Quảng cáo
2 câu trả lời 198
Ngày nay, nạn buôn người hay mua bán người đã trở thành một vấn nạn toàn cầu. Phát biểu tại Lễ mít tinh hưởng ứng Ngày toàn dân phòng, chống mua bán người (30/7) năm 2020, Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình nhấn mạnh: “Mua bán người là tội phạm có nguồn thu lợi bất chính cao thứ 3, sau tội phạm ma túy và mua bán vũ khí. Nạn nhân phải chịu những tổn thất to lớn về tâm, sinh lý. Hậu quả không dừng lại ở cá nhân, gia đình, mà còn ảnh hưởng đến xã hội, tiềm ẩn nguy cơ đối với an ninh chính trị xã hội”.
Ở nước ta, hiện nay tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều loại tội phạm mới, tội phạm xuyên quốc gia, có nhiều vụ đặc biệt nghiêm trọng. Về tội phạm mua bán người, trong 6 tháng đầu năm 2020, trên toàn quốc phát hiện 60 vụ, liên quan đến 85 đối tượng, lừa bán 90 nạn nhân (giảm 31,5% số vụ, tăng 40% số đối tượng và giảm 39,7% số nạn nhân so với cùng kỳ 2019). Nạn nhân của tội phạm mua bán người đa số là phụ nữ và trẻ em. Thủ đoạn của tội phạm mua bán người phổ biến vẫn là lừa đi tìm việc làm thu nhập cao, đi thăm thân, du lịch hoặc làm quen, giả vờ yêu đương, sau đó đưa nạn nhân lên các tỉnh biên giới rồi bán cho các đối tượng người Trung Quốc lấy làm vợ hoặc ép làm gái mại dâm. Gần đây, còn xuất nhiện thêm hình thức mua bán phụ nữ mang thai và đưa ra nước ngoài sinh con để bán trẻ sơ sinh… Các đối tượng đã lợi dụng triệt để sự thiếu hiểu biết, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn của nạn nhân để thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, trong điều kiện bùng nổ mạng xã hội và sự phổ biến của internet, ngày càng nhiều đối tượng phạm tội thông qua các mạng xã hội như Facebook, Zalo... để liên lạc, làm quen với nạn nhân, sau đó nhờ các đối tượng quen biết trên địa bàn đưa nạn nhân lên khu vực biên giới, điều này giúp hạn chế tối đa việc tiếp xúc với nạn nhân; xu hướng tiếp cận này được các đối tượng phạm tội sử dụng ngày càng nhiều khiến công tác phát hiện, phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn của các lực lượng chức năng gặp nhiều khó khăn.
Đối tượng phạm tội mua bán người ở hầu hết các độ tuổi, số đối tượng có độ tuổi trên 30 tuổi chiếm đa số. Các đối tượng phạm tội mua bán người có trình độ văn hóa thấp, có nhiều thành phần nghề nghiệp khác nhau. Hầu hết là những đối tượng có kiến thức xã hội, am hiểu xã hội và thường là người thông thuộc các khu vực biên giới, cửa khẩu, đường tiểu ngạch, đồng thời am hiểu phong tục, tập quán của người dân…; đối tượng hoạt động băng nhóm, có tiền án, tiền sự. Trong những năm qua, tội phạm mua bán người trên các tuyến biên giới diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng ở Việt Nam nói chung và các tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng. Đặc biệt, thời gian gần đây trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc, phát hiện một số đối tượng sau khi sang Trung Quốc lấy chồng trở về móc nối với một số đối tượng ở địa phương đưa người sang Trung Quốc bán vào các động mại dâm hoặc hôn nhân trái phép. Một số đối tượng xấu giả danh là Công an, Biên phòng trên mạng xã hội Zalo, Facebook… để kết bạn làm quen phụ nữ, hứa hẹn, sau đó, lừa bán sang Trung Quốc...
Để có góc nhìn khái quát về tình hình tội phạm mua bán người, cần có sự đánh giá về nguyên nhân gây phát sinh và gia tăng loại hình tội phạm này.
Vị trí địa lý: Đường biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc trải dài qua 07 tỉnh thành, với gần 1.500 km, tiếp giáp với 2 nước Lào và Trung Quốc, có cửa khẩu và nhiều đường tiểu ngạch qua lại biên giới, núi liền núi, sông liền sông, rất thuận lợi cho nhân dân nhân dân hai bên biên giới qua lại làm ăn, buôn bán, thăm thân. Nhưng đây cũng là nơi tội phạm buôn người lợi dụng để hoạt động. Do đó, hoạt động mua bán người sang các nước lân cận, có đường biên giới giáp ranh có chiều hướng gia tăng. các đối tượng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi nhằm che mắt các cơ quan chức năng để đưa nạn nhân qua biên giới. Trong đó, tỷ lệ phụ nữ, trẻ em bị bán sang Trung Quốc cao. Nguyên nhân là do Trung Quốc đang thực hiện nhiều cơ chế thúc đẩy phát triển kinh tế, xây dựng hạ tầng ở khu vực biên giới đối diện, khuyến khích di giãn dân ra cư trú ở sát biên giới, phát sinh nhiều người tham gia và thu hút người dân sang lao động làm thuê cùng với tình trạng mất cân bằng về giới tính, tỉ lệ chênh lệch nam nhiều hơn nữ rất cao, nhất là số nam giới trọng độ tuổi kết hôn không có khả năng lấy vợ trong nước, có nhu cầu lấy vợ Việt Nam.
Sự phát triển của mạng viễn thông, mạng xã hội: Phương thức, thủ đoạn của tội phạm mua bán người diễn ra ngày càng tinh vi, xảo quyệt, có tổ chức, có sự cấu kết chặt chẽ giữa người mua và người bán, môi giới, dẫn dắt, hình thành các đường dây tội phạm liên tỉnh và xuyên quốc gia. Khác với trước đây, việc tiếp cận và làm quen với nạn nhân phải gặp gỡ trực tiếp để ru rê, thì hiện nay, ngày càng nhiều đối tượng phạm tội thông qua mạng viễn thông, các trang, ứng dụng mạng xã hội để tiếp cận nạn nhân, hạn chế tối đa việc tiếp xúc trực tiếp với nạn nhân, nên công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh ngăn chặn của lực lượng chức năng gặp rất nhiều khó khăn.
Sự chênh lệch về kinh tế xã hội: Sự chênh lệch về kinh tế xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng muôn bán người hiện nay. Đa số các vụ mua bán người diễn ra ở những vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển, có nhiều khó khăn về đường xá và phương tiện đi lại. Nghề nghiệp của các nạn nhân trước khi bị lừa bán ra nước ngoài chủ yếu là làm ruộng và thất nghiệp, cuộc sống của họ không có đủ thông tin xã hội. Do đó, họ dễ dàng bị lợi dụng và cả tin vào các đối tượng phạm tội, trở thành nạn nhận của tội phạm mua bán người.
Hiện nay, tình hình tội phạm mua bán người có nhiều diễn biến phức tạp, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Để làm tốt công tác phòng, chống loại hình tội phạm mua bán người trước hết cần phải nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, tập trung tuyên truyền sâu rộng đến những đối tượng có nguy cơ cao, những nơi có hoàn cảnh đặc biệt, sử dụng nhiều lao động nữ, có nhiều phụ nữ lấy chồng nước ngoài,… không để họ trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người. Chú trọng tới việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước như: Luật Hình sự; Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Trẻ em,...đặc biệt là tội phạm mua bán người dưới 16 tuổi được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Kịp thời phát hiện, cảnh báo phương thức thủ đoạn hoạt động của tội phạm mua bán người, các kinh nghiệm, biện pháp phòng ngừa, kết quả đấu tranh, các gương điển hình tiên tiến, mô hình có hiệu quả về phòng, chống tội phạm mua bán người. Tuyên truyền sâu rộng trên địa bàn về các hộp thư tố giác tội phạm để thu thập tin báo, tố giác về các đối tượng có biểu hiện nghi vấn hoạt động mua bán người tại địa bàn. Thiết lập đường dây nóng (điện thoại, email...) thu thập các thông tin tố giác tội phạm mua bán người. Tái hòa nhập cộng đồng cho những phụ nữ, trẻ em bị mua bán trở về, phối hợp với các tổ chức, đoàn thể như: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Ngành Lao động, Thương binh và Xã hội... tạo điều kiện giúp đỡ họ nhanh chóng khắc phục những khó khăn, bất cập để họ ổn định cuộc sống
Như đã báo cáo trong 5 năm qua, bọn buôn người bóc lột các nạn nhân trong nước và nước ngoài ở Việt Nam và bóc lột các nạn nhân từ Việt Nam đi ra nước ngoài. Đàn ông và phụ nữ Việt Nam di cư ra nước ngoài để lao động không chính thức hoặc thông qua các công ty tuyển dụng lao động của nhà nước hoặc các công ty tuyển dụng lao động do nhà nước quản lý. Một số công ty tuyển dụng không hồi đáp các yêu cầu trợ giúp của người lao động trong những trường hợp họ bị bóc lột, và một số công ty thu phí quá cao khiến cho người lao động dễ bị rơi vào tình trạng buộc phải lao động trừ nợ. Bọn buôn người biến các nạn nhân trở thành đối tượng của cưỡng bức lao động trong các ngành xây dựng, ngư nghiệp, nông nghiệp, khai thác mỏ, công nghiệp hàng hải, khai thác gỗ và công nghiệp chế tạo, chủ yếu ở Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Lào, Nhật Bản, và một số vùng ở châu Âu và Vương quốc Anh với mức độ ít hơn (ví dụ trong các cửa hàng làm móng và các trang trại trồng cần sa). Ngày càng có nhiều báo cáo về nạn nhân buôn người là người lao động Việt Nam ở châu Âu lục địa, Trung Đông, và trong các ngành công nghiệp hàng hải Thái Bình Dương. Bọn buôn người bóc lột phụ nữ và trẻ em Việt Nam là nạn nhân của tình trạng buôn bán nô lệ tình dục ra nước ngoài; nhiều người bị lừa gạt về các cơ hội lao động và sau đó bị bán cho các nhà thổ ở vùng biên giới Trung Quốc, Campuchia, Lào và các nước châu Á khác. Một số phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài để kết hôn theo môi giới quốc tế hoặc để làm việc trong các nhà hàng, cơ sở mát-xa, quán bar karaoke – bao gồm ở các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Ả rập Xê út, Singapore, và Đài Loan – trở thành đối tượng bị cưỡng bức lao động trong ngành giúp việc gia đình hoặc buôn bán người vì mục đích tình dục. Bọn buôn người ngày càng gia tăng việc sử dụng internet, các trang web chơi game và đặc biệt là mạng xã hội để nhử các nạn nhân, lan rộng hoạt động buôn người, và kiểm soát nạn nhân bằng cách hạn chế họ truy cập mạng xã hội, mạo danh họ phát tán thông tin sai lệch trên mạng. Đàn ông thường dụ dỗ phụ nữ trẻ và trẻ em gái vào các mối quan hệ hẹn hò trên mạng và thuyết phục họ ra nước ngoài, sau đó biến họ thành nạn nhân buôn bán người vì mục đích cưỡng bức lao động hoặc mại dâm. Có báo cáo về việc một kẻ buôn người đăng hình ảnh của mình giống như cảnh sát trên mạng xã hội để chiếm được lòng tin của nạn nhân. Trong quá trình di cư, các băng nhóm tội phạm ở châu Âu và bọn buôn người thường bóc lột nạn nhân Việt Nam dưới hình thức cưỡng bức lao động hoặc bóc lột tình dục trước khi nạn nhân đến được đích cuối cùng. Trong năm 2020, chính phủ Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ báo cáo về tình trạng gia tăng số nạn nhân buôn người là phụ nữ và trẻ em gái người Campuchia quá cảnh Việt Nam để sang Trung Quốc.
Ở trong nước, bọn buôn người đôi khi lại chính là cha mẹ, thành viên trong gia đình, hoặc là các mạng lưới buôn người quy mô nhỏ; những đối tượng này bóc lột đàn ông, phụ nữ và trẻ em Việt Nam – trong đó có trẻ em lang thang và trẻ em khuyết tật – biến họ thành nạn nhân của cưỡng bức lao động, mặc dù có rất ít thông tin về các vụ việc này. Một nghiên cứu cho thấy 5.6% trẻ em Việt Nam có thể đã từng bị cưỡng bức lao động hoặc bóc lột có dấu hiệu của buôn người hoặc trong bối cảnh di cư, trong đó trẻ em nông thôn và các cộng đồng nghèo đói có nguy cơ đặc biệt cao. Bọn buôn người bóc lột trẻ em và người đã thành niên dưới hình thức cưỡng bức lao động trong ngành may mặc, tại đó công nhân bị ép buộc làm việc thông qua hình thức đe dọa và hăm dọa. Bọn buôn người ép buộc trẻ em hành nghề bán rong và ăn xin trên đường phố ở các trung tâm đô thị lớn. Bọn buôn người biến một số trẻ em trở thành nạn nhân của cưỡng bức lao động hoặc lao động để trừ nợ trong các nhà máy gạch, các gia đình ở đô thị và các mỏ vàng ở nông thôn do tư nhân khai thác. Bọn buôn bán nô lệ tình dục nhắm mục tiêu vào nhiều trẻ em đến từ các vùng nông thôn nghèo và ngày càng nhiều phụ nữ đến từ tầng lớp trung lưu và khu vực đô thị. Bọn buôn người cũng ngày càng gia tăng bóc lột trẻ em gái thuộc các cộng đồng người dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, bao gồm trong ngành mại dâm và giúp việc gia đình, bằng cách lợi dụng tập quán bắt cóc cô dâu truyền thống để thực hiện hoạt động tội phạm của chúng. Trong năm 2020, các vấn đề liên quan đến đại dịch Covid-19 như giảm cơ hội việc làm, hạn chế đi lại, và các yếu tố gây sức ép về kinh tế-xã hội khác đã làm tăng nguy cơ xảy ra buôn bán người, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em ở các vùng nông thôn và vùng dân tộc thiểu số. Khách du lịch tình dục trẻ em – được cho là đến từ châu Á, Vương quốc Anh và các nước khác ở châu Âu, Úc, Canada và Hoa Kỳ – có các hành vi bóc lột trẻ em ở Việt Nam. Chính phủ Bắc Triều Tiên có thể đã cưỡng bức người lao động Bắc Triều Tiên làm việc ở Việt Nam.
Trong các năm trước đây, đã có các báo cáo về việc một số cán bộ nhà nước Việt Nam, chủ yếu ở cấp xã và thôn, đồng lõa và giúp sức cho việc buôn bán hoặc bóc lột nạn nhân bằng cách nhận hối lộ của bọn buôn người, bỏ qua các dấu hiệu cảnh báo buôn người, và moi tiền để đổi lấy việc nạn nhân được đoàn tụ với gia đình.Năm 2019, chính phủ công bố đã chấm dứt tình trạng cưỡng bức lao động đối với người sử dụng ma túy tại 105 trung tâm cai nghiện. Một pháp lệnh năm 2014 yêu cầu việc đưa người sử dụng ma túy vào cai nghiện trong các trung tâm cai nghiện bắt buộc phải thông qua quy trình tự tố tụng tư pháp; pháp lệnh này cũng quy định người bị giữ trong các trung tâm đó chỉ phải làm việc tối đa bốn giờ một ngày. Đã có các báo cáo trước đây về việc tù nhân, trong đó có những người bất đồng chính kiến về chính trị và tôn giáo, bị cưỡng bức lao động trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp chế tạo và các ngành nghề độc hại như chế biến hạt điều.
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK1 46698
-
Hỏi từ APP VIETJACK32418
-
Hỏi từ APP VIETJACK16971