để. Bởi vậy, nó đã dẫn đến rất nhiều các hậu quả nghiêm trọng. Đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều các thiên tai với sự cường độ lớn. Khiến cuộc sống của người dân phải lao đao, khốn khổ.
Vì thế, hôm nay cháu viết thư này gửi bác để mong có thể góp chút sức mình vào công cuộc bảo vệ môi trường sống trên Trái Đất. Cháu nghĩ rằng, để chống khủng hoảng khí hậu, chúng ta phải đi từ những việc nhỏ nhất. Như không xả rác bừa bãi, trồng nhiều cây xanh, ưu tiên sử dụng các chất liệu có thể tái chế được… Rồi đến những việc lớn hơn nữa, như các nhà máy xử lý sạch chất thải trước khi thải ra môi trường, nghiên cứu các chất liệu thân thiện với môi trường…
Cháu tin rằng, chỉ cần tất cả mọi người cùng nhau chung tay, thì cuộc khủng hoảng môi trường sớm sẽ bị đẩy lùi. Và chắc chắn rằng, nếu được bác quyết liệt chỉ đạo, thì chặng đường này sẽ càng sớm về tới đích. Bởi tất cả mọi người đều tin tưởng vào bác. ( bên dưới ghi tên mình lùi vào phía tay phải nha.!!)
Câu trả lời của bạn: 08:58 22/01/2022
Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được đánh giá là áng “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, được các thế hệ người Việt luôn yêu thích, tự hào.
"Bình Ngô đại cáo" được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, quân Minh buộc phải kí hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo toàn được nền độc lập tự chủ, hòa bình. Nguyễn Trãi (1380-1442) là một anh hùng dân tộc, là người toàn tài hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đồng thời cũng là nhà thơ trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận kiệt xuất, là cây đại thụ đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam.
Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo, một thể văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông báo một chính sách, một sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc, công báo trước toàn dân. Nhan đề tác phẩm có Ý nghĩa là bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô-một tên gọi hàm ý khinh bỉ căm thù giặc Minh xâm lược. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống hình tượng sinh động, gợi cảm.
Bài cáo gồm bốn đoạn. Đoạn đầu nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân-Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” và “Như nước Đại Việt ta từ trước-Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Đoạn thứ hai của bài cáo đã vạch trần, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo giặc Minh ở các điểm: âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát tàn bạo. Đồng thời, đoạn văn cũng nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân, dân tộc ta dưới ách thống trị của kẻ thù: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”; “Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế-Gây binh kết oán, trải hai mươi năm”. Đoạn văn ngùn ngụt Ý chí căm thù giặc và thống thiết nỗi thương dân lầm than. Đoạn văn thứ ba là đoạn dài nhất của bài cáo, có Ý nghĩa như bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn văn đã tổng kết lại quá trình khởi nghĩa. Ban đầu cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, lương thảo, quân sĩ, người tài đều thiếu, nghĩa quân ở vào thế yếu “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi Huyện quân không một đội”, “Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu”, “lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều”…Nhưng nghĩa quân có người lãnh tụ Lê Lợi sáng suốt, bền chí, yêu nước “Ngẫm thù lớn há đội trời chung-Căm giặc nước thề không cùng sống”, biết đoàn kết lòng dân “Sĩ tốt một lòng phụ tử-Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”, dùng chiến thuật phù hợp nên nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng thành “Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh” và ngày càng chiến thắng giòn giã, vang dội “Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim muông”, giặc Minh thì liên tiếp thất bại, thất bại sau lại càng thảm hại hơn thất bại trước, mỗi tên tướng giặc bại trận lại có vết nhục nhã riêng: kẻ treo cổ tự vẫn, kẻ quỳ gối dâng tờ tạ tội, kẻ bị bêu đầu…Đoạn văn thứ ba của bài cáo cũng ca ngợi lòng nhân đạo, chuộng hòa bình của nhân dân, dân tộc ta, tha sống cho quân giặc đã đầu hàng, lại cấp cho chúng phương tiện, lương thảo về nước. Đoạn cuối của bài cáo đã tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định nền độc lập, hòa bình vững bền của đất nước, thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Bài cáo có sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Cảm hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi, mãnh liệt. Giọng điệu của bài cáo rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của dân tộc, khi thì căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù, khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, khi lo lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.
“Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta thế kỉ XV. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn lưu truyền lòng yêu nước tự hào dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam ngày nay đều hào sảng trước những câu văn hùng hồn.
Câu trả lời của bạn: 08:53 22/01/2022
Em: Chị xem bức tranh này em vẽ có đẹp không?
Chị: Để em xem nào! Ồ đẹp đấy. Đường nét mềm mại, màu sắc hài hòa, tươi mát, em có năng khiếu vẽ đấy Trang Nhung ạ!
Em: Có đúng như thế không chị. Hay chị nói động viên em?
Chị: Chị nói thật đấy mà.
Em:Chị ơi! Em rất thích học môn họa. Ngày nào em cũng lén dành một tiếng để vẽ đó. Em giấu không cho ai biết cả. Chị là người ưu tiên ấy.Hôm nay em muốn bàn với chị chuyện này. Khi nào có điều kiện chị thử bàn với bố mẹ cho em đi học thêm môn họa ở nhà văn hóa thiếu nhi của tỉnh. Được không chị?
Chị: Được chứ. Miễn sao em thích và kiên trì thực hiện cho bằng được. Nhân đây chị cũng nói cho em biết. Thời gian dành cho môn họa là nhiều đấy. Mặt khác kinh phí mua đồ dùng học tập cũng tốn kém.
Em: Chỉ cần chị ủng hộ em là em mừng rồi. Em sẽ sắp xếp thời gian hợp lí. Chỉ có tiền mua đồ dùng là em phải nhờ bố mẹ.
Chị: Em yên tâm. Chị sẽ ủng hộ em hết mình.
Em: Em cảm ơn chị nhiều lắm.
Chúc bạn học tốt nhé
Câu trả lời của bạn: 20:46 21/01/2022
Xuất dương lưu biệt là một khúc hát lên đường. Đề tài có tính chất truyền thống, nhưng tư tưởng lại rất mới mẻ. Bài thơ mang âm hưởng lạc quan nên đã khiến cho cảm xúc thể hiện trong bài thơ có chiều sâu, có sức gợi cảm mạnh mẽ. Đây là tráng ca của một vị anh hùng mà suốt đời không hề biết mệt mỏi trong hành động cứu nước thương dân
Chí làm trai trong Lưu biệt khi xuất dương - Mẫu 3
Xuất dương lưu biệt là bài thơ khẳng định chí làm trai và quyết tâm làm nên sự nghiệp lớn cứu nước cứu dân. Đó là sự quyết tâm và ý tưởng mới mẻ của Phan Bội Châu.
Cái chí làm trai mà nhà thơ nói đến trong bài thơ trước hết là “phải lạ ở trên đời”. Đó là một lí tưởng sống, một khát vọng lớn lao. Đấng nam nhi phải làm được những việc lớn lao, phải chủ động xoay chuyển trời đất. Nhà thơ chuyển chữ "ta" thành chứ "tớ". "Tớ" phản ánh được sự lạc quan, trẻ trung. Hai câu thơ trên dường như có chút ngông nghênh nhưng thực ra đã bộc lộ sâu sắc về cái tôi cá nhân tích cực của tác giả. Cái tôi này không những khẳng định trách nhiệm đối với hiện tại, với vận mệnh của đất nước mà còn khẳng định nghĩa vụ với lịch sử. Đó là tư thế của một người có chí khí.
Cái chí làm trai mà Phan Bội Châu nói trong bài thơ khiến chúng ta thấy cảm phục về những con người sống ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với lịch sử, đất nước.
Mỗi con người sống là phải gắn liền với đất nước, dân tộc, biết sống chết cùng dân tộc. Rõ ràng tác giả tuy đang nói về mình nhưng thực chất là tiếng nói đại diện cho cả một tầng lớp, một thế hệ và cao hơn là cả dân tộc. Cách nhìn nhận, suy nghĩ của tác giả là hướng về tương lai phía trước chứ không phải là lối sống hoài niệm. Đây cũng chính là một điểm rất tiến bộ mà thông qua bài thơ Lưu biệt khi xuất dương chúng ta có thể học tập và áp dụng vào thực tế cuộc sống của mình. Xuất dương lưu biệt.
Đoạn kết của bài thơ với hai câu thơ tuyệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn. Con đại bàng đã tung cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại.
Bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bằng chữ Hán, với giọng thơ trang nghiêm hào hùng mạnh mẽ, lôi cuốn đã toát lên một chí khí phi thường không cam tâm làm nô lệ, quyết tâm đi tìm đường cứu nước. Đó không còn là lời nói mà đã biến thành hành động vượt biển Đông của Phan Bội Châu. Bài thơ là một khúc ca hùng tráng kêu gọi lên đường cứu nước mang giá trị khích lệ động viên, tuyên truyền cách mạng không chỉ đối với thế hệ thanh niên ở giai đoạn đó mà còn là lời nhắn nhủ chung đối với thanh niên các thế hệ sau.Xuất dương lưu biệt.
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời
Phải là bậc hào kiệt trên đời này thì mới phát ngôn như vậy. Nội lực mạnh mẽ phi thường. Con người muốn tham gia vào sự vận động của vũ trụ. “Há để càn khôn tự chuyển dời” vừa là câu hỏi tu từ vừa khẳng định, vừa muốn đối thoại với hết thảy các đấng mày râu trên đời này. Nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ về sự tác động của con người đối với vũ trụ như vậy thật tích cực, thật cách mạng. Câu thơ làm nội lực trong mỗi con người trỗi dậy để họ tham gia cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Sau khi tỏ bày quan niệm về chí nam nhi, về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, tác giả nói về trách nhiệm của chính mình với thời đại của mình: “Ư bách niên trung tu hữu ngã, Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”. Hai câu thơ đó được Tôn Quang Phiệt dịch là:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?
Nhận thức về sự hiện hữu của cái “tôi”, trách nhiệm của cái “tôi” đối với thời đại như vậy chẳng khác nào một ngọn lửa giữa đêm đông, một cây tùng giữa băng tuyết. Không phải là cái “tôi” hưởng lạc mà là cái “tôi” hành động, cái “tôi” tham gia vào sự “chuyển dời” của “càn khôn”. “Giữa cuộc sống tối tăm của đất nước lúc đó, có được một ý thức về cái “tôi” như vậy quả là cứng cỏi, đẹp vô cùng.
Còn mối quan hệ giữa con người với muôn thuở thì tác giả lại đặt ra câu hỏi “Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy?” (Sau này muôn thuở há không ai?) Hỏi nhưng thật ra là để khẳng định. Phan Bội Châu có niềm tin vào chính mình, lại càng có niềm tin vào cộng đồng, vào dân tộc. Thơ Phan Bội Châu xói vào tâm can người đọc, kích thích vào ý thức trách nhiệm của mỗi con người, giục giã con người hành động, chuyển dời tự nhiên, chuyển dời xã hội. Đấy chính là thơ của một nhà cách mạng.
Sang hai câu luận, ông càng riết róng hơn về mối quan hệ giữa con người với non sông đất nước, giữa cuộc sống thực tại với sách vở của thánh hiền: Xuất dương lưu biệt:
“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”
(Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.)
Phan Bội Châu sử dụng thủ pháp nhân hóa “non sông đã chết” khiến ta cảm thấy “giang sơn” (non sông) như một sinh mệnh, thật đau lòng.
Non sông đã chết sống thêm nhục
Nhiều nhà Nho thức thời cũng đã nói lên nỗi nhục mất nước, nhưng chưa có ai nói lên một cách triệt để, thống thiết như vậy. Đem sự sống chết của cá nhân mà gắn liền với sự vinh nhục của non sông đất nước thì không còn nghi ngờ gì nữa, Phan Bội Châu là nhà ái quốc vĩ đại. Sách vở của thánh hiền cũng chẳng rửa được vết nhơ nô lệ: Xuất dương lưu biệt:
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Không nên hiểu là Phan Bội Châu phủ định sách của thánh hiền, mà nên hiểu ông đã hành cái đạo của thánh hiền một cách sáng suốt, cái sáng suốt của một nhà cách mạng.
Tóm lại, từ quan niệm sống “ư bách niên trung tu hữu ngã”, trong hai câu luận, tác giả tự dồn mình vào cái thế phải xuất dương cứu nước.
Hai câu kết, tác giả thể hiện trọn vẹn chủ đề Xuất dương lưu biệt
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”,
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).
Hình ảnh đẹp, lãng mạn. “Muốn vượt biển Đông theo cánh gió”, không gian rộng lớn của biển Đông sánh với chí lớn của nhà cách mạng. Câu thơ dịch rất hay, xứng với tinh thần của nguyên tác.
Hình tượng thơ làm hiện lên trước mắt ta hàng ngàn đợt sóng sục sôi , lạ là không vỗ vào bờ mà “nhất tề phi” (cũng bay lên). Hình tượng vừa kì vĩ vừa thơ mộng thể hiện được tinh thần phơi phới, nhiệt huyết, thăng hoa của nhà thơ – nhà cách mạng. Xuất dương lưu biệt
Muốn hiểu được Phan Bội Châu mà chưa đọc được hàng ngàn trang thơ của ông thì trước hết chỉ cần đọc bài thơ Xuất dương lưu biệt. Một bài thơ nhỏ cũng cho ta thấy được chí nam nhi của người anh hùng, thấy được chí lớn muốn dời non lấp bể, thấy được ý thức trách nhiệm của cái “tôi” đối với lịch sử, với dân tộc, thấy được quan niệm sống chết, vinh nhục, thấy được hoài bão lớn lao của một nhà chi sĩ muốn cứu dân cứu nước. Xuất dương lưu biệt
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ này là những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta đã mất chủ quyền, hoàn toàn lọt vào tay thực dân Pháp. Tiếng trống, tiếng mõ Cần Vương đã tắt, báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Phan Bội Châu lúc này mới ba mươi tám tuổi, là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ cách mạng mới, quyết tâm vượt mình, bỏ qua mớ giáo lý đã quá lỗi thời của đạo Khổng để đón nhận tư tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra bước đi mới cho dân tộc, nhằm tự giải phóng mình. Phong trào Đông du được nhóm lên cùng với bao nhiêu hy vọng…
Xuất dương lưu biệt là một khúc hát giục giã lên đường. Đề tài này có tính chất truyền thống, nhưng tư tưởng lại rất mới mẻ. Bài thơ mang âm hưởng lạc quan nên đã khiến cho cảm xúc thể hiện trong bài thơ có chiều sâu, có sức gợi cảm mạnh mẽ. Đây là tráng ca của một vị anh hùng mà suốt đời không hề biết mệt mỏi trong hành động cứu nước thương dân.
Chí làm trai trong Lưu biệt khi xuất dương - Mẫu 4
Những năm đầu thế kỉ XX, đất nước ta một lần nữa lại bị ngoại bang xâm lược; những cuộc kháng chiến nổ ra khắp trong cả nước. Người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu là lá cờ đầu kháng chiến, ông không chỉ có con đường cứu nước mới mẻ mà ông còn để lại một kho tàng văn học lớn, có sức cổ động mạnh mẽ, trong đó không thể không nhắc đến bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương". Bài thơ không chỉ nói lên tinh thần yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc mà còn nói lên "chí làm trai" khác biệt.
Bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" được Phan Bội Châu sáng tác vào năm 1905 giữa tình hình đất nước đang chìm trong ách kìm kẹp của chế độ thực dân. Là người chủ trương trong phong trào Duy Tân, ông tìm đường cứu nước bằng cách sang Nhật. Trước khi xuất dương, ông đã làm bài thơ để gửi tặng những người bạn của mình, cũng để bày tỏ tinh thần yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc của chính bản thân.
"Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di".
(Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời).
Thời phong kiến, chí làm trai tức là phải tề quốc, trị gia bình thiên hạ. Người con trai phải có sự nghiệp, công danh, giúp dân giúp nước. Nhưng với Phan Bội Châu, ông lại muốn "làm trai phải lạ ở trên đời". Cái "lạ" ở đây tức là ông muốn làm những điều khác thường, "xoay chuyển được càn khôn".
Nếu như Nguyễn Công Trứ chỉ ở mức "Chí làm trai nam bắc tây đông/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển", Phạm Ngũ Lão: "Nam nhi vị liễu công danh trái/ Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu" thì Phan Bội Châu lại muốn thay đổi càn khôn, không chịu khuất phục sự sắp đặt trong trời đất. Vần xoay vũ trụ theo ý chí mình, bước qua khỏi ranh giới an toàn, đi tìm một chân trời mới. Nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu mang đến quan niệm về chí làm trai trong thời đại mới, tạo ra một ý tưởng thật lớn lao, mạnh mẽ. Đó cũng là lời khẳng định sức mạnh của con người giữa vũ trụ bao la.
"Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy"
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai?)
Hai câu thơ thực trong bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" của Phan Bội Châu tiếp tục khẳng định cho chí làm trai lớn lao. Không chỉ "xoay chuyển càn khôn" mà chí làm trai còn cần gắn liền với ý thức trách nhiệm với dân tộc.
Từ "tớ" được xem như là một danh xưng của chính tác giả, một ý thức trách nhiệm trước thời cuộc. Từ "tớ" trong câu thơ dịch cũng tạo nên sự ngông nghênh, bộc lộ một cái tôi tích cực. Câu hỏi ngỏ "Sau này muôn thuở há không ai?", Phan Bội Châu đã không chỉ khẳng định được cái tôi trách nhiệm với đất nước mà còn bày tỏ được sự tin tưởng, khát vọng về "khoảng trăm năm", ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước. Tác giả không hướng về riêng quá khứ mà còn là hiện tại, tương lai. Đó cũng chính là bài học dành cho thế hệ trẻ của đất nước, luôn phải có cái tôi mạnh mẽ, dám hi sinh vì dân tộc.
Nếu như trước đây cổng Trạng sân Trình là niềm khát khao, niềm tự hào của rất nhiều người; đặc biệt là đối với nam nhi, đó là con đường gầy dựng sự nghiệp thì giờ đây Phan Bội Châu chỉ còn biết thở dài:
"Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài".
"Non sông đã chết" - câu thơ thật đau lòng làm sao!. Đất nước, non sông giờ đây đang bị giày xéo dưới bước chân của những kẻ ngoại bang. Đối với những người theo Nho giáo như ông, còn gì đau lòng hơn khi sách vở, công danh cũng không giúp gì được cho Tổ quốc. "Hiền thánh còn đâu học cũng hoài" ở đây không phải Phan Bội Châu muốn phủ định đi sách thánh hiền mà là giữa thời cuộc, ông chọn đi theo con đường giải cứu đất nước, đọc sách, thi cử công danh trong thời cuộc ấy có ý nghĩa gì.
Nhà chí sĩ Phan Bội Châu quả là con người có tầm nhìn cao rộng. Với ông, thời khắc ấy không có gì đau lòng hơn là nỗi đau mất đi sự tự do trên chính dân tộc mình. Ông sẵn sàng bỏ đi lợi ích cá nhân để tìm thấy lợi ích chung cho dân tộc. Trong những năm đầu thế kỉ XX, đây quả thực là một quyết định táo bạo, trở thành tư tưởng mới, ánh sáng mới.
"Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi",
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).
Cánh buồm giăng giữa muôn trùng ngàn khơi tạo nên một hình ảnh vô cùng lãng mạn. Ý chí của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu cũng tựa như con thuyền ấy, ra khơi giữa mây ngàn sóng nước, trước mặt với vô vàn thử thách; nhưng ra đi với tâm thế mạnh mẽ; không lo sợ sóng gió.
Câu thơ "thiên trùng bạch lãng nhất tề phi" được dịch nghĩa là "muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi", câu thơ dịch nghĩa chưa sát với nguyên tác, hình ảnh còn bay bổng, lãng mạn hoá; làm giảm đi tinh thần mạnh mẽ, ý chí quyết tâm ra đi cứu nước. Hình ảnh đối lập giữa sự nhỏ bé của con người với sự bao la của vũ trụ tạo nên hình tượng sử thi, tạo nên một bức tranh vô cùng hoành tráng với ước vọng bay lên, tạo nên một chân trời mới. Câu thơ cũng khẳng định sự quyết tâm, tự tin về sự thay đổi trong tương lai.
Trang thơ của nhà ái quốc Phan Bội Châu với hình ảnh đấng nam nhi muốn làm ngược lại với quy luật tự nhiên, cái tôi cá nhân cùng với trách nhiệm với Tổ quốc. Bằng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, giọng văn hào sảng, mạnh mẽ đã tạo nên hình ảnh phi thường của người chí sĩ ra đi cứu nước. Bài thơ đã tạo nên một luồng gió mới trong thơ văn, một vài ca mới trong cuộc chiến chống quân xâm lược Pháp đầu thế kỉ XX.
Chí làm trai của Phan Bội Châu không chỉ có ý nghĩa trong thời điểm ấy mà đến thế kỉ XXI hay mãi mãi về sau, đó là bài học, là tấm gương cho lớp lớp thế hệ về tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm; biết đương đầu với khó khăn, thử thách; loại bỏ cái tôi cá nhân để hoàn thành nghĩa vụ với Tổ quốc.
Câu trả lời của bạn: 19:35 18/01/2022
Kim Tự Tháp Ai Cập, Đền Harmandir Sahib, Đền Mahabalipuram, Lăng mộ Humayun, Cung điện Mysore, Đền Ranakpur, Khu chùa hang Ajanta, Đền Sri Ranganathaswamy, Đền Hoa Sen
Bạn có thể tham khảo đáp án này nhé còn rất nhiều công trình bằng đá cổ nhất của Ấn Độ còn lại đến ngày nay bạn tự tìm hiểu nhé. Chúc bạn học tốt!
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 19:28 18/01/2022
Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Đông Timor, Việt Nam
Câu trả lời của bạn: 19:21 18/01/2022
t
iến trình tiến hóa của loài người vạch ra các sự kiện lớn trong sự phát triển của loài người (Homo sapiens), và sự tiến hóa của tổ tiên loài người. Nó bao gồm giải thích ngắn gọn về một số loài, chi, và các cấp bậc cao hơn của các loài được nhìn thấy ngày nay là tổ tiên có thể có của con người hiện đại.
Biểu thời gian này được tổng kết dựa trên các nghiên cứu nhân loại học, cổ sinh vật học, sinh học phát triển, sinh học hình thái, và từ số liệu về giải phẫu và di truyền. Nó không giải quyết vấn đề nguồn gốc sự sống, mà cuộc thảo luận được cung cấp bởi phát sinh luận, nhưng trình bày một dòng có thể có của nguồn gốc tiến hóa của các loài mà cuối cùng dẫn đến con người hiện đại.
Khác với biểu tượng "cây Haeckel" về lịch sử, bài viết này cung cấp không có phân tích Phát sinh chủng loài học (phylogenetics) để giúp khắc họa sự phức tạp, phi tuyến của sự tiến hóa của loài người. Điều quan trọng là các "dòng dõi có thể có nguồn gốc tiến hóa" không nên được hiểu là cung cấp một tiến trình tuyến tính từ đơn vị phân loại rất sớm để (giả định) đến mục tiêu là Homo sapiens.
Thời gian các sự kiện trong bài tính bằng Ma (Mega annum, triệu năm); hoặc Ka (Kilo annum, ngàn năm) trước đây/trước hiện tại/trước ngày nay (khái niệm "hiện tại"/"ngày nay" tiêu chuẩn trong khảo cổ học được tính mốc là ngày 01/01/1950).
Câu trả lời của bạn: 19:19 18/01/2022
là từ đánh nhé
Câu trả lời của bạn: 19:14 18/01/2022
3000m =3km
diện tích mảnh đất đó là 3.4=12 km2
chúc bạn hok tốt