dangcapPRO
Sắt đoàn
0
0
Bài 2: Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
[...] Nhưng thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh thần cố hữu của nòi giống. Vả chăng
tinh thần của nòi giống có cần gì phải bất di bất dịch. Sao phải bắt ngày hôm nay phải giống hệt hôm
qua? Nêu ra một mớ tính tỉnh, tư tưởng, tục lệ, rồi bảo: người Việt Nam phải như thế, là một điều tối
vô lý. Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này.
Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc
đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết.
Nhưng sự sống muôn hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn
sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng
bay một lần chín vạn dặm mới là sống. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã biểu hiện ra một cách dầy
đủ hơn cả trong những rung động tỉnh vi. Sau khi đọc đi đọc lại nhà thơ có tâm hồn phức tạp này, sau
khi đã tìm kiếm Xuân Diệu hoài, tôi thấy dây mới thực là Xuân Diệu.
Trong cảnh mùa thu rất quen với thi nhân Việt Nam, chỉ Xuân Diệu mới để ý đến:
cùng cái:
Những luồng run rẩy rung rinh lá ..
Cành biếc run run chân ý nhị.
Nghe đàn dưới trăng thu, chỉ Xuân
Diệu mới thấy:
Linh lung bóng sáng bỗng rung mình.
và mới có cái xôn xao gửi trong mấy hàng chữ lạ lùng này
Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời.
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận Trăng nhỏ Tầm Dương, nhạc nhờ người
Cũng chỉ Xuân Diệu mới tìm được nơi đồng quê cái cảnh:
Máy biếc về dấu bay gấp gấp,
Con có trên ruộng cảnh phân vân
Từ con có của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con có của Xuân Diệu không bay mà cánh
phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới.
lai:
hoi
Cho đến khi Xuân Diệu yếu, trong tỉnh yêu của người cũng có cái gì đó rung rinh. Người turong
Riryu nơi mắt và nhìn khi trăm thi
Giấm trong làng và khi đứng ch ng
Và nhạc phản dưới chân mừng sánh bước
Và tơ giăng trong lời nhỏ khơi ngôi,
Tà áo mới cũng say mùi gió nước
Rặng mi dài xáo động ảnh dương vui [...]
(Trích Một thời đại trong thì ca, in trong Thi Nhân Việt Nam,
Hoài Thanh Hoài Chân, Nxb Văn học, Hà Nội 2012)
Câu I. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích là gì?
Câu 2. Đoạn trích trên bàn về vấn đề gì?
Câu 3. Để tăng tính thuyết phục, tác giả đã sử dụng cách nào ?
Câu 4. Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong câu: “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời,
sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình
Câu 5. Đặc điểm nào của thơ Xuân Diệu dẫn đến nhận định của tác giả “đây mới thực sự là Xuân
Dieu
Câu 7. Mục đích của tác giả ở bài viết trên là gì?
Câu 8. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong câu văn sau “Không cần phải là con hổ ngự
trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sống""
Câu 9: Ghi lại một câu hỏi, một câu phủ định, một câu kể trong phần trích trên?
Câu 10: Đọc các câu văn: " Xuân Diệu say đắm tình yêu say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống
cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng
nàn, tỉa thiết
a. Ghi lại các từ lấy trong các câu văn trên.
b. Tìm hai từ tượng hình trong các câu văn trên.
Câu 11. Em hiểu như thế nào là sự “rung động tỉnh vì" mà tác giả nói tới trong đoạn trích?
Câu 12. Từ nhận định của tác giả về thơ Xuân Diệu: "Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời,
sống vội vàng, nắng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình", em rút ra được bài
học gì cho bản thân mình? Lí giải.