
Phạm Nguyễn Thanh Ngọc
Đồng đoàn
160
32
Câu trả lời của bạn: 15:54 28/02/2022
chat
Câu trả lời của bạn: 15:52 28/02/2022
Nguyễn Trãi để lại sự nghiệp văn học đồ sộ, giàu giá trị cả về nội dung và nghệ thuật. Trong kho tàng tác phẩm ấy ta không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo vốn được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn. Tác phẩm không chỉ xuất sắc về nội dung mà còn mang những đặc sắc về nghệ thuật.
Tác phẩm được viết bởi Nguyễn Trãi dưới sự chỉ đạo của chủ tướng Lê Lợi sau khi nhân dân ta giành thắng lợi, đánh tan quân Minh xâm lược. Văn bản được viết ra nhằm tuyên bố với toàn dân về việc kết thúc thắng lợi vẻ vang chống quân xâm lăng. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc sau Nam quốc sơn hà. Đồng thời tác phẩm cũng được đánh giá là áng thiên cổ hùng văn tức áng văn chương hùng tráng được lưu truyền đến cả muôn đời sau. Để trở thành một áng văn bất hủ muôn đời như vậy chắc chắn Bình Ngô đại cáo phải có nội dung xuất sắc, lại đồng thời phải có một bút pháp điêu luyện, tài ba. Chỉ khi hội tụ đầy đủ hai yếu tố ấy, thì mới xứng danh áng thiên cổ hùng văn.
Mở đầu tác phẩm, lời văn vô cùng đanh thép, dõng dạc, nêu lên luận đề nhân nghĩa, luận đề này cũng chính là yếu tố chi phối đến nội dung toàn bài :
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nhân nghĩa vốn là khái niệm đạo đức của Nho giáo, để nói về đạo lí, cách ứng xử và tình yêu thương giữa con người với nhau. Ở đây Nguyễn Trãi không chỉ tiếp thu mà còn có sự phát triển đạo lý ấy, tình yêu thương phải được thực hiện bằng những hành động cụ thể: cốt ở yên dân, làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn. Để thực hiện được điều đó cần phải trừng trị những kẻ tham tàn, bạo ngược, những thế lực hắc ám đã phá vỡ cuộc sống bình yên của dân chúng. Như vậy, với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa xuất phát từ nhân dân, vì yêu thương dân chúng, đồng thời nhân nghĩa còn gắn với lòng yêu hòa bình, từ đó nhân nghĩa chính là lòng yêu nước. Đây chính là điểm mới mẻ, tiến bộ của Nguyễn Trãi.
Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trãi còn đầy tự tin, bản lĩnh khẳng định chủ quyền của dân tộc ta, ông không chỉ khẳng định trên phương diện cương vực lãnh thổ, mà còn khẳng định ở những phương diện mang chiều sâu, thuộc về vốn văn hóa, truyền thống của mỗi dân tộc: Như nước Đại Việt ta từ trước/…/ Song hào kiệt đời nào cũng có. Ông sử dụng những từ ngữ hết sức chuẩn xác: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác để khẳng định sự hiển nhiên, vốn có lâu đời của chân lí. Ông là người đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc, đây là một bước tiến không hề nhỏ so với bản tuyên ngôn độc lập trước đó.
Trên cơ sở khẳng định chủ quyền của dân tộc, Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác cũng như âm mưu xâm lược của chúng. Ông đã thật tài tình khi sử dụng các từ nhân, thừa cơ để vạch trần luận điệu bịp bợm, xảo trá của chúng phù Trần diệt Hồ. Chúng lấy cớ phù Trần diệt Hồ mà thực tế là để đàn áp, vơ vét tài sản, của cải của nhân dân ta. Chúng có những hành động vô cùng dã man: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ; thu thuế nặng nề: Nặng thuế khóa sạch không đầm túi, chúng độc ác đến mức còn không tha cho cả những sự vật vô tri: Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,… Tội ác của chúng không chỉ khiến nhân dân căm hận mà trời đất cũng không tha thứ. Đọc từng câu thơ ta cũng thấy xót xa cho thân phận của người dân khi phải chịu đựng ách áp bức của giặc Minh. Bởi vậy, những anh hùng hào kiệt bấy giờ sao có thể khoanh tay đứng nhìn cảnh đồng bào ta phải đổ máu trước lũ giặc ngoại xâm. Người anh hùng Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa trong khi còn gặp vô vàn khó khăn, nhưng bằng sự kiên trì, óc phán đoán sáng suốt ông đã dũng cảm vượt qua mọi trở ngại ấy. Nghĩa quân anh hùng, dũng cảm tiến đánh những vị trí khác nhau khiến kẻ thù sức cùng lực kiệt. Giọng văn, nhịp điệu đoạn thơ trở nên dồn dập, hứng khởi hơn bao giờ hết: Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,/ Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay; Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm/ Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Quân ta đã dành chiến thắng vang dội, điểm sáng ở đây chính là chiến thắng dựa trên tư tưởng nhân nghĩa: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo. Ta giành chiến thắng, không tiêu diệt kẻ thù đến tận cùng, mà vẫn chừa ra cho họ con đường sống: Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng/ Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức/ Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay. Vì nhân dân nên mới khởi nghĩa, trong cuộc khởi nghĩa nhân dân cũng chính là lực lượng nòng cốt. Đến khi tha cho kẻ thù cũng để nhân dân nghỉ sức. Nhắc đến nhân dân với vị trí quan trọng như vậy chỉ xuất hiện trong tư tưởng của Nguyễn Trãi. Nhân dân là cốt lõi trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.
Kết thúc bài đại cáo là lời ngợi ca, là tiếng lòng hoan hỉ tuyên bố chiến thắng và khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa: Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Tác phẩm không chỉ xuất sắc ở nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật. Tác phẩm được coi là áng văn chính luận mẫu mực, với bố cục chặt chẽ, lập luận sắc sảo. Để tạo tiền đề triển khai toàn bộ tác phẩm, Nguyễn Trãi đã nêu luận đề nhân nghĩa ngay khi mở đầu bài cáo, tiếp đến là vạch trần tội ác của kẻ thù; buổi đầu kháng chiến gian lao và thắng lợi vẻ vang của ta; cuối cùng là lời tuyên bố chiến thắng, khẳng định sự chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Để làm nổi bật tội ác của giặc ông đã khéo léo sử dụng nghệ thuật đối lập tương phản: Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng đối lập với Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Ngoài ra sử dụng những hình tượng giàu giá trị gợi tả, gợi cảm: Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,/ Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi. Để vạch trần tội ác man rợ, tàn bạo của kẻ thù. Giọng văn thống thiết, đau đớn, xót xa khi nói về thảm cảnh của nhân dân, lúc đanh thép, mạnh mẽ khi kết tội kẻ thù.
Với sự xuất sắc ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật, Bình Ngô đại cáo xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” của muôn đời. Tác phẩm là áng văn bất hủ về sức mạnh tự lực, tự cường của dân tộc trong quá trình đấu tranh chống lại quân xâm lược, đem lại sự an yên, hạnh phúc cho nhân dân.
Câu trả lời của bạn: 09:58 28/01/2022
1C
2B
Câu trả lời của bạn: 09:57 28/01/2022
học chăm lên là được
Câu trả lời của bạn: 09:55 28/01/2022
hình như là ko
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 15:56 20/01/2022
Trên máy tính, hãy truy cập vào Gmail.
Ở trên cùng bên trái, hãy nhấp vào biểu tượng Soạn thư.
Trong trường "Tới", hãy thêm người nhận. Bạn cũng có thể thêm người nhận: Trong trường "Cc" và "Bcc". ...
Thêm tiêu đề.
Viết thư của bạn.
Nhấp vào Gửi ở cuối trang.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 21:58 09/01/2022
Nguyên tử khối (ma) là khối lượng của một nguyên tử. Đơn vị của nó là đơn vị khối lượng nguyên tử (u) hay đơn vị carbon (đvC) được quy ước là 1 đơn vị carbon thì bằng 1⁄12 khối lượng một nguyên tử carbon-12, ở trạng thái nghỉ.[1] Với nguyên tử, proton và neutron của hạt nhân chiếm hầu hết khối lượng, và nguyên tử khối tính bằng u có giá trị gần bằng số khối của nguyên tử đó.
Câu trả lời của bạn: 21:55 09/01/2022
giúp mình với mình cần gấp
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 21:25 09/01/2022
= 2
Mốt đừng hỏi câu vớ vẫn như vậy nx nhé
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 21:24 09/01/2022
Mảnh đất thủ đô nghìn năm văn hiến - Hà Nội không chỉ có những danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Mà còn có rất nhiều làng nghề truyền thống. Một trong số đó là gốm Bát Tràng.
Làng gốm Bát Tràng bao gồm hai thôn Bát Tràng và Giang Cao, thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm. Làng gốm Bát Tràng cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng chừng 30km về phía Đông Nam. Đầu tiên về tên gọi của làng gốm Bát Tràng có thể hiểu theo nghĩa Hán Việt, “bát” là từ dùng để chỉ đồ gốm, chén bát nói chung còn “tràng” chính là chỗ đất dành riêng cho một lĩnh vực, một chuyên môn nào đó.
Làng gốm Bát Tràng có lịch sử hình thành khá lâu đời, song vẫn chưa có tài liệu nghiên cứu nào cho biết chính xác thời gian ra đời. Theo như “Đại Việt sử ký toàn thư”, làng gốm Bát Tràng bắt đầu ra đời vào dưới thời đại nhà Lý ( khoảng từ những năm 1010 đến 1225). Khi vua Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư của Ninh Bình về Thăng Long (Hà Nội) thì năm dòng họ lớn của xã Bồ Bát thuộc vùng đất Ninh Bình là Trần, Nguyễn, Lê, Phạm Vương đã đưa những nghệ nhân làm gốm giỏi di cư theo và tìm nơi lập nghiệp. Những người dân đó đã chọn Bát Tràng - nơi có đất sét trắng, nguyên liệu chính để làm gốm làm nơi lập nghiệp. Và chính năm dòng họ này đã kết hợp với dòng họ Nguyễn để hình thành nên làng gốm Bát Tràng. Bên cạnh đó cũng có tài liệu khác ghi lại rằng sự ra đời của làng gốm Bát Tràng nhờ vào ba người là Đào Trí Tiến, Lưu Phương Tú, Hứa Vinh Kiều. Sau khi được cử đi sứ, ba người đã ghé thăm vùng gốm nổi tiếng của Trung Quốc và sau đó học hỏi một số kĩ thuật mang về và truyền lại cho nhân dân. Dù có rất nhiều những giai thoại khác nhau xoay quanh nguồn gốc của làng gốm Bát Tràng thì đây vẫn là một làng nghề có truyền thống lâu đời của đất nước ta.
Làng gốm Bát Tràng là một làng nghề truyền thống nổi tiếng về sản xuất gốm. Bởi vậy nên quá trình sản xuất gốm ở làng gốm Bát Tràng luôn có những điểm độc đáo, đặc sắc riêng. Điều quan trọng đầu tiên để tạo nên một sản phẩm gốm chất lượng đó chính là việc lựa chọn đất. Nguồn nguyên liệu chủ yếu để làm gốm đó chính là đất sét trắng. Ngày nay, đất sét trắng để làm gốm Bát Tràng có thể được lấy từ trong làng hoặc từ các vùng khác như Hồ Lao, Trúc Thôn... Sau khi đã lựa chọn được đất sét trắng làm nguyên liệu, các nghệ nhân làm gốm sẽ bắt tay vào việc xử lý, pha chế đất bởi lẽ trong đất sét có lẫn tạp chất và đồng thời việc xử lý đất sẽ tạo ra những nguyên liệu phù hợp đối với từng loại sản phẩm. Ở làng gốm Bát Tràng vẫn tuân theo quy luật xử lý đất truyền thống là thông qua việc ngâm nước ở hệ thống bốn bể nước với các độ cao khác nhau. Đất sét trắng sau khi được xử lý sẽ được đem đi tạo dáng và ở nơi đây người ta tạo dáng bằng tay trên bàn xoay - đây là phương pháp tạo dáng truyền thống từ ngàn đời nay. Bằng đôi bàn tay khéo léo, sử tỉ mỉ, cẩn trọng, những nghệ nhân làng gốm đã tạo ra nhiều loại đồ gốm với những hình dáng, mẫu mã và chủng loại khác nhau. Tạo dáng xong, các sản phẩm sẽ được đem đi phơi sấy và sửa lại theo mong muốn của người làm.
Ở làng gốm Bát Tràng, việc phơi sấy thường được sử dụng là hong khô trên giá và để ở nơi thoáng mát. Nhưng ngày nay, một số người lựa chọn sấy sản phẩm ở trong các lò sấy và tăng nhiệt độ từ từ. Sau khi đã tạo ra được sản phẩm gốm như mong muốn, những nghệ nhân làm gốm sẽ tiến hành trang trí, quét men lên sản phẩm để phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người sử dụng. Cuối cùng, đó chính là nung gốm trong các lò. Và như vậy, trải qua nhiều công đoạn khác nhau, những nghệ nhân làng gốm Bát Tràng đã có thể tạo ra được những sản phẩm gốm độc đáo.
Làng gốm Bát Tràng là một trong số những làng nghề nổi tiếng của nước ta từ ngàn đời nay. Những sản phẩm của làng gốm Bát Tràng luôn nhận được sự ưa chuộng, yêu mến của mọi người không chỉ bởi mẫu mã đa dạng mà còn bởi sự tuyệt vời về chất lượng. Hiện nay, đồ gốm Bát Tràng không chỉ có mặt ở khắp nơi trên đất nước ta mà còn được xuất khẩu ra nhiều thị trường lớn trên thế giới như châu u, Mỹ, Hàn Quốc... Thêm vào đó, nơi đây còn là một địa điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước về tham quan và tự mình nhào nặn nên những sản phẩm đồ gốm tuyệt diệu.
Làng gốm Bát Tràng - một làng nghề nổi tiếng ở Việt Nam. Nơi đây đã góp phần lưu giữ những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Câu trả lời của bạn: 21:20 09/01/2022
Một ngày nọ, ta thấy cuộc sống của mình tươi đẹp biết bao, thấy mọi người xung quanh thật đáng mến và tốt bụng. Khi ta thấy ta đang được nhận quá nhiều, lúc đó là lúc, ta thấy mình cần phải biết ơn.
Mọi người định nghĩa thế nào là biết ơn? Đó đơn giản chỉ là một lời cảm ơn của một cậu bé khi được người lớn cho một chiếc bánh, là giọt nước mắt và sự cảm kích của những người khó khăn khi được giúp đỡ hay một nén hương để tưởng nhớ người đã khuất... Biết ơn, giản đơn chỉ là thái độ, hành động của con người với sự tích cực dành cho người đã giúp đỡ hay cho họ một điều gì đó.
Chúng ta, ngay từ khi sinh ra, đã được nhận, nhận nhiều thứ từ mọi người và cuộc đời. Là một đứa con nhận lấy bao nhiêu tình yêu thương, sự chăm sóc, lo lắng và hi sinh từ bố mẹ, gia đình. Là một công dân đất nước nhận lấy hòa bình, độc lập đánh đổi bởi bao mất mát, xương máu của những thế hệ chưa một lời từ biệt đã ngã xuống. Là một công dân toàn cầu, nhận lấy bao thành tựu khoa học, phát minh để làm tiện lợi, phát triển hơn cuộc sống của con người. Và vô vàn những món quà khác nữa ta nhận được từ cuộc đời. Và, biết ơn là thái độ tất yếu, của một con người.
Biết ơn cha mẹ, gia đình.
Cha mẹ là người cho ta sự sống này, Ngay từ giây phút chúng ta mở mắt ra nhìn cuộc đời, cất tiếng khóc đầu tiên, ta đã mang nợ cha mẹ rồi. Từng ngày lớn lên trong câu hát ru của mẹ, trong lời dạy dỗ của cha, những ân huệ mà mỗi đứa con mang trong mình lại cứ lớn dần, lớn dần. Nhưng có vẻ những phận làm con lại coi đó là điều hiển nhiên: Sự sống thiêng liêng này, hình hài không bị khuyết tật và mái ấm gia đình là điều hiển nhiên họ phải nhận được. Ta thờ ơ với cha mẹ, cáu gắt với những lời quan tâm, quay mặt với những sự nhắc nhở, ... Và rồi, khi ra ngoài cuộc đời, với những con người xa lạ ngoài kia, ta mới nhận ra: chỉ có cha mẹ là người yêu thương ta vô điều kiện. Không ai nhịn đói cho bạn no, không ai chịu bất hạnh cho bạn hạnh phúc, ngoài hai người họ. Không nơi nào sẵn sàng chào đón bạn, ngay cả khi bạn thất bại, ngoài căn nhà. Và thứ ta mắc nợ nhiều nhất, biết ơn nhiều nhất lại chính là cha mẹ. Bởi vậy, vẫn có những ngày “Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ”, những ngày của mẹ, của cha, ngày gia đình.
Biết ơn nguồn cội, những người đã giúp đỡ ta.
Cuộc sống này gây dựng nên từ nỗi đau của những gia đình tan nát, của nỗi mong mỏi mẹ chờ con, sự mòn mỏi vợ chờ chồng và lòng yêu nước của những con người “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Cuộc sống của ta được ghép lên từ những mảnh ghép của tình bạn, của tình thầy trò đã gắn bó, yêu thương và giúp đỡ ta để có một tuổi thơ trọn vẹn. Ở ngoài kia, cũng có những con người dẫu không máu mủ, ruột thịt nhưng vẫn hằng ngày tham gia vào ngày hội đỏ hiến máu, dạy học cho người khuyết tật, suất cơm miễn phí cho người nghèo, ... Những con người không phải ruột thịt, thậm chí còn không quen biết vẫn yêu thương ta, giúp đỡ ta, góp phần làm nên một cuộc sống văn minh và nồng ấm tình người. Những con người ấy, hãy biết ơn. Những gì họ đã làm cho cuộc sống này, cho thế hệ này, hãy nhận nó đến thế hệ sau. Những ngày thương binh liệt sĩ, ngày nhà giáo Việt Nam, ... những cuộc thiện nguyện nghĩa tình, khi biết ơn, tự nó sẽ sống mãi.
Biết ơn những khó khăn, thất bại và cả quá khứ.
Chúng ta có thể chắc chắn mình không làm sai và mọi chuyện đều diễn ra theo ý muốn của mình. Muốn thành công phải nếm mùi thất bại, muốn hạnh phúc phải trải qua khó khăn. Những nỗi đau, vấp ngã ấy, những gì không thể đánh gục bạn, sẽ làm cho bạn trở nên mạnh mẽ hơn. Và sau khi nhìn lại, ta phải biết ơn những khó khăn, thử thách và thất bại đó. Quá khứ là một phần của con người, là nền tảng của ngày mai. Không ai sống mà phủ định quá khứ. Nó đẹp đẽ, hãy biết ơn nhưng nếu nó đầy khổ đau, hãy cứ biết ơn. Vì bạn bây giờ dám nhìn vào quá khứ để trưởng thành, để khôn lớn và để chiến thắng.
Biết ơn là hạt mầm của mọi phẩm chất tốt đẹp trong con người. Biết ơn cha mẹ, người đi trước để làm “nhân”, biết ơn những vết thương đã dạy ta trưởng thành để biết mình đang “sống”, để biết quý trọng cuộc sống và thành công. Nhưng đáng buồn thay những con người vì vật chất và ích kỉ riêng mình mà “khỏi vòng cong đuôi” mà quên mất hai chữ “biết ơn”. Biết ơn để trả lại và cũng để nhận thêm cho mình. Một nụ hôn dành cho mẹ, một cái ôm cho mọi người, một nụ cười trước khó khăn, để thấy bạn đang biết ơn, để trao hạnh phúc đến mọi người.
Ta chỉ có một cuộc đời, vô nghĩa hay không, hạnh phúc hay không, hoàn toàn là thái độ của bạn đối với cuộc đời. Hãy biết ơn.
Câu trả lời của bạn: 21:14 09/01/2022
hỏi đùa mình đấy à
=2
Câu trả lời của bạn: 21:13 09/01/2022
1. Vai trò của động vật trong cuộc sống của con người
- Động vật gắn liền với tuổi thơ con người:
+ Nhiều người từng dành hàng giờ ngồi nhìn lũ kiến "hành quân".
+ Buộc chỉ vào chân cánh cam làm diều.
- Động vật gắn liền với cuộc sống con người:
+ Gà trống gáy o o gọi thức dậy.
+ Mẻ tôm, cá chế biến những món thanh đạm.
- Động vật có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái:
+ Tất cả loài vật đều có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với con người.
+ Mất đi 1 loài cũng tạo vết khuyết trong hệ sinh thái (môi trường sinh tồn của con người).
- Con người cũng chỉ là một loại động vật đặc biệt:
+ Loài khỉ, vượn là tổ tiên con người.
+ Các hành động của chúng rất giống con người.
2. Thực trạng cuộc sống của động vật những năm gần đây
- Số lượng các loài động vật giảm đi rõ rệt, nhiều loài trên nguy cơ tuyệt chủng.
- Môi trường sống của động vật bị con người chiếm lĩnh, phá hoại.
- Nhiều loài bị con người ngược đãi, săn bắt vô tổ chức và tàn sát.
3. Bài học nhận thức cho con người
- Khi hiểu được động vật, con người sẽ:
+ Không phá rừng, chặt cây vì nhu cầu riêng.
+ Không lạm dụng và cướp đi môi trường của chúng.
→ Hãy đặt bản thân vào vị trí của động vật để cảm nhận.
- Hành động con người cần có: Thay đổi, bảo vệ Trái Đất, để động vật cũng có quyền được sống như con người.
➩ Cần đối xử thân thiện với động vật