27.Nguyễn Ngọc Minh Thư 11A2
Đồng đoàn
185
37
Câu trả lời của bạn: 19:58 22/12/2021
- Công nghiệp:
+ Do không bị chiến tranh tàn phá; mặt khác, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước tư bản châu Âu suy yếu, Nhật Bản có nhiều cơ hội để phát triển
=> Những năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ nhất, sản xuất công nghiệp của Nhật Bản phát triển nhanh, mạnh mẽ.
+ Từ năm 1914 - 1919 sản lượng công nghiệp Nhật tăng 5 lần tổng giá trị xuất khẩu gấp 4 lần, dự trữ vàng và ngoại tệ tăng gấp 6 lần.
- Nông nghiệp:
+ Tàn dư phong kiến còn tồn tại đã kiềm hãm sự phát triển của kinh tế nông nghiệp.
+ Giá lương thực, thực phẩm đắt đỏ.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 19:56 22/12/2021
Nhắc đến người con gái Việt Nam, người ta thường nghĩ ngay tới hình ảnh người con gái với áo dài và nón lá. Chiếc nón lá vừa là hình ảnh quen thuộc, gần gũi với người phụ nữ vừa là một biểu tượng văn hóa của một nét đẹp nghìn năm văn hiến.
Thật vậy, ở bất cứ đâu trên đất nước Việt Nam chúng ta đều rất dễ bắt gặp hình ảnh những chiếc nón lá mộc mạc, đơn sơ nhưng nó lại ẩn chứa một vẻ đẹp thuần hậu. Không chỉ đơn thuần là vật dụng che mưa che nắng của người phụ nữ chân quê, mà nó còn là món quà tinh thần ý nghĩa của Việt Nam. Bạn bè quốc tế đến thăm hay khách du lịch đến Việt Nam thì đều được tặng những chiếc nón lá như là một kỉ niệm đẹp và để tỏ lòng mến khách của người Việt.
Nón lá xuất hiện từ khoảng 2500-3000 TCN và được lưu truyền cho đến tận ngày nay. Đối với người phụ nữ Việt thì nón lá là một vật dụng quan trọng trong cuộc sống của họ. Trước hết, nón là dùng để che mưa che nắng. Các bà, các mẹ, các chị từ xa xưa đã đội nón lá đi làm đồng, đi chợ và cả đi chơi hội nữa. Ngày tiễn con gái về nhà chồng, bà mẹ cũng thường trao cho con chiếc nón lá với bao lời nhắn gửi yêu thương.
Không chỉ có tính sử dụng trong thực tế, chiếc nón lá còn hướng tới mục đích làm đẹp, làm duyên cho người phụ nữ Việt. Dưới vành nón lá trắng phau, đôi mắt đen láy, nụ cười chúm chím, lúm đồng tiền, những sợi tóc mai hay cái gáy trắng ngần của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên dáng, e thẹn, vừa kín đáo lại vừa quyến rũ, mê đắm.
Từ trong đời sống thường ngày, chiếc nón lá còn đi vào thơ ca, nhạc họa, gợi nguồn cảm hứng cho nhạc, cho thơ. Đã có không ít những bài hát về chiếc nón lá: “Một chiều làng quê trên đường đê lối nhỏ đi về, nụ cười đưa duyên em thẹn thùng trong nón lá che nghiêng” hay “Một người con gái, đứng nghiêng nghiêng vành nón lá. Đường chiều bờ đê, lối xưa kỉ niệm thiết tha”. Chiếc nón lá còn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần trong thơ: “Quê hương là cầu tre nhỏ/Mẹ về nón lá nghiêng che”. Thế rồi, trong những năm tháng chiến tranh loạn lạc, lúc tiễn người yêu ra chiến trường, cô gái thường đội nón lá với quai tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi cũng đã hơn mọi lời thề non, hẹn biển. Chỉ như vậy thôi cũng đã đủ làm yên lòng người ra trận.
Có thể thấy rằng, xuyên suốt từ bao đời nay, từ trong thực tế cho đến những làn điệu dân ca, những lời thơ, câu văn đều có bóng dáng hình ảnh chiếc nón lá gắn liền với người con gái Việt Nam dịu dàng, duyên dáng. Ngày nay, để tạo ra chiếc nón lá thì người thợ làm nón cần phải có đôi tay khéo léo, có cả tâm tình mới có thể tạo nên được những chiếc nón xinh xắn và thiết kế tỉ mỉ đến như vậy. Nón lá thường được đan bằng các loại lá cây khác nhau như lá cọ, rơm, tre, lá dừa, lá hồ, lá du quy diệp chuyên làm nón v.v. Mỗi một chiếc nón thường sẽ có quai đeo làm bằng vải mềm hoặc lụa. Những người thổi được hồn vào những chiếc nón, làm nên những chiếc nón đẹp tinh tế là những người thực sự có đôi bàn tay khéo léo và có tâm tình chan chứa.
Là một biểu tượng của người phụ nữ Việt, chiếc nón lá gắn liền với cả đời sống vật chất và tinh thần của chúng ta. Đi khắp miền đất nước, hình ảnh chiếc nón lá vẫn luôn là hình ảnh chúng ta dễ bắt gặp hơn cả. Đó vừa là nét đẹp bình dị, mộc mạc, duyên dáng của người phụ nữ Việt, vừa là một biểu tượng văn hóa của một đất nước trọng tình trọng nghĩa của nước Nam ta. Biểu tượng ấy đã góp phần làm nên một vẻ đẹp rất Việt Nam.
Câu trả lời của bạn: 19:50 22/12/2021
rồi đó nha
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 19:47 22/12/2021
Cấu trúc 1: Dành bao nhiêu thời gian để làm gì
S + spend + Khoảng thời gian + V.ing = It + take + (sb) + Khoảng thời gian + to + V
Cấu trúc 2: Các từ, cụm từ chỉ nguyên nhân (bởi vì)
Since, As, Because + S + V + …
= Because of, Due to, As a result of + Noun/ V-ing
Cấu trúc 3: Cấu trúc quá… để làm gì
S + be + too + adj/adv + to + V = S + be + so + adj + that + S + can’t + V
Cấu trúc 4: Các từ, cụm từ chỉ sự trái ngược (tuy nhiên)
Although/ Though/ Even though + S + V + …
= Despite/ In spite of + Noun/ V-ing
Cấu trúc 5: Cấu trúc quá… đến nỗi mà
S + be + so + Adj. + that … = It + be + such + Noun + that
Cấu trúc 6: Cấu trúc câu cảm thán
S + be + adj = What + a/an + adj + N! = How + adj + N + be!
Cấu trúc 7: Không đáng để làm gì
There's no point in + Ving = It's no good/ no use +Ving =It' not worth + Ving
Cấu trúc 8: Chuyển đổi câu điều ước
- Câu điều ước ở tương lai:
I + wish + someone + would + V
- Câu điều ước ở hiện tại
S + wish + someone + V2/ed
- Câu điều ước ở quá khứ:
S + wish + someone + had + V3/ed
Cấu trúc 9 : Cấu trúc the first time/ the last time (lần đầu tiên/ lần cuối cùng)
S + last + V2/Ved + time + ago = The last time + S + V2/Ved + was + time + ago
Cấu trúc 10: Cấu trúc mãi cho đến khi…
S + didn't + V (bare) + …. until … <=> It was not until + … + that + …
Cấu trúc 11: Began/ started
S + began/ started + to V/ V-ing + [thời gian] ago <=> S + have/has + V3/-ed hoăc been + V-ing + since/for …
Cấu trúc 12:
S + should/ought to/had better + V … <=> It's (high/about) time + S + V2/-ed
Cấu trúc 13: Các câu đề nghị tương đồng
Shall we + V <=> Let's + V <=> How/What about + V-ing <=> Why don't we + V
Cấu trúc 14: Câu tường thuật dạng bị động
People say that + S + V…
It is said that + S + V…
S + be said to + V hoặc to have V3/ed
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 19:41 22/12/2021
Kinh tế châu Phi vẫn đang còn nhiều lạc hậu. Nền kinh tế phát triển theo hướng chuyên môn hóa phiến diện, phụ thuộc nhiều vào thị trường nên dễ bị thiệt hại khi kinh tế thế giới biến động. Đô thị hóa diễn ra nhanh nhưng chủ yếu là tự phát
Câu trả lời của bạn: 20:54 10/12/2021
Khí hậu châu á phân hóa đa dạng thành nhiều đới là do:
-khí hậu phân hóa thành nhiều đới khacs nhau do: lãnh thổ trải dài từ vùng cực đến xích đạo
-phân hóa thành nhiều kiểu khí hậu khác nhau do:vị trí địa lí tùy thuộc vào gần hay xa biển và do lãnh thổ rộng núi và sơn nguyên cao ngăn ảnh hưởng của biển xâm nhập vào đất liền
Câu trả lời của bạn: 20:53 10/12/2021
câu A
Câu trả lời của bạn: 20:53 10/12/2021
1. we/cook/a great dinner/tonight
=>We will cook a great dinner tonight.
2. where/go/on holiday/next month
=>Where are you going to go on next summer holiday?
3.how /you/go/school/tomorrow
=>How do you do go to school tommorrow
4. can/move/this table/ into/ the room/please
=>Can you move the table into the room please?
Câu trả lời của bạn: 20:51 10/12/2021
Tình yêu đối với môn Ngữ Văn của em đến rất tình cờ. Em là một cô học trò nhỏ có niềm đam mê với ngoại ngữ. Khi lên đến cấp hai, niềm đam mê đấy vẫn rất mãnh liệt trong em, cho đến khi em được học bài “Sự giàu đẹp của tiếng Việt” thì lòng nhiệt huyết của em lại cháy cho một môn học khác – môn Ngữ Văn.
Hôm đấy là một ngày nắng chói chang hiếm hoi của ngày cuối thu. Tiếng trống trường vang lên như thường lệ để báo hiệu tiết học mới bắt đầu. Như thường lệ, cô giáo vào lớp mang theo một nụ cười tươi tắn trên môi và bắt đầu kiểm tra bài cũ. Lớp chúng em là lớp chọn nên việc kiểm tra bài cũ luôn luôn làm cô mãn nguyện vì tinh thần học tập của các bạn trong lớp.
Sau khi kiểm tra bài cũ xong, cô giáo bắt đầu giảng bài mới. Bài học hôm đấy của lớp em là bài “Sự giàu đẹp của tiếng Việt”. Để bắt đầu tiết học, cô giáo đã truyền cảm hứng cho bọn em bằng câu mở đầu vô cùng xúc động: “Chúng ta đang sống trong thời kỳ hội nhập, các em được tự do tìm hiểu hứng thú với nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau. Các em có thể dễ dàng học tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Đức… và cảm thấy ngôn ngữ đấy mang đến cho các em niềm hưng phấn muốn chinh phục. Nhưng có ai nhớ rằng, tiếng Việt của chúng ta cũng rất giàu đẹp, để giữ được thứ ngôn ngữ ấy, cha ông ta đã phải trải qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đã đổ xuống mảnh đất này biết bao nhiêu máu và nước mắt. Tiếng Việt là ngôn ngữ thiêng liêng bởi nó mang trong mình dòng máu của các anh hùng, là ngôn ngữ cao đẹp vì nó đại diện cho lòng yêu nước của cả dân tộc, là ngôn ngữ cao quý bởi nó là kết tinh của cả một nền văn hóa hàng ngàn năm lịch sử mà cha ông ta đã đúc kết được và phát huy đến ngày nay”. Nghe cô giảng bài mà mắt em bỗng ươn ướt, đây là lời kết tội đanh thép nhất đối với con bé sính ngoại như em. Có lẽ cũng bị ảnh hưởng bởi những câu nói xúc động của cô giáo mà lớp học im phăng phắc. Em còn nhớ rất rõ, hôm đấy cô giáo cũng đặc biệt khác mọi ngày. Cô dường như say mê hơn, cô như đang hồi tưởng lại một trang quá khứ hào hùng của dân tộc để truyền hết mọi tình yêu tiếng Việt cho chúng em. Bài giảng ngày hôm đấy của cô giống như một tiết học về lòng yêu nước được thể hiện thông qua từng con chữ.
Niềm đam mê văn học của em có lẽ cũng được bắt nguồn từ tiết Ngữ Văn ngày hôm đấy. Sau này, mỗi lần đến giờ học môn Ngữ Văn là em lại cảm thấy tràn đầy nhiệt huyết và chờ mong. Em chờ mong sự đa dạng của ngôn ngữ tiếng Việt. Em khao khát tìm hiểu sự giàu đẹp trong từng con chữ, và em say mê tìm hiểu về lịch sử của nó. Có lẽ em phải đặc biệt cảm ơn nhà văn Đặng Thai Mai và cô giáo của em đã mang đến cho em một niềm say mê lớn như vậy. Cho đến bây giờ niềm say mê ấy đối với từng con chữ vẫn đang cháy bỏng.
Câu trả lời của bạn: 20:50 10/12/2021
Nền văn hóa nông nghiệp của người Nam Bộ gắn liền với các vật dụng sinh hoạt làm từ mây, tre,… mang nét đẹp bình dị, mộc mạc. Có lẽ vì thế mà ở Bình Dương đã sớm hình thành một làng nghề truyền thống, chuyên sản xuất các sản phẩm đồ gia dụng từ mây và tre nứa.
Có dịp du lịch Bình Dương và ghé qua thị xã Tân Uyên, bạn sẽ bắt gặp những làng nghề làm mây tre đẹp, công phu và độc đáo. Đa phần những làng làm mây tre đan ở đây đều làm thủ công, mỗi sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật tinh xảo, được làm nên từ đôi tay điệu nghệ đầy kinh nghiệm của những người thợ.
Sản phẩm mây tre đan ở Tân Uyên rất đa dạng, gồm có thúng, mẹt, quạt, lẵng hoa quả, khay để bàn và cả hoành phi, câu đối,… Với mỗi chủng loại, người Bình Dương đều cố gắng sáng tạo nên nhiều mẫu mã đa dạng, vừa giúp khách hàng có nhiều lựa chọn, vừa phần nào làm tăng giá trị sản phẩm khi tung ra thị trường.
Đến làng nghề mây tre đan ở Tân Uyên, bạn có thể chọn mua nhiều sản phẩm gia dụng về sử dụng hoặc làm quà tặng. Ảnh: maytrethanhloc.com
Dù ngày nay, cuộc sống hiện đại với nhiều vật dụng có chất liệu sang trọng, nhưng không vì thế mà sản phẩm mây tre đan ở Tân Uyên thất sủng. Ngược lại, với vẻ đẹp công phu cùng chất liệu bền đẹp, làng nghề truyền thống này vẫn rất “ăn nên làm ra”, lúc nào cũng có khách đến mua hàng.
Câu trả lời của bạn: 20:49 10/12/2021
Nam Cao là người hay băn khoăn về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với con người. Ông thường dễ bất bình trước tình trạng con người bị lăng nhục chỉ vì bị đày đọc vào cảnh nghèo đói cùng đường” (Nguyễn Đăng Mạnh). Với tấm lòng nhân đạo ấy, Nam cao đã khước từ thứ văn chương lãng mạn đế đến với dòng văn học hiện thực. Đây cũng chính là nơi Nam Cao đã kí thác toàn bộ những tâm tư tình cảm, triết lí nhân sinh của mình về cuộc đời, con người. Hàng loạt các tác phẩm đã ra đời nhằm “minh oan”, “chiêu tuyết” cho những con người bị miệt thị một cách bất công: Chí phèo, Một bữa no, Lang Rận, Tư cách mõ... Trong đó Chí Phèo là một tác phẩm tiêu biểu nhất của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám, viết về đề tài người nông dân nghèo và đánh dấu một bước phát triển đáng kế của văn xuôi Việt Nam. Có thể nói nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm là một điển hình nghệ thuật về người nông dân nghèo từ lương thiện sa vào tha hóa rồi lại rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người nhưng luôn cố vẫy vùng để đến với ánh sáng của thiên lương. Chi tiết để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người đọc đó chính là mối tình giữa Chí Phèo và thị Nở. Mối tình có một không hai trong làng văn Việt Nam khiến ta phải đọc rồi suy ngẫm rất nhiều về tình người trong cõi nhân thế.
Chí Phèo tự lúc nào đã đi vào trang văn Nam Cao và rồi lại từ trang văn Nam Cao bước ra. Nhân vật điển hình đến mức gấp sách lại ta vẫn thây day dứt về một anh Chí vốn hiền lành lương thiện thế nhưng do sự áp bức ghê gớm cùa bọn chúa đất, thực dân đã khiến anh trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. Tưởng chừng Chí Phèo đã bị tha hóa hoàn toàn với một tâm hồn chai đá, những hành động mất lí trí, bị hủy hoại cả về nhân tính lẫn nhân hình, bản chất lương thiện bị che lấp. Nhưng trong trái tim anh vẫn len lỏi một thứ ánh sáng nhiệm mầu, đó chính là ánh sáng của lương tri. Nam Cao là thế đó. Ông không bao giờ để nhân vật của mình chìm trong bóng tối mà luôn để nhân vật trượt trên mặt phẳng nghiêng”, luôn cố vùng vẫy để thoát khỏi cái thế giới của con thú trở về với thế giới con người. Ranh giới ấy rất mong manh và vô cùng khó khăn. Liệu Chí có thể thực hiện được không? Ai sẽ là người giúp anh làm được điều này? Thị Nở ?Chính thị Nở là người hé mở cánh cửa để Chí trở về với ánh sáng của lương tri. Đọc đoạn văn này người đọc vô cùng sảng khoái trước nghệ thuật phân tích nội tâm tâm lí nhân vật rất tinh tế của Nam Cao.
Nhưng cái hay của Nam Cao không chỉ là những đoạn văn phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo mà còn là Nam Cao đã xây dựng được một nhân vật hết sức ấn tượng – thị Nở một người ngấn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn nhưng lại có một sức hút, sức hút của tình người đã kéo Chí về với ánh sáng nhân tâm. Nếu ta vẽ một chân dung thj Nở riêng biệt chắc ta phải hoảng hốt bỏ chạy vì cái “dung nhan” ấy. Nhưng nếu ta vẽ hình ảnh của thị với nồi cháo hành nghi ngút khói trên tay đem đến cho Chí khi hắn đang đói cào ruột bởi “trận thổ đêm qua”, khi hắn đang buồn bã cô đơn nhất, đang “thèm khát người” nhất, đang đau khổ tuyệt vọng nhất… thì hình ảnh ấy rung động người đọc biết bao! Đó là sự rung động của nhân tâm rất tự nhiên, rất vô tư không hề “sợ hãi” như những người dân khác ở làng Vũ Đại mỗi khi gặp Chí và cũng không hề tính toán thiệt hơn. Thị không biết tính toán và cũng chẳng cần tính toán. Cái nghĩa tình có ai tính toán bao giờ. Tình cảm của thị thô mộc, nguyên sơ khiến ta cảm động quá!
Chính Nam Cao cũng không thể kìm lòng trước vẻ đẹp ấy. Nên ở trang văn này, ta bắt gặp những đoạn miêu tả khung cảnh thiên nhiên rất đỗi thơ mộng. Đó là những ánh sáng dịu hiền của trăng, trăng in cái bóng dáng xệch xạc, méo mó của Chí Phèo trên đường làng, trăng trên vườn chuối, hình ảnh cả hai ngủ say dưới trăng… Và trong khung cảnh ấy ông đã ghép một đôi tâm sự rất xứng đôi: Chí Phèo – thị Nở. Đương nhiên hai con người ấy có ngôn ngữ tâm sự riêng của họ, ta không bàn đến mà chi biết rằng: từ sau cái đêm trăng thanh gặp thị, Chí Phèo đã nhận thầy một thứ thèm khát (không phải thèm rượu) đang sôi sục lên trong anh đó chính là sự mong muốn làm người. Niềm mong muốn ấy được Nam Cao miêu tả một cách tỉ mỉ, tinh tế những thay đổi rất tinh vi từ trong từng tế bào của Chí.
Điều đầu tiên nhà văn để cho Chí nhận ra thực tại của mình qua hình ánh cái túp lều. Đó là cái túp lều ngoài bờ sông (thuộc đất lưu không) mà anh đã phải đánh đổi bằng máu, bằng lương tri, làm tay sai cho bá Kiến mà có được ấy. Một cái túp lều ẩm thấp, tối tăm: “Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”. Đây không phải nơi ở của con người, nó là địa ngục trần gian mà Chí đang chết dần chết mòn trong đó. Vậy mà chưa bao giờ Chí Phèo nhận thay thế bởi Chí Phèo chưa bao giờ hết say. Đây là lần đâu tiên Chí nhận ra cái hiện thực cay đắng phũ phàng ấy.
Tiếp đó, nhà văn để cho Chí Phèo cảm nhận được những thanh âm của cuộc sống: tiếng chim ríu rít, tiếng trò chuyện của các người buôn hàng, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá… Những âm thanh quen thuộc đó ngày nào chả có. Nhưng đã bảy, tám năm trời nay, từ khi ra khỏi tù, lúc nào Chí cũng chìm trong cơn say thì làm sao Chí nghe được. Cuộc đời của anh là những cơn say dài mênh mông, vô tận, “tràn từ cơn say này sang cơn say khác…” đến mức “…Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say…Hắn làm tấtcả trong lúc người hắn say…”. Thế đấy, đã bao giờ hắn tình để mà nghe những thanh âm của cuộc sống thường nhật chứ. Đây là lần đầu tiên sau một giấc ngủ dài Chí nghe thấy những thanh âm ấy. Những thanh âm của cuộc sống giản dị đã thức kéo thiên lương trong anh, lòng anh bỗng mơ hổ buồn. Chao ôi buồn rồi lại nao nao buồn! Cái buồn đó cứ như một cơn gió lúc thì ổ ạt lúc thì nhẹ nhàng. Bằng bút pháp phân tích nội tâm sâu sắc, tinh tế, Nam Cao đã mô tả quá trình thức tỉnh lương tri của Chí Phèo theo trình tự logic biện chứng.
Nhận ra được thực tại, đón nhận được giọt âm thanh của cuộc đời, nhà văn để cho Chí nhớ về quá khứ “hình như có một thời hắn đã ao ước có một gừ đình nho nhỏ, . chồng cuốc mướn cày thuê vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Cái ước mơ chân chính, nhỏ nhoi nhưng sao lại quá khó đối với Chí. Rồi Chí nhìn về hiện tại và tương lai “Chí Phèo hình như đã trông thấy tuổi già của hắn; đói rét, ốm đau và cô độc Chí sợ cô độc nhất. Khi đã sợ cô đơn là lúc con người ta cô đơn nhất và khao khát sự sum vầy. Nhưng Chí vốn là con hoang, không gia đình, không nhà cửa, không họ hàng thân thích. Hắn lại là con quỷ dữ trong mắt người dân ở làng Vũ Đại, không ai chấp nhận hắn chứ đừng nói đến chuyện sum vầy.
Và khi Chí đang nhìn về tương lai đen tối kia với tâm trạng cô độc, sợ hãi, cũng may là thị Nở đến nếu không thì Chí khóc mất. Thị Nở bước vào cùng với bát cháo hành, một hình tượng đẹp nhất, một chi tiết nghệ thuật đem đến nhiều mĩ cảm. Chí Phèo ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì mắt Chí ươn ướt. Có lẽ vì đây là lần đầu tiên Chí được một người đàn bà cho ăn, bởi vì xưa nay Chí vẫn phải “dọa nạt hay giật cướp” của người khác thì mới có được. Nhưng thứ thị ho Chí không đơn giản chì là bát cháo hành mà còn là một tình yêu thương mộc mạc , là sáng soi rọi vào sâu thẳm tâm hổn Chí làm bừng lên chất người trong anh, làm cho anh khát khao trở về lương thiện, “thèm làm hòa với mọi người”. Nhìn bát cháo hành bốc khói, nhìn nụ cười tình tứ của thị, Chí vừa vui mà vừa buồn, ta thây được sự ăn năn và hạnh phúc từ trong nụ cười của Chí. Cầm bát cháo húp, mồ hôi đổ ra những giọt to như giọt nước nhưng Chí vẫn cười, vẫn đắm say trong niềm hạnh phúc mà bát cháo hành mang lại. Ôi! Nếu không có bát cháo hành kia liệu ta có thấy được nụ cười của Chí không hay chỉ thấy sự lưu manh hung tàn của một con quỷ dữ? Bát cháo hành là sức mạnh của tình yêu nồng thắm, là biểu tượng của tình người duy nhất ờ làng Vũ Đại. Nếu đặt trong mối tương quan với nhân vật bà Ba vợ bá Kiến – người đàn bà đẹp nhât làng nhưng lại là “con quỷ cái” (bà ta chỉ biết lợi dụng Chí, kêu Chí lên bóp chân, lúc ấy anh chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì), thì thị Nở rất đẹp. Vẻ đẹp của tình nghĩa nguyên sơ. Quả thật, thị Nở Thị Nở càng xấu, tác phẩm lại càng hay! Đó là một thành công tuyệt vời của Nam Cao khi ông đã xây dựng được một hình tượng Tất thú vị.
Trước sự chăm sóc của thị, lòng Chí bỗng trở nên trẻ con. Chí làm nũng với Thị như với mẹ vậy. Chí muốn làm người lương thiện “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao”. Đó là lời kệ, lời miêu tả nội tâm Nam Cao hay đó chính là tiếng lòng thẳm sâu của Chí? Chỉ có điều là nó bị vùi lấy bảy, tám năm trời nay. Hôm nay nó đã trở về. Chính thị Nở đã dánh thức lòng thèm khát lương tri của Chí. Nói cho cùng đây là sự kết duyên của hai tâm hồn đồng điệu. Tuy Thị Nở xấu xí nhưng tâm hồn lại đẹp. Chí Phèo đã bị tha hóa nhưng vẫn còn bản chất lương thiện của người nông dân. Và khi bản chất ấy sống dậy là khi Chí khao khát gia đình” Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Như thế này mãi nghĩa là Chí muốn có cuộc sống bình yên và hạnh phúc không chỉ riêng bên Thị Nở mà còn bên mọi người. Cái tình yêu của Thị và Chí nói đúng nghĩa hơn là vừa cho vừa nhận” Đó là cái lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có lòng yêu của người chịu ơn”.Mối tình của Chí Phèo Thị Nở quả thực là”đôi lứa xứng đôi”. Nhưng dụng ý của Nam Cao không dừng lại ở đây. Nếu cứ để Chí và Thị sống hạnh phúc bên nhau thì đâu còn là hiện thực phê phán nữa. Mối tình định mệnh của Chí chỉ diễn ra chóng vánh trong năm ngày. Đó là năm ngàu hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Chí, là năm ngày Chí được sống trong sự chăm sóc bởi tay một người đàn bà. Và khi hắn đã đến cái dốc bên kia của cuộc đời rồi, hắn mới cảm nhận được mùi thơm của cháo hành” trời ơi cháo mới thơm làm sao”Mùi vị cháo thơm hay đây lòa vị ngọt của cuộc đời ? Hay là tấm lòng săn sóc của Thị Nở? Hình ảnh thị Nở cũng trở nên đẹp đẽ từ việc chăm sóc Chí Phèo bằng bát cháo hành. Hình ảnh ấy gợi cho ta cái không khí đầm ấm của gia đình nông thôn xưa, thế nhưng họ lại vấp phải rào cản lớn nhất : ” Bà cô thị Nở”” Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo” Bà đại diện cho định kiến khắt khe cổ hủ của xã hội phong kiến đã làm đầy tràn li bi kịch của Chí, đẩy Chí Phèo đến tận cùng của tuyệt vọng, cắt đứt cái cầu nối cuối cùng không cho Chí hòa nhạp với cộng đồng . Khi bị cự tuyệt, hắn bỗng nhiên ngẩn người, Hắn sửng sốt, đứng lên gọi lại”Hắn đuối theo thị”. Hoàn toàn vô vọng Chí cố uống rượu đế say, để tìm quên đau khổ. Nhưng “càng uống lại càng tỉnh”; “hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoảng thoảng thấy hơi cháo hành, hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Nam Cao đã thật tinh tế thật sâu sắc khi miêu tả những biến đổi tâm trạng của nhân vật. Từ tâm trạng ấy, ta thấy những khát khao chân chính của Chí. Nhưng khi lương tri đã trở về lại là lúc bi kịch ập đến. Đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Nếu ta đánh giá cao tài năng của Nam Cao trong nghệ thuật miêu tả, phân tích nội tâm nhân vật và đặc biệt là nghệ thuật thắt nút – tháo nút – thắt nút trong tác phẩm thì chính đoạn văn miêu tả mối tình Chí – thị là sự tháo nút của nhà văn nhưng lại là để lần thắt nút cuối cùng giải quyết toàn bộ xung đột bằng hành động quyết liệt của Chí ở cuối tác phẩm.
Đó là hành động đi đòi lương thiện của Chí. Trong tận cùng đớn đau tuyệt vọng, trong cơn khát thèm lương thiện, mơ ước gia đình, Chí đã tìm đến nhà bá Kiến (kẻ đã cướp đi đời lương thiện của Chí) không phải đế rạch mặt ăn vạ hay xin đi tù đế có chỗ trú thân như mọi lần mà là để đòi lương‘ thiện : “Tao muốn làm người lương thiện”. Thế nhưng, Chí không còn đường nào khác, khi anh nhận ra được một bi kịch: “Không được! Ai cho tao lương thiện, làm thế nào mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa . Biết không ?”. Chí nói rất dõng dạc câu nói đòi quyên làm người và đó cũng Bà những tiếng kêu tuyệt vọng của Chí. Bởi trong cái xã hội “Chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) ấy, quyền sổng chính đáng của con người không được chấp nhận. Vậy nên chỉ có một cách: giết bá Kiến và tự sát. Hành động của Chí Phèo như là một quy luật tất yếu . Nó không đơn giản là hành động trả thù cá nhân mà là hành động trả thù giai cấp. Bị đè nén, bị áp bức nhiều thì họ phải đứng lên chống lại. Nhưng hiện thực lúc bấy giờ, giết bá Kiến rồi Chí Phèo cũng chỉ có một con đường chết. Đó cũng chính là kết cục chung của các tác phẩm hiện thực phê phán: nhân vật hoặc lâm vào ngõ cụt không lối thoát , hoặc là chết. Cái chết của Chí để lại thương tâm cho người đọc. Không ít người lên án, cho rằng Nam Cao quá nhẫn tâm hoặc gắn cái hạn chế cho nhà văn. Nhung không phải thế, yêu thương sâu sắc người nông dân, gắn bó máu thịt với cuộc sống của họ.Nam Cao chắc sẽ rất đau trước cái chết của Chí. Nhưng thời đại ấy, không thể viết khác được. Đó là hạn chế của thời đại chứ không phải của nhà văn.
Tác phẩm khép lại là hình ảnh thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và đâu đó hiện ra một cái lò gạch bỏ hoang (nơi Chí Phèo ra đời). Hình ảnh ấy tạo cho tác phẩm kết cấu vòng tròn, đầu cuối tương ứng đổng thời cũng gọi ra cái vòng luẩn quẩn tối tăm của người nông dân nghèo. Hiện thực xã hội cũng lại phơi bày ,Lại một quy luật “tre già măng mọc”: Chí Phèo chết sẽ có một Chí Phèo con ra đời, Bá Kiên chết rổi nhưng còn trăm ngàn bá Kiến khác… Biết khi nào người nông dân mới thoát khỏi bốì cảnh ây? Đó là trăn trớ của nhà văn, là sự day dứt của người đọc. Trang văn Nam Cao bề ngoài lạnh lùng nhưng bên trong chan chứa tấm lòng nhân hậu, nhân đạo, nhân văn cao cả là vậy.
Tóm lại đoạn văn miêu tả tâm trạng, sự đổi thay, những khát khao và cả cái bi kịch dẫn đên thảm kịch của Chí là đoạn văn thành công nhất của Nam Cao. Có thể coi đây là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Chí. Là đoạn văn thế hiện lòng yêu thương con người và cả lòng tin tưởng vào “thiện căn” ở con người Nam Cao. Cũng từ đó mà tác phẩm thêm sức sông kì diệu, tô đậm hơn giá trị hiện thực và làm ngời sáng giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Đến đây ta có thể mạnh dạn mà đồng tình với một ý kiến của ai đó khi nói “Nếu không viết Chí Phèo, Nam Cao đã để lại cho văn học Việt Nam một khoảng trống lớn”. Đúng vậy qua Chí Phèo, Nam Cao đã đóng góp cho dòng văn học hiện thực phê phán nói riêng và văn học Việt Nam nói chung một tiếng nói nhân đạo, một nhân vật mang tính điển hình cho người nông dân trước Cách mạng bị tha hóa, lưu manh hóa nhưng luôn dám đấu tranh để chống lại bất công. Nỗ lực không ngừng, cái tâm – cái tài của Nam Cao đã được chi nhận xứng đáng: “Trong văn hóa Việt Nam, với ngòi bút Nam Cao ta bắt đầu thấy thật có sự sống, thật có con người trong truyện ngắn” (Nguyên Hồng).
Câu trả lời của bạn: 20:47 10/12/2021
Số mol của nguyên tử lưu huỳnh là: nS =2/32
Câu trả lời của bạn: 20:46 10/12/2021
Fe2O3 + 3CO ----> 2Fe + 3CO2
0,05 0,1 (mol)
CuO + CO ----> Cu + CO2
Fe + 2HCl ----> FeCl2 + H2
0,1 0,1 (mol)
=> mFe2O3 = 0,05.160 = 8 (g)
=> %Fe2O3 = 8.100168.10016= 50%
=> %CuO = 100 - 50 = 50%
Câu trả lời của bạn: 20:44 10/12/2021
Tổng của chiều dài, chiều rộng là:
630 : 2 = 315 (m)
Chiều rộng là:
315: (3+2)×2=126 (m)
Chiều dài là:
315 – 126 = 189 (m)
Đáp số: Chiều dài : 189m ; chiều rộng: 126m
Câu trả lời của bạn: 20:42 10/12/2021
CÂU D
Câu trả lời của bạn: 20:41 10/12/2021
1111111111111111111