
vanh09092011
Bạc đoàn
380
76
Câu trả lời của bạn: 18:55 17/12/2021
1. Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước, chặn thế mạnh của giặc.
2. Tấn công quyết liệt.
3. Đánh phủ đầu quân xâm lược khi chúng chưa kịp hành động, phản công nhanh chóng và quyết liệt ngay khi bị kẻ thù tiến công.
4. Sự kết hợp khéo léo giữa tiến công và phòng ngự tích cực.
5. Vận dụng tài tình sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với công tác chính trị và hoạt động ngoại giao.
Câu trả lời của bạn: 18:50 17/12/2021
Tiến trình tiến hóa của loài người vạch ra các sự kiện lớn trong sự phát triển của loài người (Homo sapiens), và sự tiến hóa của tổ tiên loài người. Nó bao gồm giải thích ngắn gọn về một số loài, chi, và các cấp bậc cao hơn của các loài được nhìn thấy ngày nay là tổ tiên có thể có của con người hiện đại.
Biểu thời gian này được tổng kết dựa trên các nghiên cứu nhân loại học, cổ sinh vật học, sinh học phát triển, sinh học hình thái, và từ số liệu về giải phẫu và di truyền. Nó không giải quyết vấn đề nguồn gốc sự sống, mà cuộc thảo luận được cung cấp bởi phát sinh luận, nhưng trình bày một dòng có thể có của nguồn gốc tiến hóa của các loài mà cuối cùng dẫn đến con người hiện đại.
Khác với biểu tượng "cây Haeckel" về lịch sử, bài viết này cung cấp không có phân tích Phát sinh chủng loài học (phylogenetics) để giúp khắc họa sự phức tạp, phi tuyến của sự tiến hóa của loài người. Điều quan trọng là các "dòng dõi có thể có nguồn gốc tiến hóa" không nên được hiểu là cung cấp một tiến trình tuyến tính từ đơn vị phân loại rất sớm để (giả định) đến mục tiêu là Homo sapiens.
Thời gian các sự kiện trong bài tính bằng Ma (Mega annum, triệu năm); hoặc Ka (Kilo annum, ngàn năm) trước đây/trước hiện tại/trước ngày nay (khái niệm "hiện tại"/"ngày nay" tiêu chuẩn trong khảo cổ học được tính mốc là ngày 01/01/1950).
Câu trả lời của bạn: 21:51 15/12/2021
Hai năm qua, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp đã gây tổn hại lớn về sức khỏe và tính mạng của người dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế-xã hội và mọi mặt của đời sống nhân dân. Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo về tăng cường công tác phòng, chống dịch (PCD), chăm lo đời sống, bảo vệ sức khỏe nhân dân và phát triển kinh tế-xã hội; ban hành kịp thời nhiều chính sách hỗ trợ người dân và doanh nghiệp gặp khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, các ban, bộ, ngành, các địa phương và nhân dân cả nước đã chủ động, kịp thời, tích cực thực hiện các biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt như giãn cách, cách ly xã hội, “chiến lược vaccine”, “vaccine và biện pháp 5K” để phòng, chống, ngăn chặn dịch, bước đầu đã thu được một số kết quả tích cực. Với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân là trên hết, trước hết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ra Lời kêu gọi gửi đồng bào, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài về công tác phòng, chống đại dịch Covid -19.
Cán bộ, học viên Học viện Quân y xung kích lên đường vào miền Nam chống dịch. Ảnh: VĂN CHIỂN.
Hưởng ứng Lời kêu gọi của đồng chí Tổng Bí thư về phòng, chống đại dịch Covid-19, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và đồng bào ta ở nước ngoài đã đoàn kết “toàn dân tộc muôn người như một” đồng lòng cùng Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành triển khai nhiều giải đồng bộ, quyết liệt ngăn chặn, từng bước đẩy lùi dịch bệnh. Không chỉ nhân dân ta, mà đồng bào ta ở nước ngoài và cả hệ thống chính trị một lần nữa phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái nỗ lực cao nhất trong công tác PCD. Cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, ban chỉ đạo PCD Covid-19 từ Trung ương tới cơ sở đã quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, tập trung cao nhất trí tuệ, công sức, thời gian, ưu tiên mọi nguồn lực, chủ động nắm chắc, dự báo và kiểm soát tốt tình hình; không lơ là, chủ quan, không để bị động, bất ngờ trong ứng phó với diễn biến mới của dịch bệnh; linh hoạt, sáng tạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các biện pháp để dập dịch.
Cùng với lời kêu gọi của đồng chí Tổng Bí thư, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra lời kêu gọi "Toàn dân đoàn kết, ra sức phòng, chống dịch Covid-19". Đáp lại lời kêu gọi đó, đến nay, đã có nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cán bộ, công nhân viên, người lao động, các nhà hảo tâm, nhân dân và đồng bào ta định cư ở nước ngoài đang tích cực quyên góp, ủng hộ chiến dịch PCD và Quỹ vaccine PCD Covid-19. Sự ủng hộ, quyên góp của mỗi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm đã góp phần hỗ trợ, cổ vũ, động viên to lớn, tiếp thêm nguồn lực để cùng cả nước quyết tâm chiến thắng đại dịch. Tinh thần đại đoàn kết đó đã và đang lan tỏa tinh thần cả nước chung tay PCD “không để ai lại phía sau”. Đồng thời, nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm của nhân dân, chung ý chí, vững niềm tin, tích cực chủ động tham gia cùng các lực lượng chức năng PCD. Qua đó, đã góp phần kiềm chế, ngăn chặn sự bùng phát của dịch bệnh; chăm lo đời sống, bảo vệ sức khỏe nhân dân góp phần thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép” vừa đảm bảo PCD hiệu quả vừa phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước.
Đặc biệt, kể từ đợt bùng phát dịch lần thứ 4, nhất là ở TP Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam khiến nhiều người nhiễm Covid-19, đời sống nhân dân, người lao động gặp khó khăn, nhiều bệnh nhân bị tử vong. Trước tình hình đó, với tinh thần “tất cả vì miền Nam ruột thịt”, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Y tế và các tỉnh, thành phố phía Bắc đã kịp thời điều động nhân lực, vật lực chi viện cho “tâm dịch”, cử hàng chục nghìn cán bộ, chiến sĩ, bác sĩ, điều dưỡng tham gia trên tuyến đầu chống dịch. Tất cả cán bộ, chiến sĩ, bác sĩ, điều dưỡng tham gia chống dịch đều an tâm tư tưởng, xác định rõ nhiệm vụ, không ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Lực lượng vũ trang được tăng cường cùng với đội ngũ bác sĩ, điều dưỡng “tinh nhuệ" trong và ngoài quân đội đã kịp thời cứu chữa bệnh nhân, cung cấp lương thực, thực phẩm, “đi chợ thay” tại các khu cách ly tập trung và bệnh viện điều trị bệnh nhân Covid-19. Cùng với đó là sự góp của, góp công của nhân dân cả nước về lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, khẩu trang y tế... để ổn định đời sống nhân dân, cùng với lực lượng tuyến đầu quyết tâm dập dịch trong thời gian sớm nhất.
Điều đó cho thấy, trước đại dịch Covid-19 đầy cam go, phức tạp, tinh thần đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được Đảng ta khơi dậy và phát huy mạnh mẽ. Với tinh thần đoàn kết, cả nước góp sức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đồng lòng, thống nhất ý chí và hành động, cùng với sự ủng hộ của đồng bào ở nước ngoài, sự giúp đỡ chí tình của bạn bè quốc tế, nhất định Việt Nam chúng ta sẽ chiến thắng đại dịch Covid-19, góp phần xứng đáng vào sự nỗ lực chung của toàn nhân loại vì một thế giới an toàn, lành mạnh, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và thịnh vượng.
Câu trả lời của bạn: 21:45 15/12/2021
Xac định nghĩa của các từ miệng và từ sườn trong các câu sau va phan chia các nghĩa ấy thành nghĩa gốc và nghĩa chuyển
a, miệng cười tươi , miệng rộng thì sang , há miệng chờ sung , trả nợ miệng , miệng bát , miệng túi , nhà có năm miệng ăn
b, sương sườn , sườn núi , hích vào sườn , sườn nhà , sườn xe đạp , hở sườn , đánh vào sườn địch
Câu trả lời của bạn: 21:42 15/12/2021
"Mày có bạn thân không? Câu hỏi khá là quen thuộc. Câu trả lời là có, không, nhiều lắm… Đấy là tùy thuộc vào mỗi người. Còn câu trả lời của tôi là “đã từng”. Tôi đã từng có một người bạn thân, thân thiết như chị em trong nhà. Nhưng một căn bệnh quái ác đã mang bạn tôi đi khỏi vòng tay của gia đình, bạn bè và tôi, một cách đột ngột và đau đớn", đoạn đầu bài văn mở ra dòng ký ức về một tình bạn đẹp nhưng buồn.
Quỳnh Giang kể lại ngày đầu làm quen với bạn từ năm lớp 4 vì một con gấu bông, hay cảm giác hụt hẫng vào năm cuối tiểu học vì nghĩ không còn được học chung với nhau nữa. Tuy nhiên, việc tiếp tục chung lớp khiến những năm tháng cấp hai của em trở nên nhiều màu sắc. Là người sống nội tâm, Giang dần mở lòng hơn với thế giới nhờ người bạn thân năng nổ, hoạt bát, hay cười. Cả hai giúp nhau học bài, cùng sáng tác truyện tranh, gắn với nhau như hình với bóng.
Đến năm lớp 9, bạn của Giang lâm bệnh, nghỉ học cả tháng, sụt cân và ngày càng tiều tụy. Lần đầu tiên Giang chứng kiến sự đoàn kết của tập thể, khi cả lớp thay phiên chép bài, giảng bài, cố giúp bạn vượt qua kỳ thi cuối kỳ. Tuy nhiên, một lần tới nhà thăm bạn, Giang hoang mang vì câu nói: "Có lẽ là bọn mày nên chuẩn bị sẵn tinh thần đi. Tao không nghĩ là tao qua được Tết năm nay đâu".
Dù hết lòng cầu nguyện, không có phép màu nào cho người bạn của Giang. Em ra đi vào ngày mồng ba Tết năm ngoái. Giang bị khủng hoảng một thời gian, học tập sa sút, kết quả thi học sinh giỏi không như mong đợi. Nhưng nghĩ đến người bạn phải từ biệt thế gian quá sớm, Giang như được tiếp thêm sức mạnh, nỗ lực cho kỳ thi chuyển cấp.
Câu trả lời của bạn: 21:40 15/12/2021
Vào lúc 3 giờ sáng ngày 10/8/1945, chính phủ Nhật Bản gửi cho Mỹ, Anh, Trung Quốc và Liên Xô bản đề nghị xin chấp nhận đầu hàng vô điều kiện theo Tuyên bố Postdam. Nguồn: Ảnh tư liệu
(Thanhuytphcm.vn)- Cách đây 76 năm, vào ngày 15/8/1945, Nhật hoàng Hirohito đã đọc bài Diễn văn Gyokuon-hōsō trên đài phát thanh, bài diễn văn có nội dung tuyên bố Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh. Đây là sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng trong lịch sử nhân loại, đặt một dấu chấm hết cho cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai, khép lại cuộc chiến tranh khủng khiếp nhất, tổn thất nhiều nhất bởi nó liên quan đến 72 Quốc gia với 1,7 tỷ người tham gia, 110 triệu quân tham chiến, ước tính có 70 - 85 triệu người trên khắp thế giới đã thiệt mạng vì bị tàn sát, bị đánh bom hàng loạt, bị bệnh tật và chết đói, nhiễm phóng xạ, thiệt hại vật chất lên tới 316 tỷ USD…
Trong số những cuộc chiến đẫm máu, đau thương tại Thế chiến thứ hai, có thể kể đến vụ Trân Châu Cảng, vụ thả bom nguyên tử xuống hai Thành phố Hiroshima và Nagasaki trên mặt trận châu Á - Thái Bình Dương.
Mặt trận châu Á - Thái Bình Dương là một trong những bộ phận hợp thành cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai (1939-1945). Mặc dù không sánh được với cuộc chiến châu Âu, đặc biệt là cuộc chiến tranh Xô - Đức, về mức độ tập trung binh lực và vai trò quyết định đối với Thế chiến thứ hai, nhưng chiến tranh Thái Bình Dương diễn ra trên bình diện lớn, gồm nhiều cường quốc tham gia, và có ảnh hưởng tới vận mệnh của đa số các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi có số dân chiếm quá nửa nhân loại.
Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra lúc 7 giờ 55 phút sáng ngày 7/12/1941 (giờ Hawaii), khi Nhật không tuyên chiến mà bất ngờ tập kích Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) trên đảo Hawaii, đánh chìm và làm hỏng 19 tàu chiến, diệt 2.300 lính Mỹ. Cú đánh trộm này gây thiệt hại chưa từng thấy cho nước Mỹ, Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt gọi ngày 7/12 đen tối ấy là “một ngày ô nhục”!
Khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, do đã kí với Nhật “Hiệp ước trung lập” (13/4/1941), Liên Xô đã đứng ngoài cuộc chiến. Sau này, ở Hội nghị Ianta, theo đề nghị của Mĩ, Anh, Liên Xô đã chấp thuận tham gia chiến tranh chống Nhật 3 tháng sau khi chiến tranh kết thúc ở châu Âu.
Ngày 8/12/1941, Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt ra trước cuộc họp Quốc hội tuyên bố Mỹ tuyên chiến với Nhật. Ba ngày sau ông tuyên chiến với Đức và Ý.
Chính phủ Mỹ nhanh chóng tổng động viên toàn dân tham gia chiến tranh, chuyển ngành công nghiệp khổng lồ của họ sang thực hiện nhiệm vụ sản xuất và cải tiến vũ khí, tăng cường lực lượng quân đội. Nhờ đó lực lượng Mỹ dần dần mạnh lên và từ cuối 1943 bắt đầu giành thế chủ động.
Ngày 7/5/1945, nước Đức phát xít đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Châu Âu im tiếng súng. Thất bại của Đức khiến Nhật không còn chỗ dựa, đồng thời báo trước nước Nhật quân phiệt cũng sẽ nhanh chóng hứng chịu kết cục thua cuộc như vậy.
Nhưng phát xít Nhật vẫn điên cuồng chống trả Đồng Minh. Mặt trận châu Á - Thái Bình Dương mỗi ngày vẫn ầm vang bom đạn.
Tháng 6, Nội các Nhật họp, phái chủ chiến chiếm đa số quyết tâm “Bản thổ quyết chiến” (quyết chiến trên đất nước mình), “chiến đấu đến người Nhật cuối cùng”.
Ngày 26/7/1945, Tuyên ngôn Potsdam chính thức công bố. Máy bay Mỹ thả xuống khắp đất Nhật hàng triệu tờ truyền đơn in Tuyên ngôn này bằng tiếng Nhật.
Ngày 15/8/1945 trở thành dấu mốc ghi dấu sự kiện quan trọng trong lịch sử nhân loại khi Nhật hoàng Hirohito tuyên bố trên đài phát thanh chấp nhận đầu hàng quân Đồng minh. Nguồn: Ảnh tư liệu
Trong bản Tuyên ngôn có đoạn viết: “Chính phủ Nhật phải tuyên bố toàn bộ quân đội Nhật lập tức đầu hàng vô điều kiện”, “Bất cứ sự lựa chọn nào khác đều chỉ có thể dẫn đến sự huỷ diệt nhanh chóng và toàn diện của nước Nhật”. Mệnh lệnh Nhật phải đầu hàng vô điều kiện đã ban ra; không hàng có nghĩa là nước Nhật tự chọn con đường hủy diệt nhanh chóng hơn, bi thảm hơn.
Nhưng dưới sức ép của nhà vua và quân đội, Thủ tướng Suzuki Kantarō đã không trả lời yêu cầu của Tuyên ngôn Potsdam.
Ngoại trưởng Nhật Bản Mamoru Shigemitsu ký văn kiện Nhật Bản đầu hàng trên tàu USS Missouri với sự giám sát của tướng Richard K. Sutherland, ngoài khơi vịnh Tokyo, ngày 2/9/1945
8 giờ 15 sáng ngày 6/8/1945, chiếc siêu pháo đài bay kiểu B-29 có tên Enola Gay từ độ cao 10 nghìn mét thả một trái bom Urani 235 (có tên gọi là Litte boy) xuống Thành phố Hiroshima, nơi có trụ sở Bộ Tư lệnh miền Nam và nhiều nhà máy quân sự Nhật. Vụ nổ có sức công phá tương đương 15.000 tấn thuốc nổ TNT (63 TJ), bầu không khí bị đốt nóng đến 7.0000C, cả thành phố thực sự trở thành một biển lửa. Hậu quả do “Litte Boy” gây ra cực kỳ nặng nề. Khiến hơn 140 nghìn dân thiệt mạng.
Ngày 8/8/1945, Liên Xô tham gia tuyên chiến chống Nhật.
Rạng sáng ngày 9/8/1945, một ngày sau khi tuyên bố tình trạng chiến tranh với Nhật, quân đội Liên Xô từ bốn hướng ồ ạt tấn công Đạo quân Quan Đông của Nhật ở Mãn Châu (Đông Bắc Trung Quốc). Trong khi đó, Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô cũng đổ quân vào Bắc Triều Tiên, tấn công miền Nam đảo Xakhalin và quần đảo Curin.
Lán Khuối Nậm – Pắc Bó, Cao Bằng – Nơi Hội nghị Trung ương lần thứ 8 họp từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941
11 giờ 2 phút cùng ngày, quả bom nguyên tử thứ 2 (có tên gọi là Fat Man) được thả từ máy bay ném bom B-29 Bockscar rơi xuống Nagasaki, bom có sức công phá tương đương với 21 kiloton thuốc nổ TNT. Khiến khoảng 70 nghìn người chết.
Hai quả bom Litte Boy và Fat Man đã hủy diệt 2 Thành phố Hiroshima, Nagasaki và làm chết hàng chục vạn thường dân vô tội (theo thống kê của Nhật Bản, số người chết ở Hiroshima là 247.000 người và Nagadaki là 200.000 người, chưa kể những người bị nhiễm xạ chết sau này) chỉ vì Chính phủ Nhật chần chừ chưa tiếp thu Tuyên ngôn Potsdam với lý do “chưa dự kiến đầy đủ” tình hình.
Trước những đòn tấn công như vũ bão khiến rất nhiều người vô tội bỏ mạng, quân đội hoang mang, thất thế trên chiến trường, 10 giờ sáng ngày 9/8/1945, theo lệnh triệu tập của Nhật hoàng, Hội đồng tối cao chỉ đạo chiến tranh đã họp khẩn cấp để đưa ra cách ứng phó.
Vào lúc 2 giờ 30 phút sáng ngày 10/8/1945, Nhật hoàng Hirohitô quyết định chấp nhận và thông qua giải pháp do Thủ tướng Suzuki đề xuất: Chấp nhận Tuyên bố của Hội nghị tứ cường (Liên Xô, Mỹ, Anh, Trung Quốc) tại Postdam, đầu hàng quân Đồng Minh với điều kiện nước Nhật không bị chiếm đóng; quân đội Nhật tự rút lui khỏi những nơi chiếm đóng và tự giải giáp…
Sáng ngày 10/8/1945, Bộ Ngoại giao Nhật Bản thông qua Đại biện lâm thời Thụy Sĩ tại Nhật chuyển công hàm xin chấp nhận Tuyên ngôn Potsdam với nội dung chính: Nhật sẵn sàng chấp nhận tất cả các điều khoản trong Thông cáo Potsdam; nếu Hoàng gia cùng chủ quyền quốc gia Nhật không bị bất kỳ tổn hại nào, Nhật sẽ lập tức chấp nhận Thông cáo đó vô điều kiện. Công hàm của Nhật được Đại biện lâm thời Thụy Sĩ gửi đi Stockholm (Thụy Điển) và Bern (Thụy Sĩ).
Đình Tân Trào – Nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Quốc dân Đại hội từ ngày 16-17/8/1945, quyết định khởi nghĩa và bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng
Ngày 15/8/1945, Đoạn băng ghi âm tuyên bố đầu hàng Đồng Minh của Nhật hoàng Horohito được phát sóng trên Đài NHK (là Đài phát thanh duy nhất của Nhật Bản đương thời), phát vào đúng chính ngọ (12h) ngày 15/8/1945. Chiến tranh Thế giới thứ hai đến đây đã được đặt dấu chấm hết.
Sau việc thừa nhận Tuyên bố Postdam tới toàn dân, Chiếu thư còn viết: “…Tình trạng giao chiến đã trải qua 4 năm. Sự chiến đấu dũng cảm của những tướng lĩnh, binh sĩ Lục quân, hải quân, sự quên mình của hàng triệu dân chúng mặc dù đã tận lực, nhưng cục diện chiến tranh vẫn không thay đổi theo hướng tốt, và cũng không thể nói rằng tình hình thế giới có lợi cho đất nước chúng ta.
…Nếu tiếp tục chiến tranh, thì không chỉ mang lại sự diệt vong của dân tộc chúng ta, mà còn phá hoại nền văn minh của loài người”[1].
Ngày 2/9/1945, nghi lễ đầu hàng của quân phát xít Nhật trước quân Đồng Minh được thực hiện trên chiến hạm USS Missouri (BB-63) của Hải quân Mỹ. Tại đó, Ngoại trưởng Nhật Bản Mamoru Shigemitsu đại diện cho các quan chức chính phủ Nhật Bản ký đã văn kiện chấp nhận đầu hàng trước sự giám sát của tướng Mỹ Richard K. Sutherland đại diện cho lực lượng Đồng Minh, chính thức kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai.
Việc đánh bại chủ nghĩa quân phiệt Nhật là kết quả của cả một quá trình chiến đấu nhiều năm của các nước Đồng Minh và nhân dân các nước bị Nhật thống trị. Chiến thắng của quân đội Liên Xô cùng các lực lượng chống phát xít Nhật đã tạo cơ hội quý giá cho các dân tộc đang rên xiết dưới ách cai trị của quân đội Nhật vùng lên giành độc lập, tự do. Thất bại của quân đội Nhật trên các chiến trường, sự đầu hàng của Nhật hoàng “đã đẩy quân Nhật đang chiếm đóng ở Đông Dương vào tình thế tuyệt vọng như rắn mất đầu”.
Tại Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương do đã được chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức đã biết nắm bắt thời cơ, nhân cơ hội Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, tổ chức phát động toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa. Sự chuẩn bị kĩ lưỡng ấy đã được thực hiện ngay từ khi Đảng ra đời vào năm 1930 đến năm 1945, với những mốc son quan trọng, những sự kiện đánh dấu bước phát triển cách mạng cả về chất và lượng, tiêu biểu như:
Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng diễn ra từ ngày 6 - 9/11/1940 tại làng Đình Bảng (huyện Từ Sơn, Bắc Ninh). Hội nghị đã nêu rõ: Cuộc chiến tranh thế giới ngày càng lan rộng, đế quốc Pháp đã bại trận, phát xít Nhật thừa cơ mở rộng chiến tranh, giành lấy những thuộc địa của Pháp, Anh, Mỹ ở Viễn Đông. Hội nghị nhận định: “Cuộc đế quốc chiến tranh này rất có thể chuyển biến thành cuộc chiến tranh giữa đế quốc với Liên Xô”.
Hội nghị chỉ ra, kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là đế quốc Pháp - Nhật, đồng thời quyết định hai vấn đề cấp thiết trước mắt: vấn đề thứ nhất, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích, dùng hình thức vũ trang công tác, xây dựng cơ sở cách mạng, khi cần thiết thì chiến đấu chống địch khủng bố, tiến tới thành lập căn cứ du kích, lấy vùng Bắc Sơn, Võ Nhai làm trung tâm, do Trung ương trực tiếp chỉ đạo.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 diễn ra vào tháng 5/1941, quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt trận Việt Minh) lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Hội nghị chỉ rõ: phương pháp cách mạng là “cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”. Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.
Tháng 10/1944, trong “Thư gửi đồng bào toàn quốc”, Bác Hồ đã nhận định: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng Minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”.
Người tiên đoán, phát xít Nhật, Đức, Ý bị quân Đồng minh đánh bại. Quân Đồng minh sẽ kéo vào Đông Dương, giải giáp vũ khí của quân Nhật. Ta phải tổng khởi nghĩa, giành chính quyền, ra mắt Chính phủ Lâm thời, Tuyên ngôn độc lập, trước khi quân Đồng Minh kéo vào nước ta. Những nhiệm vụ mới đặt ra “phải làm nhanh” là phát triển Đảng, mở rộng Mặt trận Việt Minh, rời căn cứ cách mạng từ Cao Bằng xuống Tuyên Quang, Thái Nguyên, chuẩn bị tiến về Hà Nội, chuẩn bị triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân Việt Nam, cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng (Chính phủ lâm thời cách mạng), cử ra Ủy ban Khởi nghĩa, lập Ủy ban Quân sự cách mạng, lập đội quân chủ lực cùng với quân địa phương, quân du kích, thời cơ đến, đồng loạt khởi nghĩa, giành chính quyền trên toàn quốc.
Cuối năm 1944, khi Hồng quân Liên Xô phản công phát xít Đức, Italia, giải phóng các nước Đông Âu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra nhận định: “Bây giờ tình hình phát triển cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời kỳ khởi nghĩa toàn dân chưa đến. Cho nên nếu chỉ hoạt động trong vòng chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào tiến tới, nhưng nếu phát động khởi nghĩa ngay thì sẽ bị quân địch làm cho nguy khốn. Đã đến lúc một cuộc đấu tranh phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự, nhưng lúc này chính trị vẫn trọng hơn quân sự, cần phải tiến hành hình thức đấu tranh thích hợp thì mới có thể đưa cách mạng tới thành công”[2].
Ngay trong đêm ngày 9/3/1945, khi hay tin Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, đã khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, sau đó họp tiếp tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh), đã ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào ngày 12/3/1945. Chỉ thị xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt của nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật, do đó phải thay đổi khẩu hiệu “đánh đuổi Nhật, Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật” chống lại chính quyền Nhật và chính phủ bù nhìn của bọn Việt gian thân Nhật.
Bản Chỉ thị cũng đã vạch rõ những điều kiện về cuộc khởi nghĩa Đông Dương “Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cao trào ấy có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị phá phách cho đến những hình thức cao hơn như biểu tình thị uy võ trang, du kích…”, đồng thời “sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện”. Với tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Chỉ thị là “phải hành động ngay, hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạp chủ động táo bạo”.
Tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật, cứu quốc diễn ra mạnh mẽ, trước sự tiến công của Mặt trận Việt Minh, bộ máy chính quyền tay sai bị suy yếu, bất lực và đi đến tan rã từng bộ phận.
Đặc biệt là sau khi tin tức Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh lan truyền trong toàn quốc. Ngọn lửa yêu nước và cách mạng bốc cao chưa từng thấy trong các tầng lớp nhân dân. Chính quyền bù nhìn Bảo Đại - Trần Trọng Kim “như dây leo giàn mục, chực đổ vì gió lớn” vốn đã rệu rã, nay càng tê liệt. Từ ngày 8/8/1945, nội các Trần Trọng Kim đã tan rã do các bộ trưởng từ chức.
Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập Hội nghị toàn quốc (từ 13-15/8/1945) họp tại Tân Trào (Tuyên Quang), nhận định thời cơ đã đến, quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân đồng minh vào. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc để kịp thời chỉ đạo thống nhất phong trào khởi nghĩa các địa phương. Ủy ban Khởi nghĩa ra quân lệnh số 1: “Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà... Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta”.
Tiếp ngay sau đó, Đại hội Quốc dân cũng họp ở Tân Trào (ngày 16/8/1945), nhất trí tán thành quyết định Tổng khởi nghĩa, bầu Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, thông qua một số chính sách quan trọng của Mặt trận Việt Minh.
Khắp nơi trên đất nước ta, những cuộc mít tinh, biểu tình thị uy vũ trang do Việt Minh tổ chức có tới hàng nghìn, hàng vạn người tham gia diễn ra liên tục trước mắt quân đội Nhật và chính quyền bù nhìn. Hàng triệu quần chúng sẵn sàng đứng lên tham gia, ủng hộ Việt Minh giành chính quyền. Các tầng lớp trung gian đã nhận rõ bộ mặt của phát xít Nhật và tay sai, ngả hẳn về với cách mạng. Chỉ trong vòng nửa tháng (từ 14 - 28/8/1945), cuộc Tổng khởi nghĩa thành công hoàn toàn.
Nhờ sự tính toán chuẩn bị kĩ lưỡng trước đó, mà sự kiện Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đã trở thành thời cơ có một không hai, là thời cơ mang tính quyết định của cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân, kết quả được xem là nhân chứng lịch sử hùng hồn nhất là mốc son lịch sử mang tên Cách mạng Tháng Tám, cuộc cách mạng đem lại độc lập và tự do cho dân tộc Việt Nam.
Câu trả lời của bạn: 21:39 15/12/2021
1. Bối cảnh lịch sử và diễn biến cuộc Tổng khởi nghĩa
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng.
Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.
2. Nguyên nhân thắng lợi
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
- Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước; một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc.
- Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh.
3. Ý nghĩa lịch sử
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền.
- Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
4. Một số bài học kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học quý báu, nổi bật là:
Bài học thứ nhất là có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.
Bài học thứ hai là vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Bài học thứ ba là vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13-8-1945. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.
Câu trả lời của bạn: 21:20 14/12/2021
Bài học chớp thời cơ và vận dụng thời cơ - nghệ thuật của đấu tranh cách mạng
73 năm trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám, đánh đổ thực dân, phong kiến; thành lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một trong những yếu tố góp phần làm nên thắng lợi to lớn là bài học về chớp thời cơ và vận dụng đúng thời cơ cách mạng.
Bài học về chớp thời cơ và vận dụng đúng thời cơ
Để có thể tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cả một quãng thời gian dài vô cùng gian khó của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí lãnh đạo tiền bối tiêu biểu như: Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn, v. v… cùng các lực lượng khác như: Công nhân, trí thức, tư sản yêu nước, nông dân, phụ lão, phụ nữ, thanh niên… hoạt động cách mạng trước đó gần hai chục năm, kể từ đầu năm 1925, khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc mở các lớp huấn luyện chính trị và thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc)[1].
Tính từ năm 1925 cho đến năm 1945 là 20 năm chuẩn bị. Nhưng khi thời cơ đến, những chiến sỹ cách mạng tiên phong đã thổi bùng lên tinh thần yêu nước vô cùng mãnh liệt của toàn thể dân tộc Việt Nam, quyết rũ khỏi kiếp bùn đen nô lệ, áp bức; đập tan xiềng xích kìm kẹp, áp bức, bóc lột của phong kiến, thực dân; giành lại độc lập, tự do của toàn thể dân tộc Việt Nam. Từ khi “Mệnh lệnh khởi nghĩa” (ngày 12/8/1945)[2] và “Quân lệnh số 1” (ngày 13/8/1945)[3] của Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu Giải phóng tại Tân Trào (Tuyên Quang) được phát đi, cho đến khi Tổng khởi nghĩa thành công trên cả nước, ngày 28/8/1945, và Lễ Độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 2/9/1945, đã diễn ra trong 22 ngày.
Mất 20 năm dày công chuẩn bị để thực hành thành công trong 22 ngày. Và sự thành công ấy chính là do những người lãnh đạo cuộc cách mạng đã chớp được đúng thời cơ và vận dụng đúng thời cơ.
Thời cơ ấy là gì?
Thứ nhất, đó là bắt đầu từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật Bản đã bị thua to trên hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến II, nên phải gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị ngừng bắn. Bằng nhãn quan chính trị nhạy bén, tầm nhìn chiến lược, nắm bắt thời cuộc kịp thời, đồng chí Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã nhóm họp ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngay sau cuộc họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa” đã được phát ra.
Chiều tối ngày hôm sau, 13/8/1945, đang trong lúc Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp để nhận định tình hình, phân công nhiệm vụ chỉ đạo khởi nghĩa vụ trang, thì tiếp tục nhận được thêm một tin rất quan trọng, đó là phát xít Nhật đã bại trận và chuẩn bị đầu hàng quân Đồng minh. Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc; đồng thời soạn thảo “Quân lệnh số 1”. Đến 23 giờ đêm cùng ngày, bản “Quân lệnh số 1” hoàn thành và được phát đi ngay, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.
Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima của Nhật Bản, đồng chí Hồ Chí Minh đề nghị họp Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào. Hội nghị đã nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”. Trên cơ sở đó, đồng chí Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”[4].
Tại sao lại phải tiến hành Tổng khởi nghĩa ngay lúc đó là vì đồng chí Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã nhận định và nắm bắt được tình hình có sự chuyển biến nhanh chóng: phát xít Nhật đã chết gục theo phát xít Đức; quân đội Nhật đã và đang tan rã, bị tước vũ khí trên khắp các chiến trường; quân Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương. Vì vậy nếu không khởi nghĩa giành chính quyền từ tay quân Nhật, mà để đến khi quân Đồng minh kéo vào nhận bàn giao chính quyền từ tay quân Nhật, thì nhân dân ta không thể tiến hành khởi nghĩa được nữa, vì lúc này Việt Minh đang cùng phe với quân Đồng minh.
Thứ hai, sự kiện Chính phủ cách mạng lâm thời yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và tiếp nhận sự thoái vị của nhà vua (ngày 30/8/1945 tại Huế) cũng là việc lực lượng cách mạng đã chớp thời cơ, tranh thủ thời cơ và vận dụng đúng thời cơ. Việc vua Bảo Đại thoái vị đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền phong kiến; đồng thời triệt tiêu một đầu mối quan trọng mà các thế lực đế quốc, phản động muốn duy trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính quyền cách mạng, đặt lại ách thống trị trên đất nước ta.
Thứ ba, sự kiện ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và với thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập và tự do đã ra đời; Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã chính thức ra mắt trước quốc dân đồng bào. Nếu chậm trễ không tuyên bố độc lập, chủ quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào thì dù có cướp được chính quyền cũng phải bàn giao lại cho quân Đồng minh tiếp quản. Vì vậy, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chớp thời cơ, khẩn trương chỉ đạo sớm tiến hành tổ chức Lễ Độc lập liền sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công trên cả nước chính là nhằm ngay lập tức khẳng định chủ quyền của nhân dân Việt Nam trước các thế lực đế quốc, phản động đội lốt dưới danh nghĩa quân Đồng minh.
Tóm lại, Cách mạng Tháng Tám và Lễ Độc lập chỉ có thể thực hiện thành công trong khoảng thời gian 22 ngày ấy. Nếu Tổng khởi nghĩa diễn ra trước ngày 12/8/1945 sẽ không được vì khi ấy phát xít Nhật vẫn còn khá mạnh, chưa chịu ngừng bắn và đầu hàng quân Đồng minh. Còn nếu Lễ Độc lập tuyên bố và khẳng định chủ quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa diễn ra muộn hơn sau ngày 2/9/1945 cũng không được vì khi ấy quân Anh và quân Tưởng đã vào nước ta giải giáp, tiếp quản chính quyền từ tay quân Nhật.
Cách mạng Tháng Tám thành công và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm rung chuyển cả Đông Nam Á, châu Á, châu Phi và nhiều khu vực khác trên thế giới; tạo ra làn sóng cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh giành độc lập, tự do của các nước thuộc địa như: Inđônêxia cùng giành được độc lập trong tháng 8/1945; Ấn Độ giành độc lập năm 1947; Mianma giành độc lập năm 1948; Marôc giành độc lập năm 1956; Malaixia giành độc lập năm 1957; Ănggôla giành độc lập năm 1961; Angiêri giành độc lập năm 1962…
Cần tiếp tục phát huy bài học về chớp thời cơ và vận dụng thời cơ trong tình hình mới
Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân ta chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ để tiến hành thành công Cách mạng tháng Tám và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng chính là tiếp nối bài học lịch sử truyền thống hào hùng của ông cha về “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Bài học đó còn tiếp tục được các thế hệ về sau vận dụng thành công. Điển hình là việc chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ; phân tích tình hình, thế trận địch – ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để dẫn đến thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954, “vang dội năm châu, chấn động địa cầu”, chính thức đặt dấu chấm hết cho gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam.
Hay trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân và dân ta cũng đã nhiều lần thực hiện thành công bài học về chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ. Điển hình là năm 1972, chúng ta đã chớp được thời cơ nội bộ chính phủ Mỹ có xáo trộn, phong trào phản đối chiến tranh trong nhân dân Mỹ dâng cao, kết hợp với quân ta quyết tâm giành nhiều thắng lợi quan trọng trên chiến trường Việt Nam nên đã buộc chính phủ Mỹ phải rút quân đội về nước. Rồi đến tháng 3/1974, khi quân ta giành được thắng lợi và làm chủ Tây Nguyên, quân Ngụy bắt đầu tan rã, đã làm xoay chuyển tình thế chiến trường có lợi cho ta. Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương đã chớp thời cơ rút ngắn kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam từ 2 năm xuống còn 1 năm. Cuối cùng là thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 30/4/1975.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước về sau này, chúng ta cũng đều nhiều lần vận dụng thành công bài học về chớp thời cơ và tận dụng thời cơ. Năm 1986, Trung ương Đảng đã kịp thời nắm bắt tình hình, tận dụng thời cơ có sự chuyển biến trong lý luận và nhận thức để tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đưa Việt Nam thoát ra khỏi những khó khăn của thời kỳ bao cấp và ảnh hưởng của chiến tranh. Năm 1991, những biến cố chính trị ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã tạo ra cho chúng ta những thách thức rất lớn, nhưng chúng ta đã vượt qua thử thách, nắm bắt được thời cơ, chuyển hóa khó khăn thành cơ hội để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng cũng uyển chuyển trong ngoại giao để mở rộng quan hệ đối với nhiều nước trên thế giới. Những năm sau đó, Việt Nam cũng đã nắm bắt tốt thời thế để gia nhập ASEAN năm 1995; cùng trong năm 1995, Việt Nam đồng ý bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ; năm 2007 gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc năm 2007…
Hiện nay, Việt Nam đã xác lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với tất cả 5 quốc gia thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (LHQ). Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao gần 200 quốc gia với nhiều cấp độ khác nhau, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược với 13 quốc gia gồm: Nga (2001), Ấn Độ (2007), Nhật Bản (2006), Trung Quốc (2008), Hàn Quốc, Tây Ban Nha (2009), Anh (2010), Đức (2011), Italia, Thái Lan, Inđônêxia, Xinhgapo, Pháp (2013); quan hệ đối tác toàn diện với 4 quốc gia gồm Ôtxtrâylia (2009), New Zealand (2010), Đan Mạch, Hoa Kỳ (2013); và đối tác chiến lược theo lĩnh vực với Hà Lan[5]. Đây là những cơ hội rất lớn giúp nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.
Theo quy luật vận động, phát triển của xã hội, đi liền với những cơ hội, vận hội mới luôn có những khó khăn, thách thức nảy sinh. Nếu biết vận dụng, nắm bắt tốt cơ hội và luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách thì sẽ biến điều bất lợi thành có lợi. Trung ương Đảng ta đã nắm bắt rất rõ quy luật vận động ấy, từ đó thường xuyên, kịp thời có những nhận định, phân tích, định hướng, chỉ đạo mang tính chiến lược. Gần đây nhất, trong Báo cáo chính trị Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn”[6]. Vì thế cần phải “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”[7].
Một trong những yếu tố giúp chúng ta nhìn nhận, phân tích, đón bắt, tận dụng tốt thời cơ chính là nhân tố con người. Vì vậy, trong bối cảnh sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, chúng ta cần chú trọng nguồn nhân lực chất lượng cao để đi tắt, đón đầu. Đảng ta chỉ ra rằng, ngoài quyết tâm chính trị, thì yếu tố con người, nguồn lực con người có tri thức là yếu tố quyết định. Do đó, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ đức, tài, có khả năng nắm bắt, đón đầu, làm chủ khoa học công nghệ chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, bởi đó là sức mạnh nội lực to lớn của toàn dân tộc. Trên cơ sở phát huy nội lực, kết hợp tốt nội lực với ngoại lực thì chúng ta sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải nhìn nhận và xác định rõ một số thách thức, rào cản cần phải phá bỏ và vượt qua để từ đó đón bắt thêm được nhiều cơ hội mới, trong đó đáng chú ý là tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Nếu phá bỏ được những rào cản này, cũng chính là cơ hội để chúng ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
--------------------------------
[1] Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam - Tập I (1911 - 1929), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2007, tr.126, 134;
[2] Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam - Tập II (1930 - 1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2008, tr.977;
[3] Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam - Tập II (1930 - 1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2008, tr.978;
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, Tập 7, tr.424-425;
[5] http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ho-so-su-kien-nhan-chung/cac-nuoc-vung-lanh-tho/chau-a/viet-nam-vietnam-148
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương, Hà Nội năm 2016, tr.75;
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương, Hà Nội năm 2016, tr.218-219.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 21:19 14/12/2021
Những thành tựu văn hóa chủ yếu của người Ai Cập:
+ Tín ngưỡng:
Sùng bái tự nhiên (tôn thờ nhiều vị thần, như: thần sông Nin, thần Mặt trời…).
Tin vào sự bất tử của linh hồn (cho rằng sau khi chết, linh hồn có thể trở lại thể xác để hồi sinh => có tục ướp xác).
+ Lịch pháp: sáng tạo ra nông lịch.
+ Chữ viết: Sử dụng chữ tượng hình; Chữ được viết trên giấy làm từ thân của cây Papirut.
+ Toán học: Giỏi về hình học; Biết làm các phép tính theo hệ đếm thập phân.
+ Kiến trúc: Xây dựng được các công trình đồ sộ, kì vĩ. Ví dụ: Kim tự tháp…
- Những thành tựu văn hóa chủ yếu của người Lưỡng Hà:
+ Tín ngưỡng: Sùng bái tự nhiên (tôn thờ nhiều vị thần, như: thần Mặt trời…).
+ Lịch pháp: Sáng tạo ra nông lịch.
+ Chữ viết: Sử dụng chữ tượng hình; Chữ được viết trên đất sét.
+ Toán học: Giỏi về số học; Sử dụng hệ đếm lấy số 60 làm cơ sở.
+ Kiến trúc: xây dựng được các công trình đồ sộ. Ví dụ: vườn treo Ba-bi-lon…
Em ấn tượng nhất với thành tựu văn hóa toán học của người Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại . vì ngay từ xa xưa họ đã biết sáng tạo ra các phép toán
Câu trả lời của bạn: 21:18 14/12/2021
Lời giải chi tiết
- Ở Nam Kì: có cuộc đấu tranh của người Thượng, người Khơ me, người Xtiêng.
- Ở miền Trung: có cuộc đấu tranh do Hà Văn Mao (người Mường), Cầm Bá Thước (người Thái) lãnh đạo.
- Ở Tây Nguyên: các tù trưởng như Nơ-trang Gư. Ama Con, Ama Giơ-hao,... đã kêu gọi nhân dân rào làng chiến đấu suốt từ năm 1889 đến năm 1905.
- Ở vùng Tây Bắc:
+ Đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Mông,... đã tập hợp dưới ngọn cờ của Nguyễn Quang Bích. Nguyễn Văn Giáp, lập căn cứ kháng Pháp ở Lai Châu, Sơn La và hoạt động mạnh trên lưu vực sông Đà.
+ Cuộc đấu tranh của người Thái do Đèo Văn Trì, Nông Văn Quang, Cầm Văn Thanh lãnh đạo.
+ Cuộc đấu tranh của đồng bào Thái ở Sơn La.
+ Cuộc đấu tranh của đồng bào Mông ở Hà Giang.
- Ở vùng Đông Bắc Bắc Kì: bùng nổ phong trào của người Dao, người Hoa, tiêu biểu nhất là đội quân của Lưu Kì.
Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/neu-mot-so-cuoc-khoi-nghia-chong-phap-cua-dong-bao-mien-nui-cuoi-the-ki-xix-c83a14425.html#ixzz7F1zWK7K8
Câu trả lời của bạn: 21:17 14/12/2021
Suốt mười thế kỷ dưới ách thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc, nhân dân các dân tộc của nước Âu Lạc vẫn không ngừng đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Ý chí tự lực, tự cường được biểu hiện trong cuộc đấu tranh bền bỉ và quyết liệt nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trước âm mưu đồng hoá của các triều đại phong kiến Trung Quốc đã cũng cố thêm tinh thần dân tộc và ý thức độc lập dân tộc của nhân dân ta.
Các cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra làm cho các triều địa phong kiến thống trị Trung quốc phải luôn đối phó. Sau phong trào khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 - 43, từ đầu thế kỷ II, phong trào khởi nghĩa nhân dân lại phát triển rộng rãi và mạnh mẻ hơn trước. Năm 178, hàng vạn ngưòi dân các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố nổi dậy hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Lương Long, đánh chiếm các quận, huyện làm chủ đất nước suốt 4 năm (178 - 181). Sang thế kỷ III cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248 được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng đã làm “chấn động toàn thể Châu giao”(A195:110) . Đầu thế kỷ VI, ở Trung quốc nhà Lương cướp ngôi nhà Tề. Cũng như các triều đại phong kiến khác ở phương bắc, nhà Lương đã thực hiện chính sách thống trị và bốc lột hà khắc đối với nhân dân ta. Chúng chia nhỏ Châu Giao, cắt miền biển lập Châu Hoàng (Quảng Ninh) đặt Châu Ái ở Cửu Chân xưa (Thanh Hoá), Châu Đức ở Cửu Đức xưa (Đức Thọ - Hà Tỉnh), lập thêm hai châu mới để dễ bề cai trị. Với bộ máy cai trị, đô hộ khổng lồ, chúng tăng cường cướp bóc, vơ vét của cải, tô thuế nặng nề. Trước tình hình đó, mùa xuân năm 542 cuộc khởi nghĩa của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Lý Bí đã nổ ra đánh đổ ách thống trị nhà Lương giành lại độc lập dân tộc. Sau cuộc khởi nghĩa thắng lợi, tháng giêng năm 544 Lý Bí tuyên bố lập nước, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Lý Bí lên ngôi hoàng đế, xưng là Nam đế (vua của Nước Nam), dựng điện Vạn Thọ, tổ chức triều đình với hai ban Văn - Võ. Nam đế phế bỏ niên hiệu nhà Lương, đăt niên hiệu mới là Đại đức (Đức lớn). Ông sai dựng chùa Khai quốc (mở nước), ban sắc và phong thần cho các anh hùng tiền bối của dân tộc.Cuộc khởi nghĩa Lý Bí thắng lợi, dựng nước Vạn Xuân đã nói lên ý chí độc lập tự cường và lòng tin vững chắc của nhân dân ta về một nền độc lập dân tộc bền vững trong tương lai. Việc Lý Bí xưng đế vương và đặt niên hiệu riêng đã “phủ định ngang nhiên quyền làm bá chủ thiên hạ” của hoàng đế phương Bắc, vạch rõ sơn hà, cương vực và là sự khẳng định dứt khoát rằng dân tộc Việt Nam là một dân tộc độc lập, là chủ nhân của đất nước và vận mệnh của mình”.
Đầu năm 545, triều đại phong kiến nhà Lương đã đem quân tiến đánh Vạn Xuân hòng xoá bỏ nền độc lập còn non trẻ, Lý Nam Đế lãnh đaọ nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Sau khi Lý Nam Đế bị bệnh chết, Triệu Quang Phục tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm, một lần nữa giành lại độc lập dân tộc. Năm 589 nhà Tùy thống nhất Trung quốc, phong kiến phương bắc lại đặt ách đô hộ của chúng lên đất nước ta. Đến năm 622 ách thống trị của phong kiến phương bắc được chuyển qua nhà Đường. Trong suốt ba thế kỷ bị nhà Đường thống trị, nhân dân ta không ngừng nổi dậy chống lại ách áp bức nặng nề, sự bốc lột tàn bạo và đấu tránh giành quyền độc lập dân tộc. Các cuộc khởi nghĩa lớn trong thời kỳ này có thể kể đến: khởi nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722), khởi nghĩa Phùng Hưng (766-791), khởi nghĩa Dương Thanh (819-820).
Cuối thế kỷ IX triều đại nhà Đường đổ nát. Nạn cát cứ của các tập đoàn phong kiến phương bắc nổi lên ngày càng ác liệt. Chính quyền đô hộ ở nước ta đang lung lay. Nắm lấy cơ hội đó, Khúc Thừa Dụ, một hào trưởng ở đất Hồng Châu (Hải Hưng) được nhân dân ủng hộ nổi lên tự xưng là Tiết độ sứ, lợi dụng bộ máy và danh nghĩa của bọn đô hộ để giành lại độc lập dân tộc. Tuy còn mang danh hiệu quan chức của nhà Đường, về thực chất, Khúc Thừa Dụ đã giành lấy chính quyền từ tay phong kiến nước ngoài, xây dựng chính quyền tự chủ, kết thúc về cơ bản ách thống trị nghìn năm của phong kiến phương bắc.
Không từ bỏ âm mưu đặt ách thống trị lại nước ta, năm 930 quân Nam Hán lại đem quân sang xâm lược. Dương Đình Nghệ, một tướng cũ của họ Khúc đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân xâm lược, giành lại quyền tự chủ của đất nước.
Năm 938, vua Nam Hán lại sai đem thuỷ quân sang xâm lược nước ta một lần nữa. Ngô Quyền, một vị tướng tài và là con rể của Dương Đình Nghệ đã kéo quân từ Châu ái ra giết chết tên bán nước Kiều Công Tiễn trừ mối hoạ bên trong và lãnh đạo quân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam hán. Nắm vững đường tiến quân của địch từ biển vào, Ngô Quyền đã huy động lực lượng quân dân đẵn gỗ, đẽo cọc, đầu bịt sắt nhọn, cắm đầy sông Bạch Đằng tại nơi hiểm yếu gần cửa biển, xây dựng thành một trận địa ngầm mai phục, sẳn sàng chờ giặc. Thuỷ quân Nam Hán ồ ạt kéo vào cửa Bạch Đằng. Đang lúc triều lên nước ngập hết bãi cọc, Ngô Quyền dùng thuyền nhẹ ra đánh nhử quân giặc. Đợi khi thuỷ triều xuống, Ngô Quyền cho quân phản kích đánh mạnh, thuỷ quân nam Hán quay đầu chạy. Ra đến gần cửa biển, thuyền địch đâm phải bải cọc nhọn, bị vỡ và đắm nhiều. Tướng giặc là Hoàng Thao bỏ mạng tại trận. Đội quân xâm lược thất bại nặng nề, ý chí xâm lược của Nam Hán bị đè bẹp.
Chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng cuối năm 938 đã kết thúc hoàn toàn thời kỳ mất nước kéo dài hơn một nghìn năm. Dân tộc ta đã giành lại chủ quyền đất nước. Đó là quá trình đấu tranh liên tục, bền bỉ và dũng cảm của dân tộc ta vì độc lập và tự do. Âm mưu đồng hoá của kẻ thù phong kiến phương bắc hoàn toàn bị phá sản. Bản sắc văn hoá, tiếng nói dân tộc được bảo tồn và phát triển trong khi không ngừng tiếp thu và dân tộc hoá tinh hoa văn hoá và vốn từ ngữ nước ngoài. Trong quá trình đấu tranh, dân tộc ta không ngừng trưởng thành và lớn mạnh. Trước hết đó là sự trưởng thành ý thức dân tộc và tinh thần yêu nước kiên cường bất khuất. Lực lượng quân sự, nền tảng kinh tế xã hội chính trị, kinh tế văn hoá đã có bước phát triển mới. Sức sống mãnh liệt của dân tộc đã đưa đến độc lập dân tộc ở thế kỷ X. Chính sức mạnh ấy sẽ tạo tiền đề vật chất và tinh thần cho việc bảo vệ nền độc lập dân tộc và phát triển đất nước của các thế kỷ tiếp theo.
Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), triều đình xẩy ra nhiều biến loạn và xung đột làm cho chính quyền Trung ương suy yếu. Là một chính quyền non trẻ, mới được xây dựng nên tổ chức còn đơn giản và mức độ tập quyền chưa cao. Ở nhiều địa phương vẫn tồn tại những thế lực phong kiến khá mạnh với cơ sở kinh tế và lực lượng quân sự riêng. Lợi dụng tình trạng đó, các thế lực phong kiến địa phương nổi dậy, mỗi người hùng cứ một phương và tranh giành nhau quyết liệt. Đó là thời kỳ loạn Mười Hai Sứ Quân. Việc cát cứ của các sứ quân đã làm suy yếu thế nước, nền độc lập non trẻ vừa mới giành được lại đang đứng trước nguy cơ xâm lược mới. Trước tình hình đó Đinh Bộ Lĩnh đã nêu cao ngọn cờ thống nhất đất nước, dẹp loạn Mười Hai Sứ Quân, xây dựng chế độ trung ương tập quyền. Năm 968 ông lên ngôi hoàng đế gọi là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, bỏ niên hiệu của các hoàng đế phương bắc, đặt niên hiệu riêng là Thái Bình, đặt kinh đô ở Hoa Lư (Ninh Bình). Đó là những biểu hiện của triều đình quyết tâm giữ độc lập dân tộc và xây dựng nhà nước tự chủ, quyết tâm phủ định quyền bá chủ của các hoàng đế phương bắc.
Dưới triều Đinh, chế độ trung ương tập quyền được xây dựng, củng cố, lực lượng quân đội được tăng cường và tổ chức thống nhất. Công cuộc xây dựng đất nước vừa được tiến hành chưa được bao lâu thì năm 979 Đinh Tiên Hoàng bị sát hại. Con trai thứ của Đinh Tiên Hoàng mới 6 tuổi được lập lên làm vua. Nhiều vụ xung đột xẩy ra trong triều đình. Các thế lực phong kiến thù địch ở trong và ngoài nước, lợi dung thời cơ tiến hành âm mưu lật đổ và thôn tính.
Ở phía Nam từ Đèo Ngang trở vào, nước Chiêm Thành của người Chăm trở thành một quốc gia độc lập đang phát triển. Trong suốt thời gian bị phong kiến Trung quốc đô hộ các dân tộc Việt ở phía bắc và dân tộc Chăm ở phía nam đều có một kẻ thù chung là các thế lực phong kiến xâm lược phương bắc. Trong các cuộc khởi nghĩa của của dân tộc các dân tộc Việt Nam ở các quận, huyện phía Bắc đều được sự ủng hộ, đồng tình hưởng ứng của nhân dân, dân tộc Chăm ở phía Nam và ngược lại. Nhưng khi giành được độc lập, các triều đại phong kiến tập quyền bao giờ cũng muốn mở rộng lãnh thổ. Vì vậy, quan hệ giữa hai nước Đại Việt và Chiêm Thành tuy là láng giềng, trước đây có chung kẻ thù nhưng không tránh khỏi xung đột. Trong quan hệ giữa Chiêm Thành và Đại Việt, Chiêm Thành là nước giành độc lập, xây dựng Nhà nước phong kiến tập quyền sớm, lại dựa vào thế mạnh của những người quen chinh chiến, đã nhiều lần cất quân đánh ra phía Bắc dưới thời phong kiến Trung Quốc đô hộ. Khi người Việt giành được độc lập, trong những thời cơ thuận lợi họ thường tiến hành các cuộc chiến tranh nhằm mở rộng lãnh thổ.
Tháng 5 năm 543 khi cuộc khởi nghĩa Lý Bí nỗ ra, quân và dân Vạn Xuân đang tiến công quét sạch bè lũ đô hộ nhà Lương thì vua Lâm Ấp cho quân đánh phá châu Đức (Hà Tĩnh). Lý Bí vừa phải lo đánh quân Lương ở phía Bắc, phải cử tướng Phạm Tu đánh tan quân Chiêm ở phía Nam. Như vậy, ngay từ khi Nhà nước Vạn Xuân được thành lập quan hệ giữa Vạn Xuân và Chiêm thành đã có sự xung đột. Đến thời kỳ này, sau khi Đinh Tiên Hoàng bị sát hại, nội bộ triều đình bất hoà. Ngô Nhật Khánh, một trong những sứ quân trước đây bị Đinh Tiên Hoàng đánh bại phải quy hàng rồi chạy trốn sang Chiêm Thành. Nhân thời cơ triều đình nhà Đinh đang gặp khó khăn, Ngô Nhật Khánh dẫn đường vua Chiêm đưa hơn 1000 chiếc thuyền định đánh vào kinh đô Hoa Lư. Quân Chiêm vừa vượt biển tiến vào hai cửa đại Ác và Tiểu Khang thì gặp bão tố, đoàn thuyền bị đắm gần hết, chỉ có thuyền vua Chiêm thoát về nước. Đây là lần thứ hai Chiêm Thành tiến đánh Vạn Xuân với tư cách là một Nhà nước độc lập có chủ quyền.
Ở phía Bắc, lúc bấy giờ nhà Tống đã được thành lập và hoàn thành việc thống nhất quốc gia. Cũng như các triều đại phong kiến Trung Quốc trước đây tự coi mình là “Thiên triều” có quyền thống trị các nước xung quanh. Nhân sự suy yếu của triều Đinh nhà Tống phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Trước tình hình vua Đinh còn ít tuổi, chưa đủ khả năng và uy tính để tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Tống, một số quan lại và quân sĩ suy tôn Lê Hoàn lên làm vua gọi là Lê Đại Hành. Lê Hoàn lên làm vua, lập nên triều đại mới gọi là triều Tiền Lê. Dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn quân dân Tiền Lê gấp rút tổ chức cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống.
Đầu năm 981, quân Tống chia thành hai đạo quân thuỷ, bộ đào ạt tiến vào xâm lược nước ta. Đạo quân bộ từ Ung châu (Quảng Tây) theo hướng Lạng Sơn tràn vào. Đại quân thuỷ từ Quảng châu (Quảng Đông) vượt biển tiến sang. Chúng dự định quân thuỷ, bộ sẽ phối hợp tiến vào vây hãm kinh thành Hoa Lư. Học tập sáng tạo chiến thuật của Ngô Quyền hơn bốn mươi năm trước, Lê Hoàn sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng ngăn chặn chiến thuyền của địch. Với truyền thống thuỷ chiến anh dũng của dân tộc, quân ta đánh tan đội thuỷ quân Tống trên sông Bạch đằng, phá tan âm mưu phối hợp với đạo quân bộ. Trên các tuyến đường bộ quân Tống chỉ huy là Hầu Nhân Bảo bị giết, nhiều tướng khác bị bắt sống. Quân xâm lược Tống bị đại bại. Nền độc lập dân tộc được giữ vững.
Sau khi chiến thắng quân xâm lược Tống, Lê Hoàn tìm cách lập lại quan hệ bang giao với nhà Tống. Đối với nước Chiêm Thành ở phía Nam, nhà Lê cũng đã cố gắng khôi phục quan hệ láng giềng, bang giao hoà bình. Lê Hoàn đã cho sứ giả sang giao hiếu với quân Chiêm Thành. Nhưng vua Chiêm vẫn giữ thái độ thù địch, bắt giam sứ giả của Lê Hoàn(1). Nhận thức được mối hiểm hoạ từ phía Nam, trước thái độ thù địch của Chiêm Thành, nhằm bảo vệ nền độc lập vững chắc tập trung vào công cuộc xây dựng đất nước, Lê Hoàn quyết định tự cầm quân tiến đánh Chiêm Thành.
Cuộc tiến binh của Lê Hoàn năm 982 - 983 được sử cũ chép: “Khi vua đi đánh Chiêm thành, qua núi Đồng Cổ (Thiệp Yên - Thanh Hoá) đến sông Bà Hoa (Tỉnh Gia - Thanh Hoá), đường núi hiểm trở khó đi, người ngựa mệt mỏi, đường biển thì sóng to khó đi lại, bèn sai người đào kênh. Đến đây làm xong, thuyền bè đi lại đều được thuận tiện”. Đội quân Lê Hoàn tiến vào đánh Chiêm Thành đánh phá kinh thành In-đơ-ra-pu-ra (tức Đồng Dương - Quảng Nam) tiêu diệt lực lượng lớn quân đội, san phẳng thành trì.
Cuộc tiến binh đánh nước Chiêm Thành của Lê Hoàn ở cuối thế kỷ X là một cuộc tiến quân tự vệ, nhằm cảnh cáo thái độ thù địch của vua Chiêm thành, loại bỏ âm mưu đánh phá quấy rối từ phía Nam, hoàn toàn không có ý đồ thôn tính, thiết lập bộ máy cai trị. Vì vậy sau khi hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ, Lê Hoàn cho quân rút về nước.
Sau cuộc kháng chiến chống Tống ở phía bắc và bình Chiêm ở phía nam thắng lợi, Lê Hoàn tập trung vào công cuộc xây dựng đất nước. Sau cuộc tiến quân của Lê Hoàn, nước Chiêm Thành phải chấp nhận giữ mối quan hệ bang giao hoà hiếu. Tháng 6 năm 991 Lê Đại Hành cho người Chiêm thành nhận lĩnh hơn 360 người ở thành cũ Châu Địa lý (Quảng Bình) đem về Châu Ô lý (Quảng Trị - Thừa Thiên). Tháng 8 năm 991, Lê Đại Hành sai Phụ quốc Ngô Tử An đưa 3 vạn người đi mở đường bộ từ cửa biển Nam giới (Hà Tĩnh) đến Châu Địa lý (Quảng Bình ngày nay).
Sang cuối đời Tiền Lê, vua Lê lúc đó là Lê Long Đỉnh hung tàn, bạo ngược, sống sa đoạ, không đủ tư cách và năng lực cầm đầu triều đình. Lê Long Đỉnh đã có những hành động đàn áp dã man nhân dân và ngược đãi sư sãi làm cho lòng người oán giận. Vì vậy khi Lê Long Đỉnh chết, triều đình đưa Lý Công Uẩn lên làm vua lập nên triều Lý (1009 - 1225). Ngay sau khi lên làm vua, Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đổi tên thành Thăng Long (Hà Nội). Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ nói rõ mục đích dời đô là “đóng nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu đời sau”. Thăng Long là nơi hội tụ điều kiện để xây dựng một kinh đô “ở nơi trung tâm bờ cỏi đất nước, được cái thế rồng cuộn, hỗ ngồi; vị trí ở giữa bốn phương đông, tây, nam, bắc; tiện hình thế núi sông sau trước... là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời”.
Việc dời đô về Thăng Long phản ánh sự lớn mạnh và yêu cầu phát triển mới của quốc gia phong kiến tập quyền, chứng tỏ khả năng quyết tâm và lòng tin của dân tộc ta vì sự phát triển bền vững lâu dài của đất nước. Cũng với tinh thần đó, năm 1054 nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt, khẳng định ý chí tự tôn và tự chủ của cả dân tộc. Khi triều Lý được thành lập, Lý Thái Tổ đã tập trung củng cố chế độ Trung ương tập quyền, tăng cường xây dựng quân đội và thực hiện nhiều chính sách phát triển kinh tế. Đối với các dân tộc trong nước Đại Việt, triều đình Lý thực hiện nhiều chính sách nhằm củng cố khối đoàn kết dân tộc để bảo vệ quốc gia thống nhất. Đối với các nước láng giềng, nhà Lý cố gắng giữ mối bang giao hoà hiếu, tránh xung đột để giữ vững hoà bình, ổn định, tập trung cho việc xây dựng đất nước. Thế nhưng, đối với triều đình nhà Tống ở phía Bắc, sau khi thất bại trong cuộc xâm lược lần thứ nhất dưới thời Tiền Lê, chúng chưa chịu từ bỏ âm mưu thôn tính nước ta một lần nữa. Ở phía Nam, mặc dầu Chiêm Thành đã bị thất bại nặng nề sau nhiều lần đánh ra Bắc và đặc biệt là cuộc tiến đánh kinh đô Chiêm thành của Lê Đại Hành năm 982 - 983 các vương triều Chiêm vẫn không từ bỏ âm mưu đánh phá, quấy rối Đại Việt. Nhận thức được kẻ thù nguy hiểm của Đại Việt là tập đoàn phong kiến phương Bắc, triều Lý đã tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống xâm lược Tống. Muốn vậy phải ổn định biên giới phía Nam. Trước tình hình quấy phá của Chiêm thành ở các vùng ven biển phía Nam trong những năm đầu triều Lý mới thành lập, Lý Thái Tổ cho quân tiến đánh Chiêm Thành. Tháng 12 năm 1020 Lý Thái Tổ sai Khai Thiên Vương và Đạo Thạc Phụ đem quân đánh Chiêm Thành ở trại Bố Chính (Bắc Quảng Bình ngày nay). Quân Đại Việt tiến thẳng vào núi Long Tỵ (thuộc huyện Quảng Trạch ngày nay) giết tướng Chiêm thành là Bố Linh và nhiều quân sĩ. Cuộc tiến quân lần này chỉ nhằm tiêu diệt lực lượng quân Chiêm Thành ở Bố Chính, nơi Chiêm Thành thường cho quân ra đánh phá các quân phía Bắc thuộc Đại Việt. Vì vậy, quân Đại Việt không tiến sâu vào đất Chiêm Thành. Đánh xong trại Bố Chính, quân Đại Việt rút về nước.
Sang đời Lý Thái Tông, từ khi lên ngôi, trong quan hệ với Chiêm thành, vua chỉ “ban ơn đức vỗ về”nhưng vua Chiêm thành lại không ngừng sai quân quấy phá các quận phía Nam của Đại Việt. Năm Minh Đạo thứ 2 (Quý Mùi,1043) mùa hạ, tháng tư, “giặc gió sóng” (nghĩa là nhân gió sóng mà đi cướp) Chiêm Thành cướp bóc dân ven biển”.
Trước tình hình đó, Lý Thái Tông đem quân đánh Chiêm Thành để ổn định biên cương phía Nam. Đại việt sử ký toàn thư chép:
Tháng 12-1043 vua xuống chiếu cho quân sĩ sửa soạn giáp binh, chuẩn bị hẹn đến mùa xuân tháng 2 sang năm đi đánh Chiêm thành.
Tháng 1 - 1044 phát khí giới trong kho ban cho các quân.
Ngày Quý Mão, vua thân chính đi đánh Chiêm thành, cho Khai hoàng vương là Nhật Tôn làm lưu thủ Kinh sư.
Cuộc tiến quân của Lý Thái Tông được Đại Việt sử ký toàn thư mô tả như sau:
"Ngày Giáp Thìn, quân đi từ Kinh sư, ngày Ất Tỵ đến cửa biển Đại Ác, gặp lúc sóng gió yên lặng, đại quân qua biển dễ dàng, cho tên Đại Ác thành Đại An. Đến núi Ma Cô có đám mây tím bộc lấy mặt trời. Qua vụng Hà Não, có đám mây che thuyền ngự, theo thuyền mà đi hoặc ngừng. Ngày hôm ấy đến đóng doanh ở cửa biển Trụ Nha. Ngày hôm sau, nhờ thuận gió, trong một ngày qua hai bãi Đại Tiểu Trường sa(1). Đến cửa Tư khách có con cá trắng nhảy vào thuyền. Vua nghe tin Chiêm thành đem quân và voi bày trận ở bờ nam sông Ngũ Bồ(2) muốn chống cự quan quân. Vua truyền cho quân bỏ thuyền lên bộ, đem quân sĩ lên bờ bắc, thấy quân Chiêm đã dàn ở bên sông, vua mới cắt đặt quân sĩ dựng cờ nỗi trống, sang tắt ngang sông đánh. Binh lính chưa chạm nhau mà quân Chiêm đã tan vỡ, quan quân đuổi chém được ba vạn thủ cấp. Quách Gia Di chém được đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu(3) tại trận đem dâng. Đoạt được 30 voi thuần, bắt sống hơn 5 nghìn người, còn thì bị quan quân giết chết, máu nhuộm gươm giáo, xác chất đầy đồng. Vua tỏ ý cảm khái, xuống lệnh rằng “kẻ nào giết bậy người Chiêm thành thì sẽ giết không tha”.
Tháng 7, vua Lý Thái Tông đưa quân vào kinh đô Chiêm thành là Phật Thệ, sai sứ đi khắp các hương ấp phủ dụ, trấn an dân chúng.
Tháng 8, Lý Thái Tông cho quân rút về nước. Đối với các tù binh Chiêm Thành, Lý Thái Tông cho họ nhận người cùng bộ tộc và cho định cư từ trấn Vĩnh Khang (thuộc huyện Tương Dương, Nghệ An ngày nay) đến Đăng Châu (thuộc đất Yên Bái và Lào Cai ngày nay), đặt hương ấp phỏng theo tên cũ của Chiêm thành.
Cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Chiêm Thành dưới triều đại Lý Thái Tông đã diễn ra với quy mô lớn. Quân Đại Việt đã đánh vào kinh đô Phật Thệ giết cả vua Chiêm nhưng Lý Thái Tông không có chủ trương cướp đất, giành dân, đặt quan cai trị. Những chủ trương cấm giết tù hàng binh, cấp đất cho họ định cư lập hương ấp theo phong tục Chiêm Thành phần nào đã nói lên tính nhân đạo và không muốn khoét sâu mối hận thù của triều Lý.
Sau khi vua Lý Thái Tông mất (1054) Lý Thánh Tông lên ngôi, nguy cơ xâm lược từ triều đại phong kiến phuơng Bắc là nhà Tống càng đến gần. Trong lúc đó ở phía Nam, sau một thời gian phục hồi, vua Chiêm thành là Chế Cũ lại bắt đầu gây rối vùng biên cương phía Nam. Năm 1068, Chiêm Thành, một mặt chịu triều cống nhưng mặt khác lại tích cực quấy nhiễu biên giới. Để loại trừ mối uy hiếp từ phía Nam, làm thất bại âm mưu liên kết của quân Tống với nước Chiêm thành, Lý Thánh Tông quyết định đánh Chiêm thành. Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1069), Lý Thánh Tông thân chinh cầm quân, cùng với tướng quân Lý Thường Kiệt đánh vào kinh thành Phật Thệ (tức Vijaya - Bình Định) của Chiêm Thành. Trong khi vua ra trận, công việc triều chính nhà Lý giao cho bà Nguyên Phi Ỷ Lan trong coi. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, trong lần xuất chinh này, “vua đánh Chiêm thành mãi không được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên Phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm hoá hoà hợp, trong cõi vững vàng, tôn sùng phật giáo, dân gọi là bà Quan Âm, vua nói: “Nguyên Phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng làm được việc gì hay sao !” bèn quay lại đánh nữa, thắng được”.
Trong cuộc tiến công này, khi Lý Thánh Tông đến cửa Nhật Lệ, thuỷ quân Chiêm đã chặn đánh dữ dội. Vua sai tướng Hoàng Kiện đốc thúc quân sĩ đánh trực diện. Quân Chiêm chống cự không nổi bèn rút chạy vào phía trong. Khi đến kinh đô Phật Thệ, quân lính đổ bộ tiến đánh quân Chiêm Thành ở hai bờ sông Tu Mao. Trong trận chiến đấu này, hai anh em Lý Thường Kiệt và Lý Thường Hiến đã lập công xuất sắc. Nghe tin thất trận ở Tua Mao, vua Chiêm là Chế Cũ (Rudreverma III) đưa vợ con bỏ thành chạy trốn về phía nam. Quân Lý vào thành Phật Thệ, người trong thành ra hàng. Lý Thường Kiệt cho quân đuổi theo và bắt được Chế Cũ đưa về Thăng Long. Chế Cũ xin dâng ba châu Bố chính, Địa lý, Ma linh (tức phần đất Quảng Bình và bắc Quảng Trị ngày nay) cho Đại Việt. Lý Thánh Tông chấp nhận, cho Chế Cũ về nước.
Cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Chiêm thành năm 1069 với chiến thắng của quân dân Đại Việt có ý nghĩa rất quan trọng đối với lịch sử vùng đất Quảng Bình nói riêng và lịch sử nước ta nói chung. Kể từ nay (1069) về cơ bản địa phận Quảng Bình và một phần đất phía Bắc Quảng Trị được sát nhập vào quốc gia Đại Việt. Biên giới Đại Việt đã vượt qua Hoành Sơn (Đèo Ngang) tiến về phía Nam, mở đầu cho công cuộc mở cõi về phương nam để có non sông một giải từ Bắc vào Nam như ngày nay. Đó là kết quả tất yếu của lịch sử. Trong các cuộc chiến tranh với Chiêm Thành, Đại Việt không có chủ trương chiếm đất, giành dân, thiết lập bộ máy cai trị mà chủ yếu là xuất phát từ mục đích tự vệ, giữ vững biên cương phía Nam, tập trung lực lượng đối phó với kẻ thù xâm lược của các triều đại phong kiến phuơng Bắc. Trong lịch sử quan hệ giữa nước ta và Chiêm Thành, người Chiêm thành đã nhiều lần tổ chức chiến tranh muốn mở rộng lãnh thổ ra phía Bắc. Các triều đại phong kiến độc lập từ nhà Đinh sang nhà Lý luôn giữ mối quan hệ bang giao hoà hiếu và đã có nhiều chính sách để giữ vững ổn định, hoà bình, để xây dựng đất nước. Việc Chế cũ dâng ba châu Bố chính, Địa lý, Ma linh cho Đại Việt là kết quả thất bại tất yếu qua trình xung đột giữa các tập đoàn phong kiến nhưng đã mang lại một hệ quả lịch sử là đưa Quảng Bình nhập vào Đại Việt, trở lại với đất nước Việt Nam mà từ thời Âu Lạc những cư dân Việt đã định cư ở đây. Trải qua những biến động lịch sử, mảnh đất Quảng Bình từ đây trở thành phên dậu của Đại Việt ở phía Nam, có vị trí cực kỳ quan trọng trong việc mở mang bờ cỏi đất nước ở những giai đoạn lịch sử kế tiếp.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 21:15 14/12/2021
Sự tích hồ Ba Bể
a) Câu chuyện có những nhân vật: bà lão ăn xin, mẹ con bà góa.
b) Các sự việc xảy ra và kết quả:
- Trong ngày hội cúng Phật, bà lão đi xin ăn nhưng chẳng ai cho.
- Hai mẹ con bà góa thương tình cho bà lão ăn và ngủ lại trong nhà.
- Về khuya, bà lão hiện hình một con giao long lớn.
- Sáng sớm, bà lão cho hai mẹ con bà góa tốt bụng gói tro và hai mảnh vỏ trấu, rồi ra đi.
- Nước lụt lên cao, mẹ con bà góa thoát nạn, chèo thuyền cứu người.
c) Ý nghĩa
- Ca ngợi những tấm lòng nhân ái, sẵn lòng cứu giúp người hoạn nạn, khó khăn.
- Khẳng định: Lòng nhân ái nhất định sẽ được đền đáp xứng đáng.
- Giải thích nguồn gốc, sự hình thành hồ Ba Bể.
2. Bài văn sau có phải là bài văn kể chuyện không ? Vì sao ?
Hồ Ba Bể
Hồ Ba Bể nằm giữa bốn bề vách đá, trên độ cao 1200 mét so với mực nước biển. Chiều dài của hồ bằng một buổi chèo thuyền độc mộc. Hai bên hồ là những ngọn núi cao chia hồ thành ba phần liền nhau: Bể Lầm, Bể Lèng, Bể Lù.
Mỗi hòn đá, gốc cây, mỗi loài thú, loài chim, cho đến từng loài thủy tộc nơi đây đều gắn với một sự tích li kì, sắc nước, hương trời ở đây cũng mang màu sắc huyền thoại. Các cô gái ngồi bên khung cửi dệt thổ cẩm soi bóng xuống hồ. Người Việt Bắc nói rằng : "Ai chưa biết hát bao giờ đến Ba Bể sẽ biết hát. Ai chưa biết làm thơ đến Ba Bể sẽ làm được thơ". Ai chưa tin điều đó xin hãy đến Ba Bể một lần.
Theo DƯƠNG THUẤN
- Thuyền độc mộc : thuyền dài và hẹp, làm bằng một cây gỗ to khoét trũng.
- Thủy tộc : các loài vật sống dưới nước.
- Huyền thoại: câu chuyện lạ kì, hoàn toàn do tưởng tượng.
- Thổ cẩm : vải dệt bằng sợi nhiều màu sặc sỡ, tạo thành những hình đa dạng.
Gợi ý:
Con đọc kĩ bài văn để xem có nhân vật, có người kể chuyện xuất hiện trong bài không?
Trả lời:
Bài văn Hồ Ba Bể không phải là bài văn kể chuyện mà chỉ là bài văn giới thiệu về hồ Ba Bể.
Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/tap-lam-van-the-nao-la-ke-chuyen-trang-10-sgk-tieng-viet-4-tap-1-c118a17694.html#ixzz7F1ysGcOZ
Câu trả lời của bạn: 21:13 14/12/2021
Đ S là 600 kg
Câu trả lời của bạn: 21:08 14/12/2021
Lời giải chi tiết
* Trong lĩnh vực Vật lí:
- Phát minh về điện của các nhà bác học G.Ôm người Đức, G.Jun người Anh, E.Len-xơ người Nga mở ra khả năng ứng dụng nguồn năng lượng mới.
- Phát hiện về phóng xạ của Hăng-ra Béc-cơ-ren (Pháp), Ma-ri Quy-ri
- Rô-dơ-pho có bước tiến vĩ đại trong việc tìm hiểu cấu trúc vật chất
- Phát minh của Rơn-ghen về tia X vào năm 1895
* Trong lĩnh vực Hóa học:
- Định luật tuần hoàn của Men-đe-lê-ep, đặt cơ sở cho sự phân hạng các nguyên tố hóa học.
* Trong lĩnh vực Sinh học:
- Học thuyết Đác-uyn đề cập đến sự tiến hóa và di truyền.
- Phát minh của nhà bác học Lu-i Pa-xto giúp chế tạo thành công vac-xin phòng bệnh chó dại.
- Pap-lốp nghiên cứu hoạt động của hệ thần kinh cao cấp của động vật và người.
* Trong lĩnh vực kỹ thuật:
- Sử dụng lò Bét-xme và lò Mác-tanh đã đẩy nhanh quá trình sản xuất thép, tuốc bin phát điện được sử dụng để cung cấp điện năng,...
- Dầu hỏa được khai thác để thắp sáng và cung cấp nguồn nhiên liệu mới cho giao thông vận tải.
- Công nghiệp hóa học ra đời phục vụ ngành nhuộm, phân bón và thuốc nổ.
- Phát minh ra điện tín giúp cho liên lạc ngày càng xa và nhanh.
- Cuối thế kỉ XIX, xe ô tô được đưa vào sử dụng nhờ phát minh về động cơ đốt trong.
- Tháng 12-1903, hai anh em người Mĩ chế tạo máy bay đầu tiên, ngành hàng không ra đời.
Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/trinh-bay-nhung-phat-minh-lon-ve-khoa-hoc-c85a12440.html#ixzz7F1x8jokH
Câu trả lời của bạn: 21:06 14/12/2021
Chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại hậu quả kéo dài trong khoảng thời gian từ năm 1945 - 1957. Thế giới từ chỗ đa cực đã chuyển thành lưỡng cực với sự thống trị tuyệt đối của 2 nước thắng trận mạnh nhất là Liên Xô và Hoa Kỳ.
Mục lục
1Châu Âu trong đống "đổ nát"
2Trung Quốc
3Liên Xô mở rộng lãnh thổ ra Trung và Đông Âu
4Chiếm đóng và phân chia lãnh thổ Đức-Áo
5Chiếm đóng lãnh thổ Nhật Bản và Triều Tiên
6Các thuộc địa của châu Âu giành lại độc lập
7Thay đổi biên giới Đức, Ba Lan và Liên Xô
8Bồi thường chiến phí và chất xám của Đức
9Thành lập Liên Hợp Quốc
10Chú thích
11Liên kết ngoài
Châu Âu trong đống "đổ nát"[sửa | sửa mã nguồn]
Chiến tranh kết thúc, hàng triệu người dân và người tị nạn châu Âu bị mất nhà cửa. Nền kinh tế cả châu lục sụp đổ, phần lớn các hạ tầng công nghiệp bị phá hủy. Liên Xô bị ảnh hưởng nặng nề nhất với thiệt hại của nền kinh tế lên đến 30%.
Những trận ném bom của Không quân Đức vào Frampol, Wieluń và Warsaw, Ba Lan năm 1939 đã hình thành khái niệm ném bom chiến lược nhắm hoàn toàn vào dân thường. Những trận ném bom tương tự sau đó của cả quân Đồng Minh và quân Trục đã khiến nhiều thành phố bị tàn phá nặng nề.
Những nỗ lực tham chiến đã làm nên kinh tế Vương quốc Anh kiệt quệ. Chính phủ liên minh tạm thời trong chiến tranh bị giải thể, bầu cử mới được tổ chức và đảng của tướng Winston Churchill thất bại với số phiếu áp đảo thuộc về Đảng Lao động.
Năm 1947, bộ trưởng quốc phòng Mỹ George Marshall đã triển khai kế hoạch phục hưng châu Âu (Kế hoạch Marshall), kéo dài từ năm 1948 - 1952. 17 tỉ USD đã được sử dụng để phục hồi lại nền kinh tế Tây Âu.
Hậu quả vô cùng nặng nề đối với nhân loại. Hơn 70 quốc gia với 1,7 tỷ người đã bị lôi cuốn vào vòng chiến, khoảng 60 triệu người chết, 90 triệu người tàn phế và nhiều làng mạc, thành phố bị phá hủy, thiệt hại về vật chất gấp 10 lần chiến tranh thế giới thứ nhất, bằng tất cả các cuộc chiến tranh trong 1000 năm trước đó cộng lại.
Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]
Tổng tư lệnh Tưởng Giới Thạch.
Cuộc chiến là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Trung Quốc, giúp nâng cao vị thế của quốc gia này trên trường quốc tế. Chính phủ trung tâm, dưới quyền Tổng tư lệnh Tưởng Giới Thạch, đã bãi bỏ được hầu hết những hiệp ước mang tính bóc lột của các nước thực dân đối với Trung Quốc. Trung Hoa Dân Quốc trở thành một trong những quốc gia thành lập Liên Hợp Quốc và giữ một ghế vĩnh viễn trong Hội đồng bảo an. Trung Quốc cũng giành lại chủ quyền đối với đảo Đài Loan và tỉnh Mãn Châu. Tuy nhiên 8 năm chiến tranh đã làm chính quyền trung tâm kiệt quệ và phá hủy nhiều công trình quan trọng mang tầm quốc gia được xây dựng từ năm 1928. Việc điều hành những khu vực chiếm đóng được sau chiến tranh cũng trở nên đầy khó khăn khi hoạt động chống đối của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong những khu vực này ngày càng lan rộng.
Sự tàn phá nặng nề của chiến tranh và cuộc nội chiến vẫn tiếp diễn giữa Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng đã làm nhân dân quá mệt mỏi. Tuy nhiên, sau 4 năm, Quốc Dân Đảng đã mất khả năng chống đỡ và bị Đảng Cộng sản đánh lui, phải chạy về đảo Đài Loan. Trên phần đất Trung Hoa đại lục rộng lớn, Đảng Cộng sản đã thành lập nên nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949. Quốc Dân Đảng chỉ còn kiểm soát đảo Đài Loan. Tuy nhiên, sự can thiệp của Mỹ đã khiến Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa không thể đổ bộ lên Đài Loan để thống nhất toàn bộ đất nước Trung Hoa.
Liên Xô mở rộng lãnh thổ ra Trung và Đông Âu[sửa | sửa mã nguồn]
Vào giai đoạn cuối chiến tranh, Xô Viết đã chiếm được phần lớn các nước Trung Âu và Đông Âu. Trong tất cả các nước Trung Âu và Đông Âu, trừ Áo và Hy Lạp, chính quyền của các Đảng Cộng sản được thiết lập. Liên Xô còn sáp nhập các nước vùng Baltic như Estonia, Latvia và Litva trở thành nước cộng hòa thành viên.
Chiếm đóng và phân chia lãnh thổ Đức-Áo[sửa | sửa mã nguồn]
Sau chiến tranh, phe Đồng Minh đã chia lãnh thổ Đức thành 4 phần do Anh, Pháp, Mỹ và Liên Xô kiểm soát. Sau đó lãnh thổ của Mỹ, Pháp và Anh hợp nhất lại vào năm 1949 với tên gọi Cộng hòa Liên bang Đức, còn phần lãnh thổ của Xô Viết trở thành Cộng hòa Dân chủ Đức.
Ở Đức, khủng hoảng kinh tế và sự sụp đổ của nước Đức Quốc xã kéo dài trong vài năm liền. Hội nghị Yalta và Potsdam với quyết định sáp nhập lãnh thổ Đông Âu vào quyền kiểm soát của Liên Xô đã khiến hàng triệu người Đức và Ba Lan sống trên những vùng đó bị trục xuất. Ước tính từ 1-2 triệu người đã thiệt mạng trong quá trình xua đuổi tàn bạo này. Áo bị tách ra khỏi Đức và chia thành 4 phần, nhưng năm 1955 lại được sáp nhập lại và trở thành nước Cộng hòa Áo.
Chiếm đóng lãnh thổ Nhật Bản và Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]
Hoa Kỳ, với sự trợ giúp của quân đội Khối thịnh vượng chung Anh, đã chiếm đóng lãnh thổ Nhật Bản cho đến khi hiệp ước về hòa bình có hiệu lực năm 1952. Trong thời gian chiếm đóng, chính phủ Hoa Kỳ tập trung phi quân sự hóa Nhật Bản, phá hủy ngành công nghiệp quân sự của nước này và thiết lập một chính quyền nghị viện với hiến pháp mới. Sau khi Hoa Kỳ chấm dứt việc chiếm đóng vào năm 1952, nền kinh tế Nhật Bản bùng nổ và phát triển một cách mạnh mẽ. Liên Xô, theo như những điều khoản ở Hội nghị Yalta, đã thu hồi lại và sau đó sáp nhập hòn đảo Sakhalin vào lãnh thổ của mình (hòn đảo này từng bị Nhật chiếm năm 1905).
Bán đảo Triều Tiên bị Hoa Kỳ và Liên Xô chia đôi, thành lập 2 chính phủ riêng biệt vào năm 1948. Miền Bắc dưới sự bảo trợ của Liên Xô đã tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, còn miền Nam được Hoa Kỳ hỗ trợ thành lập chính quyền chống cộng sản Đại Hàn Dân Quốc. Sau nhiều xung đột nhỏ lẻ, cuối cùng 2 chính quyền này cũng đã gây ra cuộc chiến "nóng" đầu tiên trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, kéo dài từ 1950-1953. Chiến tranh Triều Tiên cũng là cuộc chiến đầu tiên có sự tham gia của quân Liên Hợp Quốc. Hiện nay 2 miền Triều Tiên vẫn đang bị chia cắt.
Các thuộc địa của châu Âu giành lại độc lập[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi đệ nhị thế chiến kết thúc, những nước Đế quốc châu Âu đã phải từ bỏ các thuộc địa cũ của mình. Có những nước phi thực dân hóa một cách hòa bình như Mỹ trả lại độc lập cho Philippines năm 1947, Anh trả Ấn Độ và Pakistan năm 1948. Những nước như Pháp và Hà Lan lại không muốn từ bỏ chính sách thực dân, khiến các thuộc địa như Việt Nam, sau khi đã có Tuyên ngôn độc lập lại phải tiếp tục chiến đấu trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ I và Indonesia phải chống lại quân Hà Lan tiếp tục xâm lược vùng Đông Ấn.
Trong chiến tranh, Đế quốc Nhật Bản đã tiến vào Việt Nam và Philippines, đánh bật chính quyền Pháp và Mỹ tại đây và lập nên các chính phủ bù nhìn thân Nhật. Đây có lẽ là một dấu hiệu cho sự kết thúc của chính quyền thực dân châu Âu sau này. Các chính phủ bù nhìn do nhật dựng lên lại vô hình trung tạo ra tư tưởng về một quốc gia độc lập, đặc biệt là ở Việt Nam khi mà người dân đã quen với sự thống trị của thực dân.
Thay đổi biên giới Đức, Ba Lan và Liên Xô[sửa | sửa mã nguồn]
Sự thay đổi của biên giới Đức từ 1919 - 1945
Người Đức bị trục xuất khỏi Sudentenland
Lãnh thổ Liên Xô nới rộng ra Trung Âu và Đông Âu. Các chính quyền cộng sản được thành lập ở Đông Âu.
Sự thay đổi biên giới theo hướng của những quốc gia chiến thắng đã khiến hàng triệu người dân đột nhiên phải sống dưới sự cai quản của những kẻ địch cũ. Liên Xô đã tiếp quản những vùng Đức, Ba Lan, Phần Lan và Nhật Bản đã chiếm đóng trước đó. Số lượng người Đức bị trục xuất khỏi những vùng này, theo những điều khoản của Hội nghị Potsdam, là gần 15 triệu người, trong đó 11 triệu là từ các lãnh thổ Đức và 3,5 triệu người từ vùng Sudentenland. Ước đoán thương vong trong những vụ xua đuổi này là khoảng 1-2 triệu người thiệt mạng.
Ở Đông Âu, 4 triệu người Ba Lan bị đuổi khỏi những vùng mà quân Xô Viết mới chiếm đóng. Vùng ranh giới mới bị thay đổi này được lấy lại từ cuộc chiến tranh Nga-Ba Lan năm 1919-1921. Những thành phố của Ba Lan trước đó như L'vov nay nằm dưới quyền kiểm soát của chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Ukraina.
Bồi thường chiến phí và chất xám của Đức[sửa | sửa mã nguồn]
Đức đã phải bồi thường chiến tranh cho Anh, Pháp và Liên Xô, chủ yếu bằng các nhà máy tháo lắp, nhân công giá rẻ và than đá. Mức sống của người dân Đức bị hạ xuống tương đương với mức thời Đại khủng hoảng.[1]
Ngay sau khi phe Trục đầu hàng, Hoa Kỳ đã bắt đầu chương trình thu lại toàn bộ các phát minh và sáng chế khoa học ở Đức, kéo dài trong suốt 2 năm. John Gimbel đã kết luận chương trình "Bồi thường chất xám" của chính phủ Anh và Mỹ có tổng trị giá 10 tỉ USD, tương đương với 100 tỉ theo thời giá 2006.[2] Chính phủ Mỹ cũng sử dụng chương trình này để ngăn chặn Liên Xô làm điều tương tự với các nhà khoa học Đức. Sau khi đã tìm kiếm và lôi kéo được nhà khoa học Werner Heisenberg, người từng đoạt giải Nobel Vật Lý năm 1932, chính phủ Mỹ đã nói: "... Với chúng tôi, ông ấy còn đáng giá hơn 1/10 dân số Đức. Nếu rơi vào tay Liên Xô, có lẽ ông ấy đã trở thành một chiến lợi phẩm vô giá với họ."
Thành lập Liên Hợp Quốc[sửa | sửa mã nguồn]
Nhằm duy trì nền hòa bình mới lập lại trên thế giới,[3] lực lượng Đồng Minh đã chính thức thành lập Liên Hợp Quốc vào ngày 24 tháng 10 năm 1945 [4] và chọn Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tiêu chuẩn để cả nhân loại cùng hướng tới. Tuy nhiên Liên Bang Xô Viết đã từ chối ký vào bản tuyên ngôn, và Hoa Kỳ không chấp thuận những điều khoản về quyền phúc lợi xã hội - kinh tế
Câu trả lời của bạn: 21:04 14/12/2021
rong cuộc sống hàng ngày, trong phim ảnh hay các tác phẩm văn học, khi gặp tình huống vô cùng nguy cấp người ta thường dùng câu nói “Ngàn cân treo sợi tóc” để hình dung. Vậy câu nói này có nguồn gốc xuất xứ như thế nào?
(Tranh minh họa qua Kknews.cc)
Nguyên gốc của câu thành ngữ cổ: “Ngàn cân treo sợi tóc” là “Nhất phát thiên quân”. Thời cổ đại, “Quân” là đơn vị đo trọng lượng, bằng khoảng 30 cân ngày nay. “Nhất phát thiên quân” nghĩa là một sợi tóc treo một vật nặng cả ngàn quân. Từ cách nói này có thể hình dung ra tình cảnh cực kỳ nguy hiểm hoặc một tình thế vô cùng nguy cấp.
Liên quan đến xuất xứ của câu thành ngữ cổ này, có một điển cố được ghi chép trong cuốn “Hán thư. Mai Thặng truyện” của tác giả Ban Cố như sau:
Năm 151 TCN, Hán Cảnh Đế Lưu Khải lên ngôi Vua nhà Hán. Năm thứ 3, Ngô Vương Lưu Tị bởi vì bất mãn với việc triều đình tước giảm phong đất cho các chư hầu vương nên đã liên hợp với chư hầu vương Ngô, Sở, Triệu, Giao đông, Giao tây, Tế Nam, Tri châu… nổi binh làm phản. Đây chính là sự việc “Bát vương chi loạn” mà trong lịch sử có nói đến.
Lúc bấy giờ Mai Thặng, nhà văn nổi tiếng Thời Tây Hán, đang giữ chức Lang trung dưới trướng của Ngô Vương Lưu Tị đã ra sức phản đối Lưu Tị làm phản. Ông cũng dùng lời lẽ và hành động để can ngăn Lưu Tị. Ông dâng lên Lưu Tị một bức thư “Gián Ngô Vương thư”, trong thư dùng cách ví dụ, ngầm khuyên Lưu Tị không nên mạo hiểm.
Mai Thặng nói rằng: Tình thế nguy cấp giống như một vật nặng cả ngàn quân treo trên sợi dây lơ lửng trong không trung, phía trên thì cao không nhìn thấu, phía dưới là vực sâu vô cùng nguy hiểm. Loại tình cảnh này đến kẻ ngu xuẩn cũng biết là rất nguy hiểm. Trong lúc sinh tử tồn vong nguy cấp, nếu như ngài nghe lời nói thẳng thì có thể chuyển nguy thành an.
Nhưng Ngô Vương Lưu Tị không những không nghe lời khuyên can của Mai Thặng mà còn một mực ngấm ngầm chiêu binh mãi mã, chờ đợi thời cơ nổi loạn. Lời can gián không được tiếp nhận khiến Mai Thặng vô cùng thất vọng, ông bèn rời quê hương sang nước Lương làm môn khách của Lương Hiếu Vương.
Về sau, Ngô Vương đã tụ tập được lực lượng 6 nước chư hầu cùng làm phản. Nhưng do việc làm không được lòng dân nên cuối cùng đã bị thất bại. Đúng như Mai Thặng dự đoán, “Bát vương chi loạn” nhanh chóng bị dẹp tan.
Từ đó câu nói Mai Thặng khuyên can Ngô Vương Lưu Bì trở thành thành ngữ “Nhất phát thiên quân” (Ngàn cân treo sợi tóc). Thành ngữ này cũng được người đời sau gọi là “Thiên quân nhất phát”.
“Ngàn cân treo sợi tóc” không chỉ là câu nói để miêu tả hoàn cảnh một người gặp phải mà nó còn là câu nói người xưa dùng để cảnh tỉnh một người nào đó. Cổ ngữ nói: “Nhân thân nan đắc” (thân người khó được), ý chỉ sinh mạng của con người là quý giá nhất. Khi một người đang bị mê lạc bởi danh lợi, vật chất mà đánh mất lương tâm, bản chất lương thiện của mình thì cũng chính là đang khiến sinh mạng của mình rơi vào cảnh nguy hiểm. Khi người ấy càng bị lún sâu vào danh lợi vật chất mà không điều ác nào không làm, thì sinh mệnh chính là đã rơi vào cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Một người sáng suốt, có trí tuệ thâm sâu chính là người biết được ranh giới, biết được điểm dừng để bản thân không rơi vào cảnh nguy cấp ấy.
Bạn đang sao chép nội dung của Trí Thức VN. Nếu là cá nhân sử dụng, vui lòng ghi rõ nguồn trithucvn.org. Nếu là website, kênh truyền thông, vui lòng chỉ sử dụng nội dung khi có sự cho phép của Trí Thức VN.
Câu trả lời của bạn: 21:03 14/12/2021
rong cuộc sống hàng ngày, trong phim ảnh hay các tác phẩm văn học, khi gặp tình huống vô cùng nguy cấp người ta thường dùng câu nói “Ngàn cân treo sợi tóc” để hình dung. Vậy câu nói này có nguồn gốc xuất xứ như thế nào?
(Tranh minh họa qua Kknews.cc)
Nguyên gốc của câu thành ngữ cổ: “Ngàn cân treo sợi tóc” là “Nhất phát thiên quân”. Thời cổ đại, “Quân” là đơn vị đo trọng lượng, bằng khoảng 30 cân ngày nay. “Nhất phát thiên quân” nghĩa là một sợi tóc treo một vật nặng cả ngàn quân. Từ cách nói này có thể hình dung ra tình cảnh cực kỳ nguy hiểm hoặc một tình thế vô cùng nguy cấp.
Liên quan đến xuất xứ của câu thành ngữ cổ này, có một điển cố được ghi chép trong cuốn “Hán thư. Mai Thặng truyện” của tác giả Ban Cố như sau:
Năm 151 TCN, Hán Cảnh Đế Lưu Khải lên ngôi Vua nhà Hán. Năm thứ 3, Ngô Vương Lưu Tị bởi vì bất mãn với việc triều đình tước giảm phong đất cho các chư hầu vương nên đã liên hợp với chư hầu vương Ngô, Sở, Triệu, Giao đông, Giao tây, Tế Nam, Tri châu… nổi binh làm phản. Đây chính là sự việc “Bát vương chi loạn” mà trong lịch sử có nói đến.
Lúc bấy giờ Mai Thặng, nhà văn nổi tiếng Thời Tây Hán, đang giữ chức Lang trung dưới trướng của Ngô Vương Lưu Tị đã ra sức phản đối Lưu Tị làm phản. Ông cũng dùng lời lẽ và hành động để can ngăn Lưu Tị. Ông dâng lên Lưu Tị một bức thư “Gián Ngô Vương thư”, trong thư dùng cách ví dụ, ngầm khuyên Lưu Tị không nên mạo hiểm.
Mai Thặng nói rằng: Tình thế nguy cấp giống như một vật nặng cả ngàn quân treo trên sợi dây lơ lửng trong không trung, phía trên thì cao không nhìn thấu, phía dưới là vực sâu vô cùng nguy hiểm. Loại tình cảnh này đến kẻ ngu xuẩn cũng biết là rất nguy hiểm. Trong lúc sinh tử tồn vong nguy cấp, nếu như ngài nghe lời nói thẳng thì có thể chuyển nguy thành an.
Nhưng Ngô Vương Lưu Tị không những không nghe lời khuyên can của Mai Thặng mà còn một mực ngấm ngầm chiêu binh mãi mã, chờ đợi thời cơ nổi loạn. Lời can gián không được tiếp nhận khiến Mai Thặng vô cùng thất vọng, ông bèn rời quê hương sang nước Lương làm môn khách của Lương Hiếu Vương.
Về sau, Ngô Vương đã tụ tập được lực lượng 6 nước chư hầu cùng làm phản. Nhưng do việc làm không được lòng dân nên cuối cùng đã bị thất bại. Đúng như Mai Thặng dự đoán, “Bát vương chi loạn” nhanh chóng bị dẹp tan.
Từ đó câu nói Mai Thặng khuyên can Ngô Vương Lưu Bì trở thành thành ngữ “Nhất phát thiên quân” (Ngàn cân treo sợi tóc). Thành ngữ này cũng được người đời sau gọi là “Thiên quân nhất phát”.
“Ngàn cân treo sợi tóc” không chỉ là câu nói để miêu tả hoàn cảnh một người gặp phải mà nó còn là câu nói người xưa dùng để cảnh tỉnh một người nào đó. Cổ ngữ nói: “Nhân thân nan đắc” (thân người khó được), ý chỉ sinh mạng của con người là quý giá nhất. Khi một người đang bị mê lạc bởi danh lợi, vật chất mà đánh mất lương tâm, bản chất lương thiện của mình thì cũng chính là đang khiến sinh mạng của mình rơi vào cảnh nguy hiểm. Khi người ấy càng bị lún sâu vào danh lợi vật chất mà không điều ác nào không làm, thì sinh mệnh chính là đã rơi vào cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Một người sáng suốt, có trí tuệ thâm sâu chính là người biết được ranh giới, biết được điểm dừng để bản thân không rơi vào cảnh nguy cấp ấy.
Bạn đang sao chép nội dung của Trí Thức VN. Nếu là cá nhân sử dụng, vui lòng ghi rõ nguồn trithucvn.org. Nếu là website, kênh truyền thông, vui lòng chỉ sử dụng nội dung khi có sự cho phép của Trí Thức VN.
Câu trả lời của bạn: 19:44 14/12/2021
(TG) - Thế giới đương đại đang có những chuyển biến lớn lao với biết bao sự kiện diễn ra một cách nhanh chóng, vừa mang đến cho con người những thời cơ, vận hội và thắp sáng những hi vọng tương lai, lại vừa đặt ra trước mắt những nguy cơ, thách thức và những lo lắng bất an. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn nhận hết sức khoa học về tình hình thế giới hiện nay, từ đó đưa ra những chủ trương và cách thức để tận dụng cơ hội cũng như để vượt qua những thách thức không hề nhỏ.
Ảnh minh họa
NHỮNG CHUYỂN BIẾN MỚI CỦA TÌNH HÌNH THẾ GIỚI
Sự chuyển dịch quyền lực và điều chỉnh chiến lược
Thế giới đã chứng kiến 3 cuộc chuyển giao quyền lực lớn làm thay đổi cơ bản đời sống quốc tế trên mọi mặt, từ chính trị, quân sự đến kinh tế, văn hóa. Cuộc chuyển giao quyền lực thứ nhất là sự trỗi dậy của châu Âu từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII dưới tác động của cách mạng công nghiệp, thương mại và đầu tư. Cuộc chuyển giao thứ hai là sự trỗi dậy của Mỹ bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XIX, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945), Mỹ trở thành siêu cường chi phối trật tự quốc tế cho tới cuối thế kỷ XX. Bước vào thế kỷ XXI, do suy yếu tương đối của Mỹ và sự trỗi dậy mạnh mẽ của một số nước, nổi bật là Trung Quốc và Ấn Độ dẫn tới sự chuyển dịch quyền lực lần thứ thứ ba trên phạm vi toàn cầu. Đó là sự chuyển dịch trọng tâm quyền lực từ Tây sang Đông và dẫn tới sự thay đổi tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Sự chuyển dịch lần thứ ba này đã và đang tác động đến quan hệ quốc tế, tập hợp lực lượng giữa các nước không chỉ trong phạm vi các khu vực mà biến động sâu sắc tới toàn cầu. Sự chuyển dịch đó làm cho cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn.
Trong bối cảnh như vậy, sự cọ sát và cạnh tranh chiến lược, điều chỉnh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, quyết liệt, tác động sâu rộng đến an ninh, chính trị thế giới.
Mỹ với mục tiêu duy trì vị thế siêu cường duy nhất, tiếp tục đẩy mạnh chiến lược quân sự, an ninh toàn cầu bằng việc tập hợp lực lượng, điều chỉnh chiến lược với từng khu vực để khống chế, kìm hãm các thế lực thách thức “ngôi vị số 1” của Mỹ. Việc tỷ phú Donald Trump thắng cử và lên làm Tổng thống Mỹ là cú sốc lớn đối với chính trường Mỹ cũng như chính trị quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chính quyền mới của Tổng thống Biden vừa phải thận trọng trong việc tìm cách cân bằng lợi ích của Mỹ trên thế giới, vừa củng cố và tăng cường vị thế siêu cường của Mỹ, đưa nước Mỹ “vĩ đại trở lại”, đảm bảo Mỹ vẫn là quốc gia đặt ra luật chơi trong quan hệ quốc tế. Hiện tại, về kinh tế, Mỹ vẫn là nền kinh tế số một với 18.000 tỷ USD năm 2015, gần bằng 25% toàn cầu. Tài sản tư nhân của Mỹ còn cao hơn thế, đã vượt 90.000 tỷ USD bằng 34% toàn thế giới, giàu hơn cả khối Châu Âu và cao hơn nhiều so với có 9% của nền kinh tế Trung Quốc. Mỹ tiếp tục dẫn đầu trong cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư. Ngân sách quân sự của Mỹ hiện nay gần 700 tỷ USD/năm, chiếm gần 50% chi phí quân sự trên toàn cầu, bằng tổng ngân sách của 12 nước đứng sau. Chi tiêu cho nghiên cứu quốc phòng của Mỹ chiếm 50% tổng chi dành cho nghiên cứu của tất cả các nước khác.
Trung Quốc với sức mạnh được tăng lên sau nhiều năm phát triển, đang mở rộng không gian chiến lược để khẳng định vị thế cường quốc khu vực và quốc tế. Hiện thực hóa “giấc mộng Trung Hoa”, Trung Quốc triển khai nhiều biện pháp chiến lược, như tăng thực lực quân sự, chú trọng phát triển nhanh chóng lực lượng hải quân để mở rộng hoạt động ra hướng biển, gia tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, Đông Á, từng bước cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ ở Châu Á – Thái Bình Dương. Tiến bước xa hơn, Trung Quốc đẩy mạnh thực thi sáng kiến “Vành đai và con đường”, tham gia và thúc đẩy nhóm nước kinh tế mới nổi (BRICS) và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), hướng tới xây dựng cơ chế hợp tác lấy Trung Quốc là trọng tâm, động lực. Căng thẳng, cọ sát giữa Trung Quốc với Mỹ đã, đang và sẽ diễn ra tại nhiều khu vực trên thế giới, nhưng ở Châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Biển Đông theo hướng ngày càng gia tăng.
Tại Liên bang Nga, Tổng thống V.Putin đẩy mạnh triển khai chiến lược nhằm giành lại vị thế của mình tại các khu vực ảnh hưởng truyền thống. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh tế nhưng Nga vẫn khẳng định vai trò của một cường quốc. Trong cuộc khủng hoảng Ucraina mong muốn trở thành đồng minh NATO, Nga tìm mọi cách buộc Mỹ và phương Tây muốn giải quyết vấn đề Ucraina phải có sự tham gia của Nga. Đặc biệt, Nga chủ động sáp nhập Crưm đã gây biến động chính trị lớn ở Châu Âu khiến căng thẳng giữa Nga, Mỹ và phương Tây càng gay gắt. Mỹ và phương Tây áp dụng nhiều biện pháp trừng phạt về kinh tế và đe dọa về quân sự với Nga… Đối phó với các động thái của phương Tây, Nga tăng cường lực lượng, vũ khí, triển khai tấn công và giành nhiều thắng lợi trong việc sử dụng vũ khí công nghệ cao để không kích lực lượng Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) ở Xyri. Điều đó chứng tỏ, Nga có đủ lực và sẵn sàng bảo vệ lợi ích của mình, đồng thời buộc Mỹ và phương Tây phải tính tới vai trò của Nga trên thế giới.
Tổng thống V.Putin đẩy mạnh triển khai chiến lược nhằm giành lại vị thế của mình tại các khu vực ảnh hưởng truyền thống
Đến năm 2020, Nhật Bản vẫn là cường quốc kinh tế thế giới nhưng nhiều khả năng sẽ bị Ấn Độ thách thức ở vị trí số 3. Mục tiêu chiến lược của Nhật Bản là trở thành một cường quốc phát huy ảnh hưởng cả về kinh tế, chính trị và quân sự trong khu vực và trên thế giới. Chính phủ Nhật Bản triệt để phát huy công cụ “ngoại giao kinh tế”, sửa đổi Hiến pháp, gỡ bỏ ràng buộc nội bộ để tăng quyền tự do hành động trong một số vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, tăng cường quan hệ đồng minh với Mỹ, cùng Mỹ liên kết chặt chẽ và chia sẻ trách nhiệm. Ở khu vực, Nhật Bản tập trung xử lý quan hệ với Trung Quốc về kinh tế và căng thẳng gia tăng trong tranh chấp vùng biển. Nhật Bản quan tâm tới Đông Nam Á vì lợi ích chiến lược và lợi ích kinh tế, tham gia tích cực hơn các cơ chế hợp tác do ASEAN chủ đạo để có vai trò lớn hơn.
Nhiều dự báo cho thấy, Ấn Độ ngày càng rút ngắn khoảng cách với Nhật Bản để vượt lên thành nền kinh tế thứ 3 thế giới. Ấn Độ tiếp tục duy trì cân bằng quan hệ với các nước lớn, trước hết là Mỹ và Trung Quốc, nhưng cạnh tranh lợi ích với Trung Quốc sẽ gay gắt hơn. Ấn Độ tiếp tục khẳng định ảnh hưởng của mình ở khu vực Nam Á và Ấn Độ Dương, đẩy mạnh chiến lược “hướng Đông” và gia tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, quan tâm hơn tới an ninh biển và bảo vệ trật tự biển.
Tình hình EU trong những năm qua cho thấy chính sách đối ngoại đang hướng vào bên trong để xử lý các vấn đề nổi cộm như Brexit, khủng hoảng nợ công, khủng hoảng nhập cư, phòng chống khủng bố quốc tế, vì vậy sự quan tâm và nguồn lực dành cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có chiều hướng giảm đi. Tuy nhiên, EU vẫn duy trì quan hệ với các đối tác ở các khu vực khác trong đó có ASEAN.
Trong bối cảnh chung của thế giới, ASEAN tiếp tục giữ và khai thác vị trí địa chiến lược của mình, bảo đảm khả năng thích ứng và tự chủ trong quan hệ với các nước lớn. ASEAN ưu tiên triển khai tầm nhìn 2025 và các kế hoạch hợp tác trên 3 trụ cột chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội; thu hẹp khoảng cách phát triển và tăng cường kết nối; duy trì đoàn kết nội khối; tăng cường quan hệ đối ngoại với tất cả các đối tác ngoài khu vực, trong đó có EU.
Hội nghị các Nhà Lãnh đạo ASEAN (4/2021)
Như vậy, cạnh tranh quyền lực, lợi ích và vị thế chiến lược giữa các nước, đặc biệt là giữa Mỹ, Trung Quốc, Nga đang diễn ra ngày càng quyết liệt. Tình hình đó dẫn tới xu hướng liên minh, liên kết, tập hợp lực lượng và chạy đua vũ trang mang tính đối đầu có chiều hướng gia tăng. Từ đó sẽ nảy sinh những điểm nóng tại nhiều khu vực trên thế giới, làm cho tình hình an ninh thế giới có nhiều biến động.
Các vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống ngày càng nghiêm trọng
Ngày nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đều chịu tác động của vấn đề toàn cầu như khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy diệt, thảm họa thiên tai, thảm họa môi trường sinh thái, nghèo đói và dịch bệnh, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh mạng. Trong những vấn đề gay cấn và là những thách thức to lớn đó, cạn kiệt tài nguyên, nhất là năng lượng và nguồn nước đang là vấn đề nổi trội, tác động tới an ninh và phát triển của nhiều nước, nhiều khu vực. Nhu cầu về tài nguyên của các nền kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế của các nước đang phát triển sẽ tăng vọt dẫn tới việc cạnh tranh các nguồn tài nguyên vốn đã gay gắt sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.
Cùng với những vấn đề đe dọa an ninh toàn cầu nêu trên, an ninh biển cũng đang nổi lên trong thời gian tới. An ninh biển không chỉ liên quan đến an toàn các tuyến đường hàng hải mà ngày càng mở rộng ra các khía cạnh khác như an ninh môi trường biển, các nguồn lợi hải sản. Do tác động của việc gia tăng các tranh chấp biển, đảo và các chuyển biến của an ninh phi truyền thống khác, an ninh biển sẽ trở thành một trong những vấn đề chi phối quan hệ giữa các nước.
Trong một bài phát biểu của mình, nguyên Tổng Thư ký Liên hợp quốc Bakimun đã nhận xét: “chân trời có vẻ tối đi”. Thế giới đang ở trong thời kỳ có nhiều xáo động. Chủ nghĩa dân tộc nổi lên rất mạnh, chủ nghĩa phân hóa cũng đang phát triển và những tư tưởng cũng như hành vi cường quyền, cực đoan đang trỗi dậy. Trong khi các cuộc “Cách mạng màu” đã làm tan hoang một số nước tại Trung Đông, Bắc Phi; thì chủ nghĩa dân tộc cực đoan, khủng bố quốc tế chưa bao giờ phức tạp như bây giờ. Chủ nghĩa khủng bổ, điển hình là IS vẫn đang duy trì hoạt động tại Irắc, Xyri và ở một số nước khác, đã không chỉ gây ra những bất ổn và biến động chính trị, quốc phòng, an ninh tại nhiều nước mà còn lôi cuốn nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực vào “chảo lửa” này. Nguy hiểm hơn, các tổ chức khủng bố đang mở rộng địa bàn hoạt động sang châu Âu, châu Á gây mất an ninh, an toàn xã hội. Những vụ tấn công nhằm vào Pháp, Bỉ, Anh, Nga, lan sang một số nước Đông Nam Á như Philippin, Indonexia cho thấy tất cả những điều đó không thể giải quyết trong một sớm, một chiều, mà sẽ kéo dài, vô cùng phức tạp.
Trào lưu dân túy, xu hướng bảo hộ có chiều hướng gia tăng
Trào lưu dân túy trong thời gian gần đây đang ngày càng gia tăng, nổi lên mạnh mẽ ở các nước phát triển. Ở châu Âu, lần đầu tiên các đảng dân túy có mặt tại hầu hết các quốc hội, chiếm ít nhất 10% số phiếu ủng hộ tại 16 nghị viện châu Âu, là lực lượng lớn nhất trong quốc hội 6 nước (Hy Lạp, Hunggari, Italia, Ba Lan, Slovakia và Thụy Sỹ).
Trào lưu dân túy ở châu Âu có đặc điểm là phản đối xu hướng liên kết hội nhập, phê phán các chính sách ủng hộ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chống nhập cư, phản đối việc đặt lợi ích của EU lên trên chủ quyền và lợi ích quốc gia. Ở Mỹ, trào lưu dân túy cánh hữu nổi lên lôi kéo sự tham gia của nhiều thành viên Đảng Cộng hòa và đỉnh điểm là thắng lợi trong bầu cử Tổng thống D.Trump, đánh dấu việc lần đầu tiên một ứng cử viên theo đường lối dân túy nắm quyền lãnh đạo nước Mỹ với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết”. Trào lưu dân túy hiện đang gây ra một số tác động khá tiêu cực. Ở trong nước, các trào lưu dân túy cổ vũ cho việc xây dựng một nhà nước mạnh và chuyên chế, đủ năng lực để kiểm soát chặt chẽ lãnh thổ và biên giới quốc gia, bảo vệ lợi ích của người dân. Kết quả lại làm tăng thêm các mâu thuẫn nội bộ, đẩy tình trạng bất ổn lên cao, làm cho chính sách đối nội và đối ngoại bất định. Đối với bên ngoài, trào lưu này chống liên kết, hội nhập quốc tế và khu vực, gắn ưu tiên thậm chí ly khai khỏi các cơ chế đa phương như trường hợp Anh rút khỏi EU, Mỹ rút khỏi TPP và rút khỏi Hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu. Điều đó làm giảm hợp tác, tăng cạnh tranh, xung đột và do đó đưa đến những căng thẳng mới trong quan hệ quốc tế.
Gần đây xu hướng bảo hộ hoặc còn gọi là chủ nghĩa bảo hộ phát triển mạnh tại Mỹ và một số nước Tây Âu. Tại các nước này, những lực lượng ủng hộ tự do hóa kinh tế đang suy yếu và co lại, trong khi trào lưu phản kháng tự do hóa, phản kháng toàn cầu hóa lại trỗi dậy, nhất là sau sự kiện Brexit và bầu cử Tổng thống Mỹ. Thực hiện theo xu hướng đó, số lượng biện pháp bảo hộ tăng mạnh, lĩnh vực bảo hộ mở rộng với nhiều biện pháp phức tạp, tinh vi hơn. Theo thống kê của WTO, trong giai đoạn từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 10 năm 2016, các nước thành viên G20 đã áp dụng 85 biện pháp hạn chế thương mại. Bảo hộ không còn chỉ giới hạn trong lĩnh vực trao đổi hàng hóa dịch vụ, mà còn bao gồm cả tài chính, bảo hộ đầu tư, sở hữu trí tuệ, dịch vụ tự do lao động.
Việc quay trở lại chủ nghĩa bảo hộ, đóng cửa thị trường, hạn chế liên kết kinh tế, giảm sự ủng hộ đối với tự do thương mại đa phương, cản trở thương mại và đầu tư quốc tế đã và đang tạo ra hệ lụy tiêu cực đến tiến trình tăng trưởng kinh tế thế giới và làm chậm lại quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng trên thế giới. Xu hướng bảo hộ ở một số nền kinh tế lớn, đặc biệt là Mỹ sẽ làm tăng mâu thuẫn, bất đồng vốn có về một số vấn đề kinh tế, thương mại, do đó làm gia tăng va chạm lợi ích, không loại trừ có những hành động “trả đũa” dẫn tới chiến tranh thương mại, tỷ giá. Tình hình đó làm cho liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu đứng trước nhiều khó khăn, toàn cầu cầu hóa có xu hướng bị chậm lại.
THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC VỪA VÀ NHỎ, TRONG ĐÓ CÓ VIỆT NAM
Thời cơ
Các nước vừa và nhỏ trong đó có Việt Nam sẽ trở thành đối tượng lôi kéo, tranh giành của các nước lớn trên thế giới, không những về chính trị mà còn về kinh tế. Nếu các nước vừa và nhỏ biết tận dụng thời cơ này, củng cố đoàn kết, tăng cường tiếng nói trong đời sống chính trị quốc tế, cùng nhau đưa ra những “luật chơi” mới về chính trị, kinh tế để đỡ bị thiệt thòi, để được tôn trọng, bình đẳng, công bằng hơn, thì các nước lớn sẽ phải có những nhượng bộ, tuy không lớn.
Các nước vừa và nhỏ tăng cường quan hệ với tất cả các nước lớn, không nghiêng hẳn về bên nào, không để bị biến thành lệ thuộc vào nước lớn nào. Sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc đem lại sự thay đổi mạnh mẽ trong việc tập hợp lực lượng. Các nước không còn chú trọng gắn kết với nhau theo ý thức hệ như trước, mà dựa trên những lợi ích đan xen về kinh tế, chính trị, an ninh với mục tiêu chính là phục vụ cho lợi ích quốc gia, đồng thời bảo vệ lợi ích của mình trên thế giới. Chính điều này đã làm giảm ảnh hưởng của Mỹ, khó có thể buộc các nước phải phục tùng Mỹ như trong trật tự thế giới “hai cực” trước đây.
Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cục diện khu vực mới với sự can dự ngày càng mạnh mẽ của Mỹ, sự lớn mạnh của Trung Quốc và sự dính líu ngày càng sâu vào các vấn đề khu vực của các cường quốc trên thế giới mở ra thời cơ để các nước trong khu vực phát triển quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ cũng như với các cường quốc khác, tạo ra môi trường quốc tế rất thuận lợi cho tăng cường xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển của khu vực. Trong bối cảnh đó, đặc điểm về hợp tác và cạnh tranh giữa các nước lớn ở tầm toàn cầu cũng được thể hiện trong khu vực.
Mặc dù ASEAN còn có không ít khó khăn và hạn chế, nhưng nhiều khả năng ASEAN sẽ tiếp tục là nhân tố thúc đẩy hợp tác khu vực, vì:
Thứ nhất, nghi kỵ và thiếu niềm tin chính trị giữa các nước lớn tạo điều kiện cho ASEAN đóng vai trò “trung tâm” trong việc xây dựng các cơ chế hợp tác khu vực. Các nước lớn sẽ dễ dàng hơn trong việc xem xét các cơ chế hợp tác, đối thoại do ASEAN khởi xướng, điều phối.
Thứ hai, thành công của từng nước thành viên ASEAN trong sự nghiệp phát triển đất nước theo hướng hiện đại hóa và của cả khối ASEAN trong vai trò duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực làm cho ASEAN trở thành một trong những tổ chức khu vực tiếp tục có vai trò đối với trật tự ở khu vực Đông Á.
Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 trong bối cảnh khu vực phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Thứ ba, ASEAN đã nhất trí xây dựng Cộng đồng với ba trụ cột từ cuối năm 2015, theo đó, hợp tác sẽ đi vào thực chất hơn. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để ASEAN đóng vai trò hạt nhân trong hợp tác giữa ASEAN với các nước lớn. Do cạnh tranh chiến lược với nhau, nên các nước lớn đều ủng hộ vai trò của ASEAN trong nỗ lực xây dựng thể chế hợp tác khu vực. Các Diễn đàn ARF, ADMM+, Shangri-La, EAS,...là những cơ chế hợp tác - dù còn một số hạn chế - được xem là không thể thay thế ở châu Á - Thái Bình Dương. Nói cách khác, ASEAN đang đóng vai trò thúc đẩy hợp tác khu vực, tạo nên đặc điểm quan trọng ở châu Á - Thái Bình Dương là một khối các nước nhỏ được các nước lớn ủng hộ, đang chi phối tiến trình, hợp tác khu vực.
Do đó, để ASEAN có thể duy trì và tăng cường vai trò của mình ở Đông Á từ nay đến 2020 thì ASEAN phải thích ứng tốt hơn trước các thách thức mới nảy sinh, chủ động và hiệu quả hơn trong môi trường Đông Á đang thay đổi. Muốn vậy, ASEAN nói chung và từng thành viên ASEAN cần có một số điều chỉnh trong phương cách tham gia hợp tác ASEAN.
Như vậy, vai trò của các nước vừa và nhỏ sẽ được các nước lớn tranh thủ, đề cao nếu tập hợp lại trong một tổ chức khu vực có cơ chế hoạt động chặt chẽ, đoàn kết; có khả năng bảo vệ được quyền lợi của mình trong một trật tự thế giới đang hình thành, và trong cục diện thế giới, khu vực đầy biến động.
Thách thức
Tuy nhiên, cục diện thế giới theo xu thế “đa trung tâm” cũng như sự can dự của nhiều nước lớn đặt ra những thách thức đối với các nước vừa và nhỏ trong việc giữ vững độc lập, tự chủ.
Các nước lớn sẽ tìm cách tranh thủ, bành trướng thế lực bằng “quyền lực mềm”, buộc các nước lệ thuộc nhiều hơn thông qua các quan hệ kinh tế, đầu tư, thương mại, chuyển giao công nghệ, viện trợ, cho thuê lãnh thổ làm “đặc khu kinh tế”,... dẫn tới lệ thuộc về chính trị vào một “cực”, một “trung tâm” nhất định. Thách thức gay gắt đặt ra cho các nước vừa và nhỏ là tránh nguy cơ bị phụ thuộc, nhất là phụ thuộc kinh tế, vào một cường quốc.
Sự gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc một cách nhanh chóng đã gây ra quan ngại lớn cho nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Mỹ.
Một thách thức lớn khác đối với các nước vừa và nhỏ là phải tạo thế “cân bằng” tương đối trong quan hệ với các nước lớn, không quá thiên về bất kỳ nước lớn nào để trở thành đối đầu với cường quốc khác, hứng chịu xung đột vũ trang và chiến tranh. Kinh nghiệm cũng cho thấy, khi quyền lợi giữa các nước lớn bị cọ sát, có thể xảy ra xung đột, thì các nước lớn tìm cách chuyển hóa xung đột ấy sang các nước vừa và nhỏ. Nói cách khác, nước lớn sẽ tìm cách tiến hành “chiến tranh ủy nhiệm” như trong thế kỷ XX tại các nước vừa và nhỏ, nhất là ở nơi tập trung cao độ mâu thuẫn lợi ích giữa các nước lớn. Tình hình ấy đặt ra các nước vừa và nhỏ đứng trước thách thức là phải dành nguồn lực nhất định cho sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh đó, việc phải tìm cách giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống (thiên tai, dịch bệnh, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, lương thực, an ninh nguồn nước...) cũng như khắc phục những hệ lụy do các chính sách theo chủ nghĩa dân túy và xu hướng bảo hộ gây ra tiếp tục đặt ra những thách thức đối với các nước vừa và nhỏ không chỉ về nhân lực, vật lực, tài lực, mà còn phải có cách hiểu mới, cách ứng xử mới về khái niệm “chủ quyền quốc gia” thời kỳ hội nhập quốc tế, trong đó, các quốc gia ngày càng lệ thuộc nhau sâu sắc hơn.
Những biến động đang diễn ra trên thế giới đã dẫn tới nhiều hệ lụy to lớn đối với vấn đề hòa bình, ổn định và phát triển của nhân loại. Thực tế các vấn đề đó vẫn đã và đang tiềm ẩn những yếu tố có thể dẫn đến biến động phức tạp hơn và phạm vi rộng lớn hơn. Vì vậy, ngăn chặn xung đột, dập tắt những mầm mống gây ra biến động là vấn đề bức thiết đối với các quốc gia và với toàn thế giới trong đó các đảng chính trị đóng vai trò quan trọng.
Đảng Cộng sản Việt Nam “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế… Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(1).
Câu trả lời của bạn: 19:42 14/12/2021
Bước sang những năm 60 của thế kỉ XX, khi Mĩ gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nền kinh tế Nhật Bản có cơ hội mới để đạt được sự tăng trưởng “thần kì”, vượt qua Tây Âu, vươn lên đứng hàng thứ hai trong thế giới tư bản.
Về tổng sản phẩm quốc dân, năm 1950 Nhật Bản chỉ mới đạt 20 tỉ USD, nhưng đến năm 1968 đã đạt tới 183 tỉ USD…
Năm 1990, thu nhập bình quân theo đầu người đạt 23796 USD, vượt qua Mĩ và đứng thứ hai trên thế giới.
Về công nghiệp, trong những năm 1950-1960, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 15%, những năm 1961-1970 là 13,5%…
Về nông nghiệp, trong những năm 1967-1969, nhờ áp dụng những thành tựu khoa học – kĩ thuật hiện đại, đã cung cấp được hơn 80% nhu cầu lương thực trong nước…..
Kết quả là từ những năm 70 của thế kỉ XX, cùng với Mĩ và Tây Âu, Nhật Bản đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính của thế giới
Những nhân tố dẫn đến sự phát triển kinh tế Nhật Bản
Khách quan: sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới.
Những thành tựu tiến bộ của cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại…
Chủ quan:Truyền thống văn hóa, giáo dục lâu đời của người Nhật- Sẵn sàng tiếp thu những giá trị tiến bộ của thế giới nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc.
Hệ thống tổ chức quản lí có hiệu quả của các xí nghiệp, công ti Nhật Bản.
Vai trò quan trọng của nhà nước trong việc đề ra các chiến lược phát triển, nắm bắt đúng thời cơ và sự điều tiết cần thiết để đưa nền kinh tế liên tục tăng trưởng.
Con người Nhật Bản được đào tạo chu đáo, có ý chí vươn lên, cần cù lao động, đề cao kỉ luật và coi trọng tiết kiệm.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 19:41 14/12/2021
Trung du và miền núi Bắc Bộ có tài nguyên thiên nhiên đa dạng, có khả năng đa dạng hóa cơ cấu kinh tế, với thế mạnh về công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, thủy điện, nền nông nghiệp nhiệt đới có cả những sản phẩm cận nhiệt và ôn đới, phát triển du lịch.